Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Điều kiện kết hôn theo pháp luật hiện hành và những vấn đề cần sửa đổi bổ sung hôn nhân học kì 8đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.42 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Luật Hôn nhân và gia đình là một trong các văn bản pháp lý quan trọng nhất
của Nhà nước ta trong xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia
đình Việt Nam với mục tiêu gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững… Tuy nhiên, sau hơn 10 năm đi vào cuộc sống với nhiều biến động của
đời sống kinh tế-xã hội, thực tiễn thi hành cho thấy, quy định của Luật hôn nhân
và gia đình vẫn còn một số những tồn tại cân sửa đổi, đơn cử như vân đề về điều
kiện kết hôn, do điều kiện kết hôn là một nội dung quan trọng của Luật hôn nhân
và gia đình nên việc hoàn thiện là rất quan trọng. Do đó em đã chọn đề tài:
“Điều kiện kết hôn theo pháp luật hiện hành và những vấn đề cần sửa đổi bổ
sung”.
NỘI DUNG
I. Điều kiện kết hôn theo pháp luật hiện hành
Điều kiện được hiểu theo nghĩa chung là những đòi hỏi cần phải đáp ứng để
thực hiện một việc nào đó. Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng
theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Như vậy ta
có thể hiểu điều kiện kết hôn là những yêu cầu mà Nhà nước đặt ra cho nam và
nữ khi họ muốn kết hôn với nhau thì cần phải đáp ứng những điều kiện đó.
Điều kiện kết hôn được quy định tại điều 9, Luật hôn nhân và gia đình năm
2000:
“Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;

1


2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép
buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại
Điều 10 của Luật này.”
Để việc kết hôn của nam nữ là hợp pháp, thì họ cân đáp ứng những yêu cầu


sau của điều kiện kết hôn.
1. Điều kiện kết hôn về độ tuổi
Khoản 1, điều 9, luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định: “ Nam từ hai
mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên.”. Xuất phát từ những cơ sở khoa
học về tâm lí lứa tuổi, sức khỏe con người Việt Nam, việc pháp luật quy định
nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn là nhằm bảo đảm
sự phát triển về mặt thể chất, con cái sinh ra được khỏe mạnh, bảo đảm cho đôi
nam nữ thực hiện các chức năng sinh đẻ, giáo dục con cái và nhận thức đầy đủ
trách nhiệm của mình đối với gia đình. Đây là quy định thể hiện sự quan tâm của
nhà nước đối với sức khỏe cộng đồng và đảm bảo thực hiện tốt chức năng của
gia đình. Theo các văn bản hiện hành hướng dẫn áp dụng luật hôn nhân và gia
đình thì nam từ 20 tuổi trở lên không bắt buộc phải đủ 20 tuổi, nữ 18 tuổi trở lên
không bắt buộc phải đủ 18 tuổi có quyền kết hôn. Quy định về độ tuổi như vậy là
tạo khoảng không gian rộng cho nam nữ lựa chọn thời điểm để kết mà không
phải đợi đến tròn 20 tuổi và tròn 18 tuổi.
2. Phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn

2


Khoản 2 điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 200 quy định: “Việc kết hôn
do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên
nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”.
Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng quy định: “Nam nữ có đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết
hôn”.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt của luật hôn
nhân và gia đình các năm 1959, 1986, 2000, nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn
nhân cưỡng ép, phụ thuộc vào cha mẹ của chế độ hôn nhân gia đình phong kiến
và xây dựng chế độ hôn nhân mới xã hội chủ nghĩa. Tự nguyện kết hôn là việc

hai bên nam, nữ thể hiện sự đồng ý trở thành vợ chồng của nhau, mỗi bên không
bị tác động ý chí của bên kia hay của bất kì người nào khiến cho họ phải kết hôn
mà không có tình yêu. Kết hôn là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Vì vậy,
không thể có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn. Đây là điều kiện rất
quan trọng được pháp luật nhiều nước quan tâm, phát triển. cuộc sống gia đình
chỉ thực sự hạnh phúc khi được xây dựng trên cơ sở sự hòa hợp và tự nguyện của
hai bên nam, nữ. Sự cưỡng ép, lừa dối từ hai phía đối với nhau, sự cưỡng ép hay
cản trở từ phía gia đình xã hội đều không thể đem lại hạnh phúc trong quan hệ
vợ chồng. Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của các bên khi xác lập
một quan hệ pháp luật, một giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu do bị lừa
dối cưỡng ép; quan hệ kết hôn cũng có thể bị hủy khi có dấu hiệu cưỡng ép,
không tự nguyện
3. Việc kết hôn thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn.

3


Theo quy định tại Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc kết
hôn bị cấm trong các trường hợp sau:
a) Cấm kết hôn với những người đang có vợ hoặc có chồng.
Điều 64 Hiến pháp 1992 quy định: “…Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia
đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng…”
Quy định trên là hết sức cần thiết bởi quy định này đảm bảo thực hiện nhiệm
vụ của luật hôn nhân gia đình là xóa bỏ chế độ hôn nhân gia đình phong kiến,
xóa bỏ sự đối xử bất bình đẳng đối với người phụ nữ, xây dựng hôn nhân tiến bộ
xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật phong kiến Việt Nam quy định người đàn ông có quyền lấy nhiều
vợ (Điều 79,80 Bộ dân luật Bắc Kì). Pháp luật của Nhà nước tư sản cũng quy
định hôn nhân theo nguyên tắc một vợ-một chồng nhưng trên thực tế nguyên tắc

đó đã bị phá bỏ do tệ nạn ngoại tình và mại dâm công khai. Theo pháp luật Việt
Nam, chỉ những người chưa kết hôn hoặc đã kết hôn nhưng vợ, chồng đã chết
hoặc hai người đã li hôn thì mới có quyền kết hôn với người khác. Tuy nhiên,
cần lưu ý trường hợp người bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Theo Điều 91 Bộ luật
dân sự, một người nếu có sau ba năm kể từ ngày tuyên bố mất tích của Tòa án có
hiệu lực pháp luật, mất tích trong chiến tranh, bị tai nạn, thiên tai thảm họa….mà
sau một thời gian luật định vẫn không có tin tức gì để biết người đó là còn sống
thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố
người đó là đã chết. Sau khi tuyên bố của Tóa án có hiệu lực thì vợ hoặc chồng
của đó có quyền kết hôn với người khác. Trong trường hợp đó việc kết hôn là

4


hoàn toàn hợp pháp. Ngoài ra, còn một số trường hợp khác được quy định cụ thể
trong các Nghị định, thông tư.
b) Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn
Theo điều 24, Bộ luật dân sự và mục 1 điểm c.2 nghị quyết số 02/2002/NQHĐTP thì người mất năng lực hành vi dân sự là người “ do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình”, mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự. Quy định cấm những người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn là hoàn
toàn đúng đắn và cần thiết. Bởi vì, người không có khả năng nhận thức được
hành vi thì không có khả năng thể hiện một cách đúng đắn ý chí của mình trong
vấn đề kết hôn, cũng không thể nhận thức và thực hiện được trách nhiệm làm vợ,
làm chồng, làm cha, làm mẹ trong đời sống gia đình. Nếu họ kết hôn sẽ ảnh
hưởng đến quyền lợi, sức khỏe của vợ, chồng, con cái họ. Mặt khác, theo điều
24, Bộ luật dân sự : “Mọi giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân
sự đều do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”. Nhưng quyền kết
hôn là quyền nhân thân của mỗi người nên không thể để cho người đại diện thực
hiện. Vì thế, về nguyên tắc người mất hành vi dân sự không thể kết hôn. Vậy một

trong những điều kiện để kết hôn là người đó phải có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự.
c) Cấm những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong phạm
vi ba đòi hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc kết hôn với nhau.
Khoản 12,13 Điều 8 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Những
người cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ đối với con; ông bà đối với cháu nội
và cháu ngoại,”, “Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người

5


cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất, anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha
khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô
con cậu, con dì là đời thứ 3”. Quy định cấm kết hôn giữa những người này là
hoàn toàn phù hợp với khoa học và phong tục tập quán của nước ta. Việc cấm
những người này kết hôn với nhau là để đảm bảo thế hệ tiếp theo khỏe mạnh,
duy trì nòi giống không mang bệnh tật bẩm sinh, theo nghiên cứu của các nhà
khoa học thì con sinh ra do quan hệ giữa những người có họ hàng trong phạm vi
ba đời thường có những biến chứng như quái thai, thoái hóa, dị dạng do cấu trúc
gen di truyền của họ, Về mặt xã hội và truyền thống dân tộc thì việc kết hôn giữa
những người này sẽ phá vỡ tôn ti trật tự trong họ hàng , cách xưng hô, những
chuẩn mực đạo đức bị xâm phạm, suy đồi,...
Việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi;
giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu,
mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng. Quy định này nhằm làm ổn định các mối quan hệ trong gia đình, đồng
thời còn ngăn chặn hiện tượng lợi dụng mối quan hệ phụ thuộc mà có thể xảy ra
hành vi cưỡng ép kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi.
d) Cấm kết hôn giữa những người có cùng giới tính
Cấm kết hôn giữa những cùng giới tính là quy định mới của Luật hôn nhân

và gia đình năm 2000. Trước đây, luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986
chưa dự liệu được trường hợp hai người có cùng giới tính kết hôn với nhau. Pháp
luật Việt Nam không cho phép những người đồng giới kết hôn với nhau vì điều
đó không phù hợp với đạo đức, tập quán và quy luật sinh học.

6


4. Việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.
Vấn đề đăng kí kết hôn được quy định tại Điều 11, Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000:
“1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau
đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều
14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không
có giá trị pháp lý
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không
được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa.”
Đăng kí kết hôn là thủ tục do Nhà nước qui định-như một điều kiện về hình
thức- nhằm công nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên nam nữ là hợp
pháp. Việc pháp luật quy định sự kiện kết hôn phải được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền chứng nhận là sự ràng buộc pháp lí, là cơ sở để các bên thực hiện
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Đăng kí kết hôn là biện pháp để cơ quan Nhà
nước có thể kiểm tra và kịp thời ngăn chặn các hiện tượng vi phạm điều kiện kết
hôn của nam nữ và tuyên truyền, giải thích pháp luật cho họ hiểu. Qui định này
phù hợp với khoản 2 Điều 16 Công ước Cedaw- Công ước xóa bỏ mợi sự phân
biệt, đối xử với người phụ nữ, đó là hôn nhân : “bắt buộc phải có đăng kí kết

hôn trong hồ sơ chính thức của Nhà nước”.
7


Khoản 1, điều 11, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định “ nam,
nữ không đăng kí kết hôn mà sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp
luật công nhận là vợ chồng”. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không thừa
nhận hôn nhân thực tế, thể hiện rõ thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với
những trường hợp kết hôn không tuân thủ qui định của pháp luật. Ngoải ra, có
những hoàn cảnh đặc biệt như đời sống còn nhiều khó khăn của đồng bào vùng
sâu, vùng xa, điều kiện đi lại khó khăn, nên phải tạo thuận lợi cho nhân dân bằng
cách tổ chức đăng kí kết hôn lưu động. Chính quyền địa phương cần bố trí cán
bộ có thẩm quyền cùng với cán bộ hộ tịch tư pháp hàng tháng tăng cường xuống
cơ sở để nắm tình hình và tổ chức đăng kí kết hôn ngay tại nơi cư trú và tích cực
phổ biến luật nói chung, luật hôn nhân và gia đình nói riêng đến đồng bào các
vùng xa xôi, hẻo lánh.
II. Những vấn đề cần sửa đổi bổ sung
Việc quy định về độ tuổi kết hôn theo như khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 là chưa hợp lý, khi áp dụng trong thực tế còn nhiều vướng
mắc bởi tại mục 1 điểm a Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định về cách tính tuổi kết
hôn, theo đó nữ chỉ cần bước sang tuổi 18 và nam bước qua tuổi 20 là đã có thể
kết hôn. Vậy với việc nữ bước sang tuổi 18 (tức 17 tuổi một ngày) là đủ tuổi kết
hôn. Như vậy, người nữ lấy chồng lúc 17 tuổi một ngày là hợp pháp. Nhưng theo
Bộ luật Dân sự từ đủ 18 tuổi trở lên mới là người thành niên và có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, được tự mình tham gia quan hệ tố tụng. Vì vậy, nếu người này
ly hôn khi chưa đủ 18 tuổi thì quyền ly hôn, chia tài sản, chia quyền nuôi con bị
vướng vì họ chưa có đủ năng lực hành vi dân sự, chưa được tự mình tham gia
quan hệ tố tụng. Thực tế hiện nay, có những vụ án ly hôn mà tính đến thời điểm

8


đương sự nộp đơn xin ly hôn, đương sự lại chưa đủ 18 tuổi. Do đó, tòa không có
căn cứ để thụ lý, đôi khi phải “chờ” đủ tuổi mới thụ lý vụ án. Đây là một bất cập
mà khi tiến hành sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình tới đây cần phải tính đến.
Theo Điều 18 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5
Điều 1 Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 thì việc đăng ký kết hôn bị
từ chối trong trường hợp không phù hợp với thuần phong mỹ tục. Nhưng lại
không có văn bản quy định rõ thế nào là thuần phong mỹ tục khiến cho các cơ
quan có thẩm quyền lung túng trong việc giải quyết. Thực tiễn cho thấy nhiều
trường hợp không bình thường, có khi chênh nhau 50 tuổi nhưng không thể vì lý
do tuổi tác mà từ chối kết hôn.
Ngoài ra cũng cần bàn về quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới
tính, đây là một vấn đề đang gây tranh cãi, nhưng thực sự thì quy định “cấm” là
chưa hợp lí với thực tiễn hiện nay bởi cộng đồng những người cùng giới tính
chiếm một phần tương đối lớn trong xã hội hiện nay, việc chúng ta cấm họ kết
hôn vẫn không thể tránh khỏi việc những vụ kết hôn giữa những người cùng giới
tính ngoài đời diễn ra. Vì vậy cần phải xem xét sửa đổi về quy định này để phù
hợp với xã hội Việt Nam.
Việc xác định một vụ việc vi phạm điều kiện cấm kết hôn còn khó khăn bởi
hiện nay chưa có quy định cụ thể nhằm bảo vệ việc đăng ký kết hôn, không vi
phạm các điều cấm theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Nghị
định 68 quy định về việc phỏng vấn để xác định các dấu hiệu, hiện tượng của
việc kết hôn giả, kết hôn về mục đích vụ lợi… làm cơ sở cho việc từ chối điều

9



kiện kết hôn. Do dó để kết luận một vụ việc vi phạm điều cấm của luật hôn nhân
và gia đình làm cơ sở cho việc từ chối kết hôn là rất khó.
III. Giải pháp hoàn thiện.
Đối với quy định về độ tuổi kết hôn thì cần phải hạ độ tuổi kết hôn xuống
cho phù hợp với thực tiễn hiện nay, cụ thể cần phải sửa đổi theo hướng nam, nữ
được kết hôn khi đủ 18 tuổi để đảm bảo cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Từ “đủ” 18 tuổi để cho nữ được thành
niên và để cho nam bình đẳng với nữ.
Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về thế nào là phù hợp với thuần phong
mỹ tục, để các cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn đỡ lúng túng trong việc
giải quyết một số vụ việc liên quan.
Nên bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, thay vào đó
ta nên đổi bằng việc không công nhận việc kết hôn giữa những người cùng giới
tính để thể hiện sự tiến bộ, không phân biệt kì thị với những người cùng giới tính
vì họ cũng là một phần của xã hội. Cùng với đó chúng ta cũng cần nghiêm túc
xem xét để có thể dự trù những biện pháp giải quyết những hậu quả phát sinh sau
hôn nhân của hôn nhân đồng giới nếu như một ngày nào đó hôn nhân đồng giới
được công nhận tại Việt Nam. Bởi trên thế giới hiện nay cũng đã có những nước
công nhân việc hôn nhân đồng giới như: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan,
Canada,..
Cần có quy định cụ thể hơn trong luật về việc xác định những dấu hiệu về
việc kết hôn giả, kết hôn vì mục đích vụ lợi… thuộc những điều đã được quy
định trong những trường hợp cấm kết hôn, để kết luận của các cơ quan có thẩm
quyền thuyết phục hơn.

10


KẾT LUẬN

Việc phân tích những quy định về điều kiện kết hôn đã cho chúng ta thấy
được thực sự vẫn còn những vướng mắc, hạn chế khi áp dụng điều kiện kết hôn
trên thực tế. Bởi vậy các nhà làm luật cần xem xét những hạn chế, bất cập đó để
có thể đưa ra những điều luật mới phù hợp hơn để cho những cơ quan có thẩm
quyền áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn bớt lúng tung trong khâu áp dụng.
Cũng với đó cần sửa đổi ngay những quy định gây mâu thuẫn với điều luật khác
để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.

MỞ ĐẦU................................................................................................................1
NỘI DUNG..............................................................................................................................1
I. Điều kiện kết hôn theo pháp luật hiện hành.........................................................................1
II. Những vấn đề cần sửa đổi bổ sung......................................................................................8
III. Giải pháp hoàn thiện........................................................................................................10

11


KẾT LUẬN........................................................................................................................11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

12



×