Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.74 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................1
I. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế......1
1. Các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế......................2
2. Trách nhiệm của bệnh viện, cơ sở y tế trong vấn đề bảo vệ môi trường đối
với bệnh viện, cơ sở y tế........................................................................................4
3. Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong vấn đề bảo vệ môi trường đối
với bệnh viện, cơ sở y tế........................................................................................5
4. Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ
sở y tế.....................................................................................................................6
II. Thực tiễn áp dụng các quy định về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện,
cơ sở y tế....................................................................................................................7
1. Những thành tựu đạt được.................................................................................7
2. Những hạn chế còn tồn tại................................................................................8
III. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế.......9
1. Giải pháp pháp lý..............................................................................................9
2. Giải pháp khác..................................................................................................9
KẾT LUẬN................................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................11

0


MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong thời đại với sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế thị trường. Khi trình độ kinh tế xã hội và dân trí của con người ngày càng
phát triển thì nhu cầu của con người về việc chăm sóc sức khỏa của mình ngày
càng được chú trọng một cách chu đáo hơn. Kéo theo đó là việc các bệnh viện và
các cơ sở y tế khám chữa bệnh thải ra một lượng chất thải y tế khá lớn vì xu thế
sử dụng sản phẩm chỉ dung một lần. chất thải y tế là một trong những chất thải


nguy hại vào bậc nhất, việc xử lý các loại chất thải này rất phức tạp. Vậy để đánh
giá đúng mức tác hại của chất thải y tế đối với môi trường như thế nào thì sau đây
em xin đi vào đề tài: “ Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy
định về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế.”
NỘI DUNG
I. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ
sở y tế:
1. Các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế.
Khoản 1 Điều 39 Luật BVMT 2005 quy định bệnh viện và các cơ sở y tế
khác phải thực hiện các yêu cầu bảo vệ môi trường. Các yêu cầu này chủ yếu liên
quan đến vấn đề quản lý chất thải y tế. Sau đây, bài viết xin được trình bày một số
vấn đề chung về chất thải y tế và quản lý chất thải y tế.
Thứ nhất, về khái niệm chất thải y tế
Chất thải y tế hay còn gọi là chất thải bệnh viện nằm trong nhóm liệt kê
danh mục các loại chất thải nguy hại. Theo Quy chế quản lý chất thải y tế được
ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 (sau đây
gọi là Quy chế quản lý chất thải y tế) của Bộ trưởng Bộ Y tế thì: “Chất thải y tế là
vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế
nguy hại và chất thải thông thường” (khoản 1 Điều 3), “chất thải y tế nguy hại là
chất thải y tế chứa yếu tố nguy hại cho sức khỏe con người và môi trường như dễ
lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính
nguy hại khác nếu những chất thải này không được tiêu hủy an toàn” (khoản 2
Điều 3).
Chất thải y tế có thể phát sinh từ thực tế y khoa, nha khoa, thú y hoặc tương
tự và các chất thải phát sinh trong các bệnh việc hoặc các cơ sở khác trong quá
trình nghiên cứu chữa chạy cho các bệnh nhân hoặc các dự án nghiên cứu. Các
hoạt động này sản sinh ra một lượng chất thải y tế khổng lồ, trong đó ảnh hưởng
tiêu cực nhất là chất thải y tế nguy hại. Những chất thải này không được tiêu hủy
sẽ gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe con người.
1



Thứ hai, những vấn đề chung về quản lý chất thải y tế
Khoản 3 Điều 3 Quy chế quản lý chất thải y tế quy định: “Quản lý chất thải
y tế là hoạt động quản lý việc phân loại, xử lý ban đầu, thu gom, vận chuyển, lưu
giữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải y tế và kiểm tra,
giám sát việc thực hiện”. Các chu trình này không đứng riêng lẻ mà gắn kết với
nhau. Để tiêu hủy triệt để chất thải y tế thì không thể bỏ sót bất cứ khâu nào tử
thu gom, vận chuyển, lưu giữ đến xử lý, tiêu hủy.
Quy chế quản lý chất thải y tế cũng quy định:
Thu gom chất thải tại nơi phát sinh là quá trình phân loại, tập hợp, đóng
gói và lưu giữ tạm thời chất thải tại địa điểm phát sinh chất thải trong cơ sở y tế
(khoản 7 Điều 3); Vận chuyển chất thải là quá trình chuyên chở chất thải từ nơi
phát sinh, tới nơi xử lý ban đầu, lưu giữ, tiêu hủy (khoản 8 Điều 3); Xử lý ban
đầu là quá trình khử khuẩn hoặc tiệt khuẩn các chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao
tại nơi chất thải phát sinh trước khi vận chuyển tới nơi lưu giữ hoặc tiêu hủy
(khoản 9 Điều 3); Xử lý và tiêu hủy chất thải là quá trình sử dụng các công nghệ
nhằm làm mất khả năng gây nguy hại của chất thải đối với sức khỏe con người và
môi trường (khoản 10 Điều 3).
Thứ ba, các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt
động quản lý chất thải y tế
Hoạt động quản lý chất thải y tế không thể đạt được hiệu quả cao nếu thiếu
những quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia vào chu trình
xử lý chất thải y tế. Cụ thể như sau:
Một là, đối với chủ nguồn thải:
Chủ nguồn thải chất y tế là tổ chức, cá nhân có hành vi phát thải vào môi
trường. Chủ nguồn thải y tế là các cơ sở y tế có phát sinh chất thải y tế. Chủ
nguồn thải phải có trách nhiệm giảm thiểu và phân loại ngay từ nguồn. Việc
“giảm thiểu” là trách nhiệm đứng hàng cao nhất trong chu trình quản lý chất thải
y tế. Nó được xác định là giảm tới mức tối thiểu lượng chất thải y tế sinh ra. Giảm

thiểu chất thải cũng có nghĩa là phải sử dụng tất cả những nguồn tài nguyên vốn
có và tập trung vào ngăn ngừa chất thải1. Ngoài ra việc phân loại chất thải y tế với
chất thải thông thường phát sinh trong các hoạt động y tế cũng là một trách nhiệm
mà chủ nguồn thải phải thực hiện nghiêm túc. Theo quy định của Quy chế quản lý
chất thải y tế, các chất thải y tế nguy hại không được để lẫn trong chất thải thông
thường. Nếu vô tình để lẫn chất thải y tế nguy hại vào chất thải thông thường thì
1

Phạm Kim Thoa, Một số vấn đề pháp lý về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, 2004, trang
24.

2


hỗn hợp chất thải đó phải được xử lý và tiêu hủy như chất thải y tế nguy hại
(khoản 3 Điều 14). Các chủ nguồn thải phải luôn luôn có biện pháp đề phòng
cảnh giác và cần thiết có phương án đối phó với các sự cố xảy ra trong chu trình
xử lý chất thải y tế.
Hai là, đối với chủ thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế:
Chủ thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế là tổ chức, cá nhân có điều
kiện thực hiện việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế và có đăng ký thực
hiện việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế (được phép thực hiện việc
thu gom, vận chuyển, lưu giữ). Việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ được quy định
cụ thể tại chương 4 từ Điều 13 đến Điều 16 của Quy chế quản lý chất thải y tế.
Đặc biệt khâu vận chuyển được quy định thêm tại chương 5 của Quy chế này,
theo đó các cơ sở y tế ký hợp đồng với cơ sở có tư cách pháp nhân trong việc vận
chuyển và tiêu hủy chất thải. Trường hợp địa phương chưa có cơ sở đủ tư cách
pháp nhân vận chuyển và tiêu hủy chất thải y tế thì cơ sở y tế phải báo cáo với
chính quyền địa phương để giải quyết.
Ba là, đối với chủ xử lý, tiêu hủy chất thải y tế:

Chủ xử lý, tiêu hủy chất thải y tế là các tổ chức, cá nhân được phép thực
hiện việc xử lý, tiêu hủy chất thải y tế. Quy chế quản lý chất thải y tế đã quy định
cụ thể việc xử lý, tiêu hủy chất thải y tế đối với từng loại chất thải riêng biệt như
chất thải rắn, nước thải, khí thải.
Như vậy, có thể thấy, trách nhiệm xử lý chất thải y tế trước hết thuộc về
người phát thải, đây là chủ thể đứng đầu trong việc thực hiện các nghĩa vụ liên
quan đến trách nhiệm xử lý triệt để và toàn vẹn chất thải y tế. Các chủ thể còn lại
là những chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình xử lý chất thải y tế. Việc thu
gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý đều phải tiến hành theo quy định của pháp luật
và không được phép có bất cứ sự tùy tiện nào. Vì vậy, với tư cách của mình, các
đối tượng tham gia vào quá trình tiêu hủy chất thải y tế phải tuân thủ nghiêm ngặt
và triệt để.
2. Trách nhiệm của bệnh viện, cơ sở y tế trong vấn đề bảo vệ môi trường
đối với bệnh viện, cơ sở y tế
Hoạt động khám chữa bệnh tại các bệnh viện, cơ sở y tế luôn sản sinh ra
lượng rác thải lớn nguy hại. Khoản 2, 3 và 4 Điều 39 Luật BVMT quy định về
trách nhiệm của bệnh viện, cơ sở y tế trong vấn đề bảo vệ môi trường đối với
bệnh viện, cơ sở y tế như sau:

3


Một là, bệnh viện, cơ sở y tế khác điều trị các bệnh truyền nhiễm phải có
các biện pháp cách ly khu dân cư, các nguồn nước. Bệnh viện, cơ sở y tế khác xây
dựng mới điều trị các bệnh truyền nhiễm không được đặt trong khu dân cư.
Bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền
nhiễm năm 2007 được định nghĩa là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ
người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm (khoản 1
Điều 2). Khi điều trị những loại bệnh này, bệnh viện và các cơ sở y tế cần phải có
các biện pháp cách ly khu dân cư, nguồn nước theo quy định của pháp luật hiện

hành.
Hai là, các cơ sở chiếu xạ, dụng cụ thiết bị y tế có sử dụng chất phóng xạ
phải đáp ứng các yêu cầu về an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ quy định tại Điều
89 của Luật BVMT và pháp luật về an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ. Các tổ
chức, cá nhân được quy định tại điều luật này phải tuân thủ các quy định của pháp
luật về an toàn hạt nhân, an toàn bức xạ điện từ. An toàn hạt nhân, an toàn bức xạ
phải nhằm các mục đích: Không gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật;
Không gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến các thành phần môi trường;
Không gây sự cố, thảm họa môi trường (khoản 3 Điều 89 Luật BVMT).
Ba là, người lao động trong bệnh viện, cơ sở y tế khác có hoạt động liên
quan đến chất thải y tế phải được trang bị quần áo, thiết bị bảo đảm an toàn, tránh
lây nhiễm dịch bệnh từ chất thải y tế.
3. Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong vấn đề bảo vệ môi trường
đối với bệnh viện, cơ sở y tế
Khoản 5 Điều 39 Luật BVMT quy định: “Bộ Y tế chủ trì phối hợp với bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có liên
quan chỉ đạo, tổ chức việc thống kê nguồn thải, đánh giá mức độ ô nhiễm của các
bệnh viện, cơ sở y tế khác; đề ra biện pháp giải quyết ô nhiễm và hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện và cơ sở
y tế khác”.
Điều 32 Quy chế quản lý chất thải y tế cũng quy định: “Bộ Y tế xây dựng
chương trình, tài liệu đào tạo về quản lý chất thải y tế để áp dụng thống nhất trong
các cơ sở y tế; Đưa nội dung quản lý chất thải y tế vào chương trình đào tạo trong
các trường y, dược; Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến và phù hợp cho
việc xử lý và tiêu hủy chất thải y tế.
Các cơ sở y tế tổ chức hướng dẫn thực hiện Quy chế quản lý chất thải y tế
cho tất cả cán bộ viên chức của đơn vị và các đối tượng có liên quan, hướng dẫn
người bệnh và gia đình người bệnh việc phân loại chất thải y tế theo quy định”.
4



Về trách nhiệm quản lý chất thải y tế, ngoài việc quy định trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ sở y tế, Quy chế quản lý chất thải y tế còn quy định trách
nhiệm của các chủ thể khác như Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, Thủ trưởng các cơ sở y tế trực thuộc Bộ Y tế; Thủ trưởng y tế các
ngành chịu trách nhiệm quản lý và xây dựng kế hoạch xử lý chất thải y tế của cơ
sở và các đơn vị trực thuộc trình Bộ trưởng Bộ chủ quản, Các Vụ, Cục, Thanh tra
Bộ Y tế với chức năng và nhiệm vụ cụ thể.
4. Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở
y tế.
Trong thời gian qua, pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ
sở y tế đã được xây dựng, sửa đổi bổ sung thông qua các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan đến quản lý môi trường ngành y tế, cụ thể như ban hành Quy chế
quản lý chất thải y tế mới (Quy chế quản lý chất thải y tế được ban hành kèm theo
Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 thay thế cho Quy chế Quản lý
chất thải y tế được ban hành kèm theo Quyết định số 2575/1999/QĐ-BYT ngày
27 tháng 8 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Y tế); Hướng dẫn tổ chức thực hiện công
tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám chữa bệnh; Xây dựng Quy
chuẩn kỹ thuật các phương tiện thu gom, vận chuyển chất thải y tế... Điều này đã
tạo điều kiện thuận lợi trong việc có được cách thức quản lý hiệu quả với sự quy
định khá chặt chẽ chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý với những quyền hạn,
nghĩa vụ cụ thể của các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Về các quy định chế tài, hiện nay chúng ta có các văn bản quan trọng như
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2008), Bộ luật hình sự 1999 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009); Nghị định của
Chính phủ số117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 quy định về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT quy định
về quản lý chất thải nguy hại và đặc biệt là Nghị định số 45/2005/NĐ-CP quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Tuy nhiên, pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với bệnh viện,

cơ sở y tế vẫn còn một số hạn chế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quản lý chất
thải y tế còn chưa nhiều, còn quy định chung chung, rải rác ở nhiều văn bản pháp
luật khác nhau.
Thứ hai, về hình thức chế tài được quy định trong các văn bản pháp luật
liên quan đến bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế:

5


Mặc dù Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã quy định khá chi tiết
về các hành vi vi phạm cũng như biện pháp xử lý với mức phạt tăng lên rất nhiều
lần so với quy định trước đây. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hình thức chế tài quá
nhẹ, không đủ sức răn đe. Thực tiễn áp dụng một số quy định về trách nhiệm dân
sự và trách nhiệm hình sự đối với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn
nhiều khó khăn, vướng mắc. Các quy định về trách nhiệm xác định, giám định,
đền bù định, đền bù thiệt hại còn chưa rõ ràng và không khả thi. Vì vậy, trên thực
tế có nhiều doanh nghiệp thay bằng việc đầu tư trang thiết bị xử lý chất thải bằng
việc chấp nhận các hình thức xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật2.
II. Thực tiễn áp dụng các quy định về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện,
cơ sở y tế
1. Những thành tựu đạt được
Thời gian qua, Bộ Y tế đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện công tác
bảo vệ môi trường y tế nhằm đảm bảo sức khỏe cho nhân viên y tế và cộng đồng,
hạn chế gây ô nhiễm môi trường. Được biết kinh phí bảo vệ môi trường trích từ
1% GDP đã được Chính phủ cấp cho Bộ Y tế nhằm trang bị các phương tiện, máy
móc thiết bị phục vụ công tác quản lý chất thải y tế, quan trắc môi trường, đặc
biệt ưu tiên giải quyết các cơ sở y tế gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (theo
Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Quy chế quản lý chất

thải do Bộ Y tế ban hành ngày 30/11/2007 nhằm kiểm soát ô nhiễm chất thải y tế
tại nguồn đã giúp cho các cơ sở thực hiện tốt hơn việc quản lý chất thải, đặc biệt
là các chất thải y tế nguy hại. Hiện tại Bộ Y tế đang chỉ đạo các đơn vị xây dựng
mô hình và áp dụng các công nghệ xử lý chất thải y tế phù hợp và thân thiện với
môi trường. 3
Nhìn chung, công tác xử lý chất thải y tế trong những năm qua đã thực sự
đạt được những bước tiến bộ đáng kể. Thời gian qua, Bộ Y tế đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường y tế nhằm đảm bảo sức khỏe cho
nhân viên y tế và cộng đồng, hạn chế gây ô nhiễm môi trường. Các bệnh viện, cơ
sở y tế luôn chú trọng cũng như đầu tư cho công tác quản lý chất thải rắn nguy
hại. Hiện có tới 95,6 bệnh viện, cơ sở y tế tuyến tỉnh đã thực hiện phân loại, thu
gom, xử lý chủ yếu gồm công nghệ đốt và công nghệ không đốt. Theo thống kê,
có gần 80% bệnh viện tuyến tỉnh trong cả nước đang vận hành công nghệ đốt
trong xử lý chất thải rắn y tế nguy hại. Nhiều bệnh viện tuyến tỉnh đã và đang xử
2

Tinh-hinh-thi-hanh-phap-luat-trong-linh-vuc-baove-moi-truong.aspx
3
/>
6


lý hiệu quả chất thải rắn y tế nguy hại, không gây ô nhiễm môi trường. Lượng
thải rắn được xử lý, thu gom nhiều đã góp phần tạo nên môi trường bệnh viện
trong lành, nâng cao chất lượng điều trị, chăm sóc bệnh nhân. Thành quả này
chính là nhờ sự quan tâm đầu tư thường xuyên của Bộ Y tế, UBND tỉnh, Sở Y tế
và các ban ngành chức năng trong tỉnh với hoạt động xử lý rác thải của ngành y
tế.
2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh đó, tình hình vi phạm các quy định về quản lý, xử lý rác thải y tế tại hầu

hết các bệnh viện, cơ sở y tế trong cả nước cũng xảy ra tương đối phổ biến. Theo
thống kê hiện tại có 351 bệnh viện có hệ thống xử lý chất thải lỏng còn hoạt động
tốt, 835 bệnh viện cần phải sửa chữa, nâng cấp hoặc xây mới hệ thống xử lý chất
thải lỏng.Đối với chất thải rắn y tế có 95,6% bệnh viện có phân loại chất thải rắn,
90,9% bệnh viện thực hiện thu gom chất thải rắn y tế hàng ngày nhưng chỉ có
khoảng 50% các bệnh viện trên phân loại, thu gom chất thải rắn y tế đúng quy
định. Hiện nay phương tiện thu gom chất thải y tế như túi, thùng đựng chất thải,
xe đẩy rác, nhà chứa rác... còn thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn
theo yêu cầu của Quy chế quản lý chất thải y tế (Bộ Y tế). Có 35% bệnh viện có
lò đốt chất thải y tế nhưng công suất sử dụng chưa hợp lý và việc xử lý khí thải
còn gặp nhiều khó khăn.
Thậm chí, ở một số bệnh viện còn cho phép thu gom để bán cho cơ sở tái
chế để tận thu. Một mặt vì các cơ quan chức năng chưa thực hiện hết trách nhiệm
của mình, mặt khác hiện nay điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc
của các cơ sở thực hiện chức năng xử lý rác thải y tế chưa đáp ứng được yêu cầu
của hoạt động này, việc đầu tư kinh phí, trang thiết bị, giải pháp về công nghệ cho
các hoạt động bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu; mạng lưới cán bộ
làm công tác bảo vệ môi trường ngành y tế chưa được kiện toàn, năng lực cán bộ
(đặc biệt tại địa phương) chưa đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ được giao; cơ
chế chính sách về bảo vệ môi trường chưa hoàn chỉnh, đặc biệt chưa có một kế
hoạch tổng thể về triển khai công tác bảo vệ môi trường trong ngành y tế.
Mặt khác, việc triển khai thực hiện các yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ
nói chung và các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường nói riêng của các bệnh
viện chưa thực sự nghiêm túc tại một số bệnh viện. Nhận thức của lãnh đạo các
bệnh viện cũng như các cán bộ trực tiếp làm công tác thu gom, xử lý chất thải
bệnh viện còn hạn chế, vẫn còn diễn ra tình trạng các bệnh viện chây ỳ, không
tích cực xử lý ô nhiễm và có biểu hiện đối phó với cơ quan chức năng, làm ảnh
7



hưởng không nhỏ đến chất lượng quản lý và xử lý chất thải y tế. Bên cạnh đó
cũng khó quy trách nhiệm cụ thể cho người đứng đầu bệnh viện khi chưa hoàn
thành xử lý ô nhiễm. UBND các tỉnh lại thường không xử phạt các bệnh viện khi
các cơ sở này vi phạm các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, do kinh phí
để nộp phạt lại được lấy từ nguồn ngân sách nhà nước.
Một số cơ sở y tế tiến hành việc thu gom chất thải y tế bừa bãi, không phân
loại rõ ràng các loại chất thải y tế để có cách thức xử lý phù hợp. Theo tính toán,
con số 350 tấn chất thải rắn và 150 mét khối chất thải lỏng phát sinh từ các cơ sở
y tế hiện nay sẽ tăng lên 600 tấn và 300 mét khối mỗi ngày vào năm 2015. Chất
thải y tế gia tăng nếu không được xử lý tốt sẽ trở thành gánh nặng đối với sức
khỏe con người và môi trường.
III. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế
1. Giải pháp pháp lý
Trước hết, cần ban hành các tiêu chuẩn môi trường về xử lý chất thải y tế
Một trong những biện pháp hữu hiệu trong xử lý, tiêu hủy chất thải rắn
nguy hại nói chung, chất thải y tế nguy hại nói riêng là phương pháp đốt vì nhiệt
độ cao sẽ tiêu hủy triệt để các chất thải nguy hại. Lò đốt chất thải y tế cần phải
thiết kế, chế tạo, nhập khẩu đạt tiêu chuẩn kỹ thuật theo khuyến nghị của WHO.
Các lò đốt này cần đạt chỉ tiêu môi trường trong quá trình hoạt động, chỉ tiêu về
kinh tế phù hợp với điều kiện tài chính trong hoàn cảnh của Việt Nam. Song song
với giải pháp xử lý chất thải rắn y tế bằng phương pháp đốt, cần xây dựng và ban
hành các tiêu chuẩn cho các thiết bị xử lý chất thải y tế khác bằng phương pháp
chiếu xạ dùng vi sóng… Để nâng cao năng lực và kỹ năng của người vận hành lò
đốt chất thải rắn y tế cần xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật vận hành lò
đốt chất thải y tế.
Ngoài ra, cũng cần có thêm một số tiêu chuẩn áp dụng cho việc quản lý
chất thải y tế từ khi nó được tạo ra cho đến địa điểm thải bỏ cuối cùng. Các tiêu
chuẩn này sẽ xác định các vấn đề có tính pháp lý một cách toàn diện trong chu
trình xử lý chất thải y tế như kỹ thuật vận hành, sản phẩm, làm sạch, phương tiện
chất chứa, đổ bỏ chất thải.

2. Giải pháp khác
Một là, giải pháp về kinh tế tài chính
Để tạo ra những bước ngoặt mới trong công tác quản lý chất thải y tế, cần
tận dụng tối đa các nguồn lực khác nhau. Cơ chế tài chính đúng đắn sẽ là cơ sở để
hiện thực hóa chủ trương đã đề ra. Trong lĩnh vực quản lý chất thải y tế, cần tuân
theo nguyên tắc: phải đảm bảo có đủ chi phí để vận hành bộ máy thu gom, vận
8


chuyển, xử lý chất thải y tế tiến tới tạo một nguồn quỹ ổn định để có thể đáp ứng
những công việc bức thiết nhất liên quan đến lĩnh vực này. Muốn làm được điều
đó cần sử dụng các công cụ linh hoạt như thuế, phí, lệ phí…
Một số hình thức của công cụ khuyến khích kinh tế chủ yếu là:
- Thu tiền phạt với các hoạt động gây ô nhiễm. Các phí này trực tiếp đánh
vào chủ thể có chất thải y tế tại điểm sinh ra hoặc tại nơi tiêu hủy.
- Có thể tiến hàn thu thuế nguyên liệu đã qua sơ chế, đánh thuế trực tiếp
vào các sản phẩm có khả năng gây nguy hại đối với môi trường, đánh thuế vào
những mặt hàng xuất nhập khẩu có khả năng gây ô nhiễm môi trường chứa nhiều
chất thải y tế độc hại ví dụ như các loại thuốc gây độc tế bào…
Ngoài những công cụ kinh tế nêu trên, có thể tận dụng nguồn vốn thông
qua chính sách ưu tiên và sự phân bố hợp lý ngân sách, vốn nước ngoài, vốn vay
với lãi suất ưu đãi để đầu tư trang thiết bị và xây dựng các khu xử lý chất thải y
tế. Hoạt động này sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư vào những dự án xử lý chất
thải y tế thông quan sự hỗ trợ của các nguồn vốn vay.
Hai là, giải pháp khoa học công nghệ
- Tăng khả năng thu gom chất thải bằng cách tăng cường và đổi mới trang
thiết bị để theo kịp lượng chất thải y tế gia tăng, đồng thời cải thiện mức độ phục
vụ và mở rộng phạm vi thu gom như trang bị các xe tải nhỏ để phục vụ các đường
phố hẹp. Cần khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng công nghệ sạch. Bất kỳ một
sự thay đổi nào theo hướng hiện đại hóa về thiết bị, quy trình sản xuất, công nghệ

sản xuất dẫn tới giảm thiểu chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng đều được
coi là sản xuất sạch hơn và phải được khuyến khích kịp thời.
- Cần chú trọng các giải pháp sử dụng tối đa nguyên liệu, thay đổi công
thức sản phẩm, giảm các vật liệu bao bì và đóng gói sản phẩm, thay đổi thói quen
trong tiêu dùng để giảm thiểu chất thải rắn y tế ngay từ nguồn. Mặt khác cần quan
tâm đến việc tái sử dụng và tái chế các chất thải rắn y tế. Khuyến khích các cơ sở
tái chế tái chế chất thải y tế bằng cách thu hồi sản phẩm đã qua sử dụng, xử lý
hoặc chế biến lại để đưa vào sản xuất dưới dạng nguyên liệu ban đầu hoặc sản
phẩm mới.
KẾT LUẬN
Như vậy, qua tìm hiểu và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng các quy định về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế, có thể thấy
đây là một vấn đề cấp bách, đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ hơn nữa của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mong rằng, pháp luật về bảo vệ môi trường nói
chung và bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế nói riêng sẽ luôn đi sâu,
9


đi sát vào thực tiễn và phát huy được hết vai trò là một biện pháp hữu hiệu trong
hoạt động bảo vệ môi trường hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật môi trường, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2011.
2. Đại học Huế, Giáo trình luật môi trường, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, 2007.
3. Phạm Kim Thoa, Một số vấn đề pháp lý về quản lý chất thải y tế tại Hà
Nội, Khóa luận tốt nghiệp, 2004.
4. Lê Thị Thúy Hằng, Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại tại Việt Nam,

Khóa luận tốt nghiệp, 2011.
5. Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007

10


6. Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y tế về quy
chế quản lý chất thải y tế.
7. Tinh-hinhthi-hanh-phap-luat-trong-linh-vuc-bao-ve-moi-truong.aspx
8. />9. />10. />Module=Site&Function=News&Id=1442

11



×