Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

H có bố dượng rất hay uống rượu và đánh vợ, con mẹ h và bản thân h đã nhiều lần bị bố dượng say rượu đánh đập h cảm thấy rất hận bố dượng một lần h

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.74 KB, 12 trang )

Bài 4:
H có bố dượng rất hay uống rượu và đánh vợ, con. Mẹ H và bản thân H đã nhiều
lần bị bố dượng say rượu đánh đập. H cảm thấy rất hận bố dượng. Một lần H về nhà sau
một tuần đi làm thuê ngoài phố huyện thì nghe bà con hàng xóm nói cho biết mẹ H đang
phải nằm tại trạm xá xã do bị chồng đánh. H đến thăm mẹ, thấy mẹ bị thương băng bó
và vẻ mặt đau đớn thì cảm thấy rất xót xa. H về nhà nhìn thấy bố dượng đang điềm
nhiên ăn cơm, H tức giận chạy vào bếp cầm dao chém nhiều nhát làm bố dượng gục trên
vũng máu và tử vong.
Hỏi:
1. Có 2 quan điểm về tội danh của H như sau:
a. H phạm tội giết người theo Điều 93 với tình tiết giảm nhẹ TNHS theo điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS
b. H phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh - Điều 95
BLHS
Anh (chị) hãy bình luận và nêu ý kiến cá nhân về tình huống trên. (3 điểm)
2. Giả sử khi H xách dao từ bếp ra định chém bố dượng thì có người nhìn thấy cản
lại. Bố dượng H đã bỏ trốn khỏi nhà một tuần rồi lại trở về. Khi bố dượng về đến nhà H
nhìn thấy lại cầm dao chém chết ông ta thì tội danh của H có thay đổi không? Tại sao?
(2 điểm)
3. Giả sử khi bố dượng H trở về sau một tuần trốn khỏi nhà đã đấm mạnh H vào
sau gáy làm H bị va trán xuống sân, sau đó ông ta lại xông vào định đấm tiếp thì bị H
với con dao đang chẻ lạt ở sân đâm chết. Tội danh của H có thay đổi không? Tại sao? (2
điểm)

1. Có 2 quan điểm về tội danh của H như sau:
1


a. H phạm tội giết người theo Điều 93 với tình tiết giảm nhẹ TNHS theo điểm
đ - khoản 1 Điều 46 BLHS
b. H phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh - Điều
95 BLHS


Anh (chị) hãy bình luận và nêu ý kiến cá nhân về tình huống trên. (3 điểm)
Dựa trên nền tảng lý luận chung và xét các tình tiết nêu ra trong tình huống trên,
chúng em xin đưa ra những bình luận để kết luận xem quan điểm định tội danh nào là
phù hợp. Để định tội danh cho một hành vi cần phải dựa vào những tình tiết trong vụ án
đối chiếu với quy định của pháp luật nhằm xác định tính chất nguy hiểm của hành vi và
xác định TNHS đối với người phạm tội. Trong trường hợp này để xác định được hành vi
của H là phạm Tội giết người theo quy định tại Điều 93 với tình tiết giảm nhẹ TNHS
điểm đ khoản 1 Điều 46 hay là Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh theo quy định tại Điều 95 BLHS cần hiểu rõ sự khác biệt cơ bản giữa hai điều luật
này.
Xét quan điểm thứ nhất: H phạm tội giết người theo Điều 93 với tình tiết giảm nhẹ
TNHS theo điểm đ – Khoản 1 Điều 46 BLHS.
Tội giết người quy định tại Điều 93 BLHS được định nghĩa như sau: tội giết người
là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác. Như vậy, tội này xâm hại
đến quyền được bảo vệ về tính mạng của con người được pháp luật bảo vệ. Theo quy
định tại Khoản 1 Điều 93 thì mức cao nhất của khung hình phạt đối tội này là tử hình,
đó là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. ( khoản 3 Điều 8 BLHS) Quy định tại Khoản 2
Điều 93 thì mức phạt cao nhất là mười lăm năm tù, đó là tội phạm rất nghiêm trọng. Do
đó, hành vi giết người được quy định trong điều luật này có tính chất nguy hiểm cho xã
hội đặc biệt lớn hoặc rất lớn. Trong trường hợp này xác định được hành vi của H là
phạm Tội giết người theo quy định tại Điều 93 với tình tiết giảm nhẹ TNHS điểm đ
khoản 1 Điều 46, đó là “phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi
trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra”.
Xét quan điểm thứ hai: H phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
2


mạnh theo quy định Điều 95 BLHS. Khoản 1 Điều 95 quy định: “Người nào giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của
nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ

sáu tháng đến ba năm”. Còn mức phạt cao nhất đối với khoản 2 Điều 195 là phạt tù đến
bảy năm. Sở dĩ BLHS quy định mức phạt của tội này thấp hơn so với tội giết người tại
Điều 93 là vì người thực hiện hành vi giết người trong trường hợp này là tội phạm ít
nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm cho xã hội giảm đi nhiều lần do có tác động từ bên
ngoài vào tâm lý người phạm tội.
Về cơ bản thì hai tội này đều có sự giống nhau, đó là tội giết người, có sự tác động
từ bên ngoài vào làm cho tinh thần của người phạm tội bị kích động. Tuy nhiên, sự khác
biệt ở đây là mức độ trạng thái tinh thần bị kích động khi thực hiện hành vi phạm tội. Ở
trường hợp giết người có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 thì
người phạm tội tuy tinh thần có bị kích động nhưng chưa mạnh, nghĩa là người phạm tội
chưa đến mức mất kiểm soát đối với hành vi của mình, vẫn còn khả năng nhận thức và
khả năng điều khiển hành vi. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng bị kích động này là do
hành vi trái pháp luật của nạn nhân hoặc của người khác. Còn trường hợp phạm tội quy
định tại Điều 95 thì người phạm tội thực hiện hành vi trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh. Đây là tình trạng mà người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế
được hành vi của mình và nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân. Hành vi trái pháp luật ở trường hợp quy định tại Điều
95 nhất định là của nạn nhân, còn trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 có
thể của nạn nhân nhưng cũng có thể của người khác.
So sánh về hậu quả pháp lý mà người phạm tội trong hai trường hợp này phải chịu:
nhà làm luật xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi để định khung hình phạt
tương ứng đối với hành vi đó. Theo quy định tại Điều 93 BLHS thì tội giết người có thể
là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với khung hình phạt cao nhất là phạt tù chung thân
hoặc tử hình (Khoản 1), hoặc cũng có thể là tội phạm rất nghiêm trọng với khung hình
phạt cao nhất lên đến mười lăm năm tù (Khoản 2). Trong trường hợp này, người phạm
tội dù có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 thì vẫn phải chịu mức
3


hình phạt rất nghiêm khắc của nhà nước. Đối với người phạm tội theo quy định tại Điều

95 BLHS do có tình tiết giảm nhẹ TNHS đặc biệt nên chỉ phải chịu mức hình phạt cao
nhất là đến ba năm (khoản 1) hoặc đến bảy năm (khoản 2). So sánh với khung hình phạt
quy định tại Điều 93 thì mức hình phạt quy định tại Điều 95 thấp hơn rất nhiều.
Xét tình huống đầu bài, H đã có hành vi giết bố dượng của mình trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh. Sự kích động đó nguyên nhân là do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của người bố dượng, thể hiện ở tình tiết bố dượng H rất hay uống rượu và
say xỉn, hay đánh đập mẹ H và H. Khi nghe và chứng kiến cảnh mẹ mình phải chịu đau
đớn trong trạm xá và Bố dượng điềm nhiên ăn cơm đã khiến H không làm chủ được suy
nghĩ cũng như hành vi của mình dẫn đến việc cầm dao giết Bố dượng. H thực hiện hành
vi ngay sau khi nghe thấy mẹ mình bị đánh, thấy mẹ chịu đau đớn, và thấy bố dượng
điềm nhiên ăn cơm… các sự việc xảy ra liên tiếp khiến H lâm vào tình trạng tinh thần bị
kích động mạnh. Rõ ràng xảy ra vụ việc giết người này tinh thần của H đã bị kích động
không hề nhẹ. Do đó, nếu cho rằng H phạm tội giết người theo quy định tại Điều 93 với
tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 thì có phần không hợp lí.
Từ những căn cứ, phân tích nêu trên có thể thấy hành vi của H đã thỏa mãn các yếu tố
cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo quy định tại
Điều 95 BLHS, cụ thể:
Về khách thể: hành vi của H đã xâm phạm đến quyền nhân thân, xâm phạm đến tính
mạng của con người được pháp luật bảo vệ, cụ thể là tính mạng của người bố dượng.
Mặt khách quan: Hành vi H dùng dao chém nhiều nhát vào bố dượng và tử vong đã
thỏa mãn các dấu hiệu hành vi khách quan quy định tại khoản 1 Điều 95, là hành vi tước
đoạt trái pháp luật tính mạng của con người, tác động trực tiếp vào con người đang
sống. Hành vi của H được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của người bố dượng. Hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của bố dượng H ở đây là xâm phạm đến quyền nhân thân, quyền được bảo vệ về
tính mạng, sức khỏe của mẹ H, đã gây thương tích cho mẹ H. Hành vi của H đã gây ra
hậu quả là cái chết của bố dượng, giữa hành vi của H với hậu quả bố dượng chết có mối
quan hệ nhân quả với nhau. Như vậy hành vi khách quan của H đã thỏa mãn yếu tố mặt
4



khách quan của tội phạm.
Về mặt chủ quan: H thực hiện hành vi giết bố dượng với lỗi cố ý trực tiếp.. Đối với
vụ việc nêu ra ở đầu bài, khi thực hiện hành vi phạm tội, tuy H bị kích động mạnh về
tinh thần nhưng H vẫn biết hành vi đó là nguy hiểm, có thể gây ra chết người. Song
cũng chính vì bị kích động mạnh như vậy và do mong muốn trả thù cho mẹ nên H đã
thực hiện hành vi giết người, H cũng mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Chủ thể: do tình huống không có quy định cụ thể nên mặc định cho rằng H là người
đạt độ tuổi và có đẩy đủ năng lực TNHS theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích ở trên có thể khẳng định rằng hành vi của H đã cấu thành tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo quy định tại khoản 1
Điều 95 BLHS. Trong trường hợp này, H phạm tội ít nghiêm trọng với mức phạt cao
nhất có thể lên tới ba năm tù giam.
Ý nghĩa của việc định tội danh trong trường hợp trên:
Khi xem xét đánh giá một hành vi phạm tội của một tội phạm cụ thể cần phải xem
xét toàn diện, khách quan đầy đủ các dấu hiệu, yếu tố để định tội danh đúng cho người
phạm tội tránh tình trạng làm oan người không có tội hay để lọt tội phạm. Định tội danh
đúng là một trong những cơ sở chính xác để xác định các quy phạm áp dụng đối với
người phạm tội, góp phần bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của công dân. Định tội danh
đúng chính là sự thể hiện hoạt động có hiệu quả cũng như ý thức tuân thủ triệt để pháp
luật của người, cơ quan có thẩm quyền. Nếu định tội danh sai thì hậu quả tất yếu là vấn
đề quyết định hình phạt cũng sai, như vậy hình phạt đã tuyên không tương xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (có thể là quá nhẹ hoặc quá
nặng). Việc định tội danh sai sẽ không thuyết phục được bị cáo cũng như nhân dân của
bản án, không đảm bảo được tính có căn cứ pháp lí của bản án.
Có thể thấy ngay trong vụ án này, giả sử định tội danh cho hành vi của H là phạm
tội giết người theo quy định tại Điều 93 với tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tai điểm
đ khoản 1 Điều 46 thì mức hình phạt mà H có thể phải chịu thấp nhất cũng là trên bảy
năm tù đến mười lăm năm tù giam (nếu truy tố theo khoản 1 Điều 93). Tuy nhiên, nếu
định tội danh cho hành vi của H là phạm tội giết người theo quy định tại Điều 95 BLHS

thì mức hình phạt cao nhất mà H phải chịu cũng chỉ đến ba năm tù giam. Giữa hai mức
5


hình phạt này có độ chênh nhau khá lớn cho thấy tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
khác nhau. Ở đây hành vi của H cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh theo Điều 95 nhưng giả sử tòa án lại tuyên H phạm tội giết người theo
quy định tại Điều 93 với tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46
thì bản án này sẽ không thuyết phục đối với H, khiến cho H cảm thấy không phục,
không thấy được sự sai trái trong hành vi của mình từ đó không tự giác tuân thủ pháp
luật.
2: Giả sử khi H xách dao từ bếp ra định chém bố dượng thì có người nhìn thấy
cản lại. Bố dượng H đã bỏ trốn khỏi nhà một tuần rồi lại trở về. Khi bố dượng về
đến nhà H nhìn thấy lại cầm dao chém chết ông ta thì tội danh của H có thay đổi
không? Tại sao?
Điều 95 BLHS quy định: “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân..”. Có thể thấy
điều luật đã quy định dấu hiệu (điều kiện) bắt buộc đối với tội phạm giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là hành vi giết người phải được thực hiện trong
khi tinh thần bị kích động mạnh. Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của con người
chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn nhất định chứ không kéo dài mãi, khi kết
thúc khoảng thời gian đó trạng thái con người sẽ cân bằng trở lại sẽ nhận thức và điều
khiển được hành vi của mình như bình thường. Như vậy, trong trường hợp này khi mà
bố dượng H đã bỏ nhà đi một tuần và trở về mà H vẫn cầm dao chém chết ông ta thì tội
danh đã thay đổi.
Trong trường hợp này hành vi của H đã thỏa mãn các yêu tố cấu thành tội giết
người theo quy định tại Điều 93 BLHS.
Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp
luật, được các nhà làm luật quy định tại Điều 93 BLHS. Mặc dù không được quy định
một cách cụ thể, nhưng từ thực tiễn xét xử có thể rút ra những dấu hiệu pháp lí của tội

phạm này như sau:
6


Về khách thể, đó là hành vi giết người đã xâm phạm quyền nhân thân, quyền được
bảo vệ về tính mạng con người. Do đó đối tượng tác động của tội giết người phải là con
người đang sống, những người đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là con
người – thực thể tự nhiên và xã hội.
Xét trong vụ án, đối tượng tác động cụ thể ở đây là bố dượng của H.
Về chủ thể, chủ thể của tội giết người là chủ thể thường, tức là những người có năng
lực TNHS và đạt đủ độ tuổi luật định. Trong vụ án này, vì không đề cập đến đặc điểm
về độ tuổi và năng lực TNHS của H nên ta mặc nhiên khẳng định, khi thực hiện hành vi
phạm tội H đủ 14 tuổi trở lên và có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều
khiển hành vi.
Về mặt khách quan, hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái
pháp luật tính mạng của người khác. Nó được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái
chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ, được biểu hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động. Những hành vi không có khả năng này không thể là hành vi
khách quan của tội giết người. Ở đây, khi bố dượng H trở về nhà sau một tuần bỏ trốn,
H nhìn thấy đã cầm dao chém chết ông ta. Như vậy hành vi của H là hành vi tước đoạt
tính mạng của người bố dượng trái pháp luật. Tội giết người là tội có cấu thành vật chất
nên hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc, tội phạm chỉ được coi là hoàn thành
khi có hậu quả chết người xảy ra. Trường hợp hậu quả chết người không xảy ra vì
nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội bị coi là tội giết người chưa đạt hoặc tội
cố ý gây thương tích tuỳ thuộc vào lỗi của người phạm tội.
Theo như tình huống đã nêu, H đã chém chết bố dượng, tức là đã có hậu quả chết
người xảy ra. Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người, về
nguyên tắc, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội
do chính hành vi của mình gây ra. Nguyên tắc này đòi hỏi phải xác định hậu quả chết
người có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan hay không. Việc xác định mối quan

hệ nhân quả là điều kiện cần thiết để buộc người có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính
mạng người khác và chịu trách nhiệm về hậu quả chết người đã xảy ra. Người có hành
7


vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác chỉ phải chịu TNHS về hậu quả chết
người đã xảy ra nếu hành vi họ đã thực hiện là nguyên nhân của hậu quả chết người đã
xảy ra đó. Trong trường hợp này có thể thấy rõ ràng giữa hành vi cầm dao chém của H
với cái chết của người bố dượng có mối quan hệ nhân quả, chính hành vi cầm dao chém
của H là nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người của bố dượng H.
Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận
thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có
thể xảy ra (hoặc tất nhiên xảy ra) nhưng vẫn thực hiện hành vi mong muốn hậu quả xảy
ra.
Về lí trí, H nhận thấy rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội trong hành vi của mình, đó
là hành vi xâm hại đến tính mạng của người bố dượng, là hành vi mà pháp luật ngăn
cấm và thấy trước hành vi này có thể gây ra hậu quả cướp đi tính mạng của người bố
dượng nên H đã lựa chọn dao là hung khí nguy hiểm có khả năng gây chết người.
Về ý chí, H mong muốn hậu quả chết người xảy ra, mong nuốn bố dượng chết.
Như vậy, từ những lập luận trên kết luận, trong trường hợp này hành vi phạm tội của
H không thỏa mãn cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
theo điều 95 BLHS, mà đã cấu thành Tội giết người theo khoản 1Điều 93 BLHS.
3. Giả sử khi bố dượng H trở về sau một tuần trốn khỏi nhà đã đấm mạnh H
vào sau gáy làm H bị va chán xuống sân, sau đó ông ta lại xông vào định đấm tiếp
thì bị H với con dao đang trẻ lạt ở sân đâm chết. Tội danh của H có thay đổi
không? Tại sao?

8



Xét trong trường hợp này, tội danh của H sẽ thay đổi.
Điều 15 BLHS quy định: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích
nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”.
Trong trường hợp này bố dượng H là người đang có hành vi xâm phạm trái pháp luật
đến quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của H. Hành vi với con dao trẻ lạt ở sân
đâm chết bố dượng của H là hành vi phòng vệ chính đáng, tuy nhiên do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng nên hành vi của H đã cấu thành tội giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại Điều 96 BLHS. Điều 96 BLHS quy định:
“Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi cố ý tước đoạt tính
mạng người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, của tổ chức, lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác một cách không cần thiết. Để xác định được
một hành vi có phải là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hay không cần phải xem
xét hành vi đó có phải là phòng vệ chính đáng không.
Ngoài thỏa mãn dấu hiệu phòng vệ chính đáng, người phạm tội còn phải thỏa mãn các
dấu hiệu riêng cấu thành tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
- Nạn nhân là người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, của
tập thể, lợi ích của người phạm tội hoặc của công dân khác, hành vi trái pháp luật của
nạn nhân đòi hỏi có mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
- Người phạm tội đã có hành vi tước đoạt tính mạng nạn nhân trong khi hành vi xâm
phạm của nạn nhân đang xảy ra, chưa kết thúc hoặc đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc.
9


- Sự phòng vệ của người phạm tội rõ ràng là quá mức cần thiết, gây hậu quả nghiêm
trọng, không tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của nạn nhân.


Trong trường hợp này, bố dượng H đang có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe
của H, hành vi này đang xảy ra và chưa kết thúc, thể hiện ở tình tiết: “bố dượng H đấm
mạnh vào sau gáy H làm H bị va chán xuống sân, sau đó ông ta định xông lên đấm
tiếp…”.
Như vậy hành vi trái pháp luật này của bố dượng H đã là căn cứ phát sinh quyền phòng
vệ chính đáng của mình nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của mình. Hành vi với con
dao trẻ lạt ở sân đâm bố dượng của H là hành vi được thực hiện trong khi hành vi xâm
phạm của bố dượng H đang diễn ra, giả sử nếu H không cầm dao đâm bố dượng thì có
thể sẽ bị ông ta đánh chết hoặc bị thương tích. Tuy nhiên hành vi này của H đã thể hiện
sự vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, cho thấy sự quá mức cần thiết và không phù
hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của nạn nhân. Điều này thể hiện ở
phương tiện, công cụ phòng vệ của người phạm tội. Khi mà bố dượng H dùng tay để
đấm H thì H lại dùng dao đâm lại, trong trường hợp này lẽ ra H chỉ nên bỏ chạy hoặc tự
mình ngăn cản hành vi xâm hại của bố dượng mà không dùng hung khí.
So sánh mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của nạn nhân với hậu quả mà người
phạm tội gây ra cho nạn nhân có thể thấy rằng không phù hợp. Hành vi xâm phạm của
bố dượng H có khả năng gây chết người thấp hơn nhiều so với hành vi dùng dao đâm
của H.
Vì vậy, có thể khẳng định trong trường hợp này, tội danh của H sẽ thay đổi. H phạm tội
Giết người do vượt qua giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại khoản 1
Điều 96 BLHS

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1999.
2. Luật gia: Hoàng Hoa Sơn, Hỏi đáp về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2006.
3. />p_page_id=2671429&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=13920596

4. />5. />
MỤC LỤC
1.Có 2 quan điểm về tội danh của H như sau…………………………………………2
2.Giả sử khi H xách dao từ bếp ra định chém bố dượng thì có người nhìn thấy cản
lại. Bố dượng H đã bỏ trốn khỏi nhà một tuần rồi lại trở về. Khi bố dượng về đến
nhà H nhìn thấy lại cầm dao chém chết ông ta thì tội danh của H có thay đổi
không? Tại sao?...............................................................................................................6

11


3. Giả sử khi bố dượng H trở về sau một tuần trốn khỏi nhà đã đấm mạnh H vào
sau gáy làm H bị va chán xuống sân, sau đó ông ta lại xâm vào định đấm tiếp thì bị
H với con dao đang trẻ lạt ở sân đâm chết. Tội danh của H có thay đổi không? Tại
sao?...................................................................................................................................8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….11

12



×