Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

hãy tìm hiểu 2 vụ việc có thật liên quan đến việc xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân bài này nhóm t được 8 điểm thôi nhé các bạn tham khảo đi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.82 KB, 19 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện thế giới hiện nay nói chung và Việt Nam nói riêng, khi mà các giá
trị về vật chất của con người càng ngày được bảo đảm và nâng cao thì vấn đề về
giá trị tinh thần càng được coi trọng, trong đó có quyền về “bí mật đời tư”. Đây là
quyền cơ bản của công dân được ghi nhân trong Điều 73 của Hiến Pháp và Điều
38 của Bộ Luật Dân Sự năm 2005. Tuy nhiên từ lí luân đi đến thực tiễn là cả một
vấn đề, quyền bí mật đời tư của cá nhân trên thực tế còn có nhiều vấn đề đáng
phải bàn.
Bài luận sau đây chúng tôi muốn đi sâu làm rõ hơn về quyền bí mật đời tư của cá
nhân thông qua một số tình huống có thật trên thực tiễn đã được tòa án giải quyết
để từ đó chúng ta đánh giá được những quy định của pháp luật hiện hành so với
nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống hiện nay.
II. NỘI DUNG CHÍNH
1. Cơ sở lí luận
1.1 Khái quát chung về quyền nhân thân. Ví trí của quyền bí mật đời tư trong hệ
thống quyền nhân thân.
- Quyền nhân thân là một bộ phận của quyền con người, quyền dân sự và không tách
rời khỏi quyền con người. Lịch sử phát triển của quyền nhân thân gắn liền với lịch sử
của quyền con người. cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người thì quyền
nhân thân nói riêng, quyền con người nói chung cũng được ghi nhận và phát triển
trong mối liên hệ tác động qua lại với sự phát triển của lịch sử xã hội. Ở Việt Nam
quyền nhân thân được thể hiện trong các bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 1992 đã mở
rộng quyền nhân thân của cá nhân . Bên cạnh hiến pháp năm 1992 và hiến pháp 1992
sửa đổi, một loạt văn bản pháp luật có hiệu lực sau hiến pháp được ban hành cụ thể
hóa quyền nhân thân, trong đó phải kể đến Bộ Luật Dân Sự năm1995 và 2005, luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000, luật Báo chí….
- Quyền bí mật đời tư là quyền nhân thân cơ bản của cá nhân, đây là quyền hiến
định(điều 73 hiến pháp năm 1992) nhưng cũng là quyền nhân thân cơ bản được ghi
nhận trong các văn bản pháp luật dân sự.
Điều 38 BLDS 2005 quy định:
“1, Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.


2, Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được
người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân


sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ ,chồng, con đã thành niên hoặc
người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thong tin, tư
liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3, Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân
được đảm bảo an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thong tin điện tử khác
của cá nhân dược thực hiện trong trường hợp pháp luạt có quy định và phải có
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
Như vậy BLDS năm 2005 không đưa ra khái niệm “bí mật đời tư” mà chỉ đề cập
đến các khía cạnh xung quanh vấn đề “quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn
trọng và pháp luật bảo vệ” gồm “thông tin, tư liệu về đời tư”, “ thư tín, điện thoại,
điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác”. Đây chính là một trong những
khó khăn khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các tranh chấp liên quan đến “bí mật đời tư”.
Chính vì vậy bài luận của chúng tôi sẽ lấy những ví dụ cụ thể về việc bí mật đời tư
của cá nhân bị xâm hại đã được tòa án giải quyết để rút ra những nhận xét về
những chỗ còn thiếu sót của pháp luật.
1.2 Biểu hiện cụ thể của những hành vi xâm phạm bí mật đời tư (điều 38 BLDS 2005).
-Hành vi thu thập, công bố các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân nhưng
không được sự đồng ý của cá nhân hoặc của nhân thân cá nhân đó trong trường
hợp cá nhân đó đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp
luật.
-Hành vi xâm phạm bí mật đời tư kiên quan đến thư tín, điện thoại , điện tín và các
hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân.
2. Hai vụ viêc liên quan đên hanh vi xâm pham quyên bí mật đơi tư cua ca
nhân.

1.Tinh huông thứ nhất:
Bản án số 03/2006/DSST 5.1.2006 ngày của toà án nhân dân quận Liên
Chiểu –Đà Năng.Liên quan đến vụ việc quyền bí mật đời tư về điện thoại
và thông tin điện tử của chị Mai Thị Hoa bị xâm hại.
-Nơi xảy ra vụ việc:Quận Liên Chiểu- Đà Năng.


-Nguyên đơn:chị Mai Thị Hoa,sinh năm 1982,cư trú tại số nhà 47,phường
Hiệp Hoà Bắc,Quận Liên Chiểu,thành phố Đà Năng
-Bị đơn:Tập đoàn viễn thông Mobifone-Chi nhánh thành phố Đà Năng,trụ
sở số 12 Trần Hưng Đạo,quận Liên chiểu,thành phố Đà Năng,do ông Trịnh
Hồng Kim(Giám đốc Mobifone khu vực 3)làm đại diện.
-Cơ quan giải quyết:Toà án nhân dân quận Liên Chiểu,thành phố Đà Năng.
1.1.Tom tăt vụ việc.
Chị Mai Thị Hoa đã cho biết mình đã sử dụng dịch vụ của Mobifone
được 2 năm.Ngày 21.11.2005 chồng chị là anh nguyễn Văn Tuấn mang về
những bản in chi tiết số điện thoại của chị Hoa từ tháng 5 đến tháng 9 năm
2005.Trong đó có ghi rõ từng ngày chị thực hiện bao nhiêu cuộc gọi,gọi
vào những số nào,ngày nào,giờ nào.Ngoài ra còn có một bản kê khai hơn
20 số điện thoại của những người đàn ông gọi đến cho chị.Và tất cả các
bản kê khai này đều là mẫu giấy của hãng dịch vụ viễn thông
Mobifone.Chính do những bản khai này mà chồng chị Hoa luôn truy hỏi,trì
triết và yêu cầu chị li hôn.Mặc dù chị không hề muốn li hôn nhưng chị vẫn
phải kí vào đơn li dị.
Ngày 24.11.2005,chị Hoa có tìm đến bộ phận chăm sóc khách hàng của
Mobifone,số 12 Trần Hưng Đạo,quận Liên Chiểu,thành phố Đà Năng để
hỏi về những bản kê khai trên,nhưng nhận được câu trả lời của nhân viên
tư vấn: “có thể chồng chị đã biết mã pin điện thoại của chị và vào website
của Mobifone để in bảng chi tiết các cuộc gọi”.Tuy nhiên chị Hoa khẳng
định rằng chưa bao giờ dùng máy điện thoại của mình và lấy mã pin và

càng không vao website của hãng để đăng kí mà đăng kí trực tiếp tại chi
nhánh này.


Sau đó ngày 25.11.2005 chị đến tổng công chi nhánh mobifone miền
trung thắc mắc thì được ông Trịnh Hồng Kim (giám đốc mobifone khu vực
3)cho biết: “ đối với thuê bao mobicard,việc thực hiện cuộc gọi tính cước
online,việc tính cước và quản lí cuộc gọi của khách hàng được tập trung tại
Hà Nội.Chúng tôi không quản lí việc bí mật các cuộc gọi của khách hàng
tại Đà Năng bị lộ từ phía chúng tôi.”
Rất bất bình với trước câu trả lời trên ,ngày 7/12/2005 chị Hoa làm đơn
khởi kiện công ty này lên toà án nhân dân quận Liên Chiểu,Đà Năng.Trong
đơn kiện chị cho rằng tập đoàn viễn thông Mobifone đã có hành vi xâm
phạm đời tư của chị khi tiết lộ bí mật các cuộc gọi của chị cho chồng chị
và yêu cầu phía Mobifone công khai xin lỗi và bồi thường cho chị.
1.2.Quyêt đinh của toà án nhân dân quận Liên Chiểu-Đà Năng.
Sau khi thu thập chứng cứ,lời khai của các bên.Ngày 5.1.1.2006 toà án
quận Liên Chiểu Mở phiên xét xử và đưa ra quyết định:
1.Căn cứ vào khoản 1 điều 38 BLDS năm 200 và điều 9 pháp lệnh bưu
chính viễn thông năm 2002.Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu của chị
Mai Thị Hoa.Xét thấy hành vi tiết lộ bản kê khai danh sách các cuộc gọi
của chị Hoa của mạng viễn thông Mobifone là hành vi xâm phạm đến
quyền bí mật đời tư của chị,nên buộc mạng viễn thông Mobifone,do ông
Trịnh Hồng Kim làm đại diện bồi thường cho chị Hoa số tiền là 3.850.000
đồng.
2.Hội đồng xét xử cũng đưa ra lời cản báo với mạng di động mobifone
không được tiết lộ bí mật của khách hàng khi không được sự cho phép của
khách hành và yêu cấu công ti này phải công khai xin lỗi chị Mai Thị Hoa.



1.3.Phân tích cách giai quyêt vụ việc của toà án quận Liên Chiểu,Đà Năng
giai quyêt vụ việc noi trên
-Những quyết định của toà án quận Liên Chiểu theo đánh giá của nhóm là
có căn cứ pháp lí bởi:
+Theo khoản 3 điều 38 BLDS năm 2005 đã quy định “thư tín,điện
thoại,điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác được đảm bảo an toàn
và bí mật”.Theo đó thì bản kê khai chi tiết danh sách cuộc gọi chính là một
trong những hình thức “thông tin điện tử khác” nên cũng được pháp luật
bảo vệ và coi đó là quyền đời tư của các nhân và nghiêm cấm các hành vi
xâm phạm ,tiết lộ những thông tin đó nếu không được sự đồng ý của công
dân đó.Theo đó thì hành vi của nhân viên Mobifone cung cấp bản kê khai
danh sách các cuộc gọi của khách hàng(chị Hoa) là hành vi xâm phạm,tiết
lộ quyền bí mật đời tư về điện thoại và thông tin điện tử của công dân .Vì
vậy mà hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện và yêu cầu của chị hoa là
đúng.
2.Mặt khác,theo quy định tại điều 9 pháp lệnh bưu chính viễn thông 2002
về đảm bảo thông tin quy định tại khoản 1:”bí mật đối với thông tin riêng
chuyển qua mạng bưu chính viễn thông của mọi tổ chức,với mọi cá nhân
được đảm bảo theo quy định của pháp luật”.Tại điểm c khoản 2 điều 42
của pháp lệnh cũng quy định người sử dụng viễn thông “được đảm bảo bí
mật thông tin theo quy định của pháp luật”.Vậy thông tin về “ Chi tiết cuộc
gọi gốc” và các bản kê khai cuộc gọi được liệt vào danh sách “thông tin bí
mật “theo quy định của pháp luật”.Các thông tin này không được cung cấp
cho bất kì ai ngoài chủ thuê bao ,kể cả những người thân thích của chủ
thuê bao như:vợ ,chồng,cha mẹ…trừ những trường hợp khác theo quy định
của pháp luật hay quyết định của cơ quan có thẩm quyền.Vì đó hành vi
mạng mobifone tiết lộ danh sách cuộc gọi của chị Hoa cho chồng chị là trái


pháp luật bởi không có sự đồng ý hoặc uỷ quyền của chị hay do quy định

khác của pháp luật hoặc quyết định của toà án.Từ đó cho thấy quyết định
của hội đồng xét xử quận Liên Chiểu quyết định cảnh báo mạng mobifone
không được tiết lộ thông tin của khách hàng và buộc đơn vị náy phải ông
khai xin lỗi chị Hoa là phù hợp theo quy định của pháp luật theo quy định
tại khoản 2 điều 25 BLDS “yêu cầu người vi phạm hoặc cơ quan,tổ chức
có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm,xin lỗi,cải
chính công khai”
-Việc mạng mobifone tiết lộ bí mật đời tư về điện thoại và thông tin điện tử
của chị Hoa không chỉ xâm hại đến tới quyền về bí mật đời tư theo quy
định của pháp luật như đã nêu trên mà còn dẫn đến hậu quả nhân phẩm của
người bị xâm phạm(Chị Hoa)bị chồng hiểu sai do đó vợ chồng chị phải li
dị,gia đình đổ vỡ,li tán.Về mặt pháp lí,hành vi làm lộ bí mật đời tư của cá
nhân là hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiện dân sự của
những người có hành vi làm lộ bí mật đời tư của người khác là trách nhiệm
ngoài hợp đồng.Vì vậy hội đông xét xử yêu cầu mạng mobifone bồi
thường thiệt hại đối với chị Mai với số tiền là 3.850.000 đồng để bù đắp
thiệt hại là có căn cứ pháp luật theo khoản 3 điều 25 BLDS 2005 “ yêu
cầu người vi phạm hoặc yêu cấu cơ quan.tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm bồi thường thiệt hại”.
2.Tinh huông thứ 2:
Bản án số 25/2006/DSST ngày 14.12.2006 của toà án nhân dân quận Hoàn
Kiếm – thành phố Hà Nội. Yêu cầu cải chính và bồi thường thiệt hại do bí
mật đời tư,nhân phẩm,danh dự của bà Nguyễn Thị Kim Oanh bị xâm
phạm.


-Nguyên đơn:Bà Nguyễn Thị Kim Oanh,sinh năm 1957,trú tại số 80,tổ
25,phường Tân Quang,thị xã Tuyên Quang .
- Bị đơn :
+Báo Công Lí:trụ sở 48 phố Lý Thường Kiệt,quận Hoàn Kiếm,thành phố

Hà Nội ,do ông Nguyễn Gia Cương(tổng biên tập) đại diện.
+Phóng viên báo Công Lí:Lê Huy Hoàng,năm sinh 1987 ,trú tạị số 339
ấp Hưng Lộc,xã Hưng Định,huyện Thuận An,tỉnh Bình Dương.
-Cơ quan giải quyết vụ việc:Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố
Hà Nội.
2.1.Tom tăt vụ việc.
Trên báo Công Lí số 02 ra từ ngày 09 đến ngày 16.01.2003 có bài “ chân
dung và những trò lừa bịp”do phóng viên Lê Huy Hoàng viết,nội dung bài
báo có nội dung liên quan đến những quyền bí mật đời tư của bà Nguyễn
Thị Kim Oanh :
1.Bài báo có viết bà Oanh lừa tình,lừa tiền,sống già nhân ngãi,non vợ
chồng với ông H.A.T để lấy 17 triệu đồng xây nhà,lừa ông Đ.T.T vay 16
triệu đồng.
2.Bài báo còn nêu những chi tiết đời tư của bà Oanh không đúng sự
thật,phản ánh việc bà tranh chấp tài sản khi li hôn với chồng.
3.Bài báo còn viết về chuyện nội bộ gia đình bà trang chấp tiền mai táng
của bố .
Sau khi đọc xong bài báo này,vào ngày 25.4.2003 bà Oanh đã gọi điện đến
văn phòng báo Công Lí yêu cầu cải chính nội dung bài viết “ chân dung và


những trò lừa bịp”thì nhận được câu trả lời của ông Nguyễn Gia Cương
“Bài báo chúng tôi viết hoàn toàn dựa trên những tư liệu có thật và chuyện
này là chuyện công khai mà phóng viên ghi chép được,chúng tôi không sai
nên không cải chính,có gì thắc mắc xin bà hỏi phóng viên Lê Hoàng ,người
đã viết bài báo này”.Sau đó bà Oanh đã xin số của phóng viên Lê Hoàng
và liên lục gọi nhưng không nhận được hồi âm.Và bài báo đó vẫn tiếp tục
được xuất bản và bán ra thị trường.
Do đó ngày 9.3.2004 bà Oanh đã có đơn khởi kiện lên toà án nhân dân
quận Hoàn Kiếm- Hà Nội yêu cầu:

+Báo Công Lí và phóng viên Lê Hoàng phải công khai xin lỗi và đăng cải
chính nội dung của bài báo: “chân dung và nhưng kẻ lừa bịp ”.
+Phóng viên Lê Hoàng và báo Công Lí phải bồi thường thiệt hại là
24.100.000 đồng bao gồm tiền bồi thường 10 tháng lương tối thiểu x
450.000 đồng = 4.500.000 đồng;tiền thuê nhà tính từ tháng 3 năm 2004
đến khi sơ thẩm là 33 tháng x 500.000 đồng =16.500.000 đồng và các chi
phí hợp lí khác như:tiền thuê luật sư,tiền thuê xe ôm,tiền đánh máy … là
3.100.000 đồng.
2.2.Quyêt đinh của toà án Quận Hoàn Kiêm,Hà Nôi về vụ việc trên.
Sau khi xét hỏi,tranh luận và nghị án hội đồng xét xử toà án nhân dân
quận Hoàn Kiếm đã tuyên :theo nội dung bản án hội đồng xét xử đã nhận
định :Báo Công Lí và phóng viên Lê Hoàng đã có hành vi xâm phạm bí
mật đời tư,từ đó gây hậu quả làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dư
̣,nhân phẩm,uy tín của bà Oanh .Do đó hội đồng xét xử chấp nhận mức yêu
cầu của bà Oanh và đưa ra quyết định:


1.Buộc phóng viên Lê Hoàng và báo Công Lí công khai xin lỗi và cải
chính 3 nội dung của bài báo như đã nói trên trong bài báo “chân dung và
những trò bịp”liên quan đến đời tư của bà Oanh.Thời gian đăng cải chính
là 10 ngày kể từ phóng viên Lê Hoàng và báo Công Lí nhận được bản án
có hiệu lực pháp lí.
2.chấp nhận yêu cấu đòi bồi thường thiệt hại của bà Oanh do việc bị xâm
phạm dênd bí mật đời tư,danh dự,nhân phẩm,uy tín do báo Công Lí và
phóng viên Lê Hoàng gây ra.Đó là buộc phóng viên Lê Hoàng và báo
Công Lí (do ông Nguyễn Gia Cương- tổng đại diện theo pháp luật liên đới)
phait bồi thường cho bà Oanh tổng số tiền thiệt hại là 11.500.000 đồng bao
gồm:
-Bồi thường thiệt hại về tinh thần bằng 7 tháng lương tối thiểu x 450.000
đồng/tháng = 3.150.000 đồng

-Bồi thường những chi phí khác:
+Tiền thuê luật sư:2.400.000 đồng.
+Tiền thuê xe ôm :1.000.000 đồng.
+Tiền thuê đánh máy,tiền photo tài liệu,tiền tem thư là :1.000.000 đồng.
+Tiền thuê nhà 7 tháng x 500.000 đồng/tháng =3.500.000 đồng.
2.3 Nhận xet của nhom về các giai quyêt của toà án quận Hoàn Kiêm đối
vơi vụ việc trên:
Về vấn đề giải quyết vụ việc trên có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau:có ý
kiến đồng tình với quan điểm và kết luận của hội đồng xét xử và có cả
những ý kiến không đồng tình với ý kiến của hội đồng xét xử..Còn theo
quan điểm của nhóm chúng tôi không hoàn toàn đồng ý với quyết định của


hội đồng xét xử quận Hoàn Kiếm,Hà Nội.Bởi quyết định đó có những
điểm đúng tuy nhiên còn một số điểm chưa hợp lí:
a. Đồng tình với những kết luận của hội đồng xét xử:
Trong nội dung của bài báo “ chân dung và những trò bịp”,có 3 nội dung
liên quan đến quyết định của hội đồng xét xử:
- Thứ nhất:bài báo có viết bà Oanh đã lừa tinh,lừa tiền ông H.A.T lấy
17.000.000 đồng và ông Đ.T.T lấy 16.000.000 đồng. Nội dung này cho
thấy bài báo này đã phản ánh các mối quan hệ của bà Oanh ,đây được coi
là các quan hệ cá nhân riêng tư của công dân và cũng được coi là bí mật
đời tư của cá nhân đó.Do đó vịêc phóng viên Lê Hoàng phản ánh mối
quan hệ riêng của bà Oanh với ông H.A.T và ông Đ.T.T phải được sự
đồng ý của bà Oanh(theo căn cứ pháp lí tại khoản 2 điều 38 BLDS
2005) :”việc thu thập,công bố thông tin ,tư liệu đời tư của cá nhân phải
được người đó đồng ý”.Vậy hành vi của phóng viên Lê Hoàng là trái
pháp luật.
- Thứ hai nội dung của bài báo còn viết về việc tranh chấp tài sản với vợ
chồng khi li hôn.Mà theo phóng viên Lê Hoàng thì được coi là thông tin

công khai vì được xử tại toà.Tuy nhiên cần hiểu chính xác rằng việc công
khai thông tin tại toà của một vụ án hôn nhân gia đình hoàn toàn khác với
một vụ án hình sự và đồng thời cũng nên hiểu công khai thông tin tại toà
không đồng nghĩa với việc mất tính bí mật của thông tin đó.Nên việc công
khai thông tin tại toà án khi các đương sự li hôn là căn cứ để oà án xem xét
và có quyết định co li hôn,tuy nhiên việc các thông tin này nế được công
khai ra dư luận sẽ có thể tạo bất lợi trong cuộc sống của các bên sau khi li
hôn.Bên cạnh đó trong quá trình tiến hành trình tự tố tụng không đồng
nghĩa với việc công bố bí mật đời tư của những người liên quan.Cho nên


việc công khai chuyện riên tư của bà oanh về cuộc li hôn lên báo chí mà
chưa có sự đồng ý và chấp thuận,cũng như uỷ quyền của các bên liên quan
hay bất cứ quyết định của các cơ quan có thẩm quyền hoặc theo những quy
định cụ thể của pháp luật.Vì vậy hành vi trên là vi phạm pháp luật xâm
phạm đến đời tư của bà Oanh.Không những vậy theo điều tra thì được bà
oanh không có tranh chấp với chồng bà về tài sản như nội dung mà phóng
viên Lê Hoàng đề cập đến.
- Thứ ba:Nội dung của bài báo còn đề cập đến vấn đề trong gia đình bà
Oanh tranh chấp tiền mai táng.Trong trường hợp này ta nhận thấy việc gia
đình của gia đình là chuyện nội bộ,chuyện riêng tư của gia đình đó nói
chung và chuyện riên tư của cá nhân đó nói riêng.Vậy việc công khai
chuyện riên tư của gia đình cũng như các thành viên khác lên phương tiện
truyền thôing mà chưa có sự đồng ý của người đó thì đó là hành vi xâm
phạm đến quyền bí mật đời tư của cá nhân đó
Vậy với những phân tích trên đây thì bài báo “chân dung và những trò
bịp” của phóng viên báo Công Lí Lê Hoàng viết là hành vi xâm phạm đến
quyề bí mật đời tư của cá nhân của bà Oanh,đây là một trong số những
quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ.Do đó chúng tôi hoàn toàn đồng ý
với với quyết định của hội đồng xét xử khi yêu cầu phóng viên Lê Hoàng

và báo Công lí công khai xin lỗi và cải chính toàn bộ 3 nội dung của bài
báo trên,hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật: “khi báo chí
thông tin sai sự thật,xuyên tạc vu khống,xúc phạm danh dự,nân phẩm của
người khác phải cải chính và xin lỗi hoặc đăng,phát sóng lời cải chính của
tổ chức,của công dân”(theo khoản 2 điều 25 BLDS 2005 và điều 9,10 luật
báo chí đã quy định về vấn đề cải chính trên báo chí).


Đồng thời chúng tôi cũng đồng ý với kết luận của hội đồng xét xử cho rằng
quyền bí mật đời tư của bà Oanh bị phóng viên Lê Hoàng tiết lộ đã ảnh
hưởng đến vấn đề bảo vệ nhân phẩm,danh dự,uy tín của cá nhân bà
Oanh.Đặt vào tình huống nếu công khai những tin tức sai sự thật trên
báo,liệu những người thân trong gia đình,những người mà bà Oanh quen
biết sẽ đánh giá như thế nào về bà!và cuộc sống cũng như sinh hoạt của bà
sẽ bị ảnh hưởng xấu từ những thông tin sai sự thật đó.Nên hành vi của
phóng viên Huy Hoàng đã xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự,nhân
phẩm,uy tín và đồng thời bà Oanh cũng phải chụi tổn thất về mặt tinh
thần.Do vậy việc toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm-Thành phố Hà Nội
buộc phóng viên Lê Huy Hoàng và báo Công Lí do ông Phạm Gia Cương
liên đới bồi thường là có căn cứ theo quy định của pháp luật theo điều 611
BLDS: “ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bi xâm phạm :
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bi xâm phạm, thiệt
hại do danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bi xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chê, khăc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tê bi mất hoặc bi giam sút.
2. Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phai bồi
thường thiệt hại theo quy đinh tại khoan 1 Điều này và môt khoan tiền
khác để bù đăp tổn thất về tinh thần mà người đo gánh chiu. Mức bồi
thường bù đăp tổn thất về tinh thần do các bên thoa thuận; nêu không thoa
thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà

nươc quy đinh.” Và cũng phù hợp với nghị quyết số 01 của hội đồng thẩm
phán toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ
luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm


Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm có thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự,
uy tín của tổ chức bị xâm phạm.
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần
thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm,
uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ
chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại,
thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc
chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các
phương tiện thông tin đại chúng; chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính công
khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí
thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
a. Nếu trước khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị xâm
phạm có thu nhập thực tế, nhưng do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
người bị xâm phạm phải thực hiện những công việc để hạn chế, khắc phục
thiệt hại, nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ
được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
b. Việc xác định thu nhập thực tế của người bị xâm phạm và việc xác định
thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị xâm phạm được thực
hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.
- Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm.
a. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy

tín bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị xâm phạm.


b. Không phải trong mọi trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm thì người bị xâm phạm đương nhiên được bồi thường khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục
1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định trong trường hợp cụ thể đó
người bị xâm phạm có bị tổn thất về tinh thần hay không và mức độ tổn thất
về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào hình
thức xâm phạm (bằng lời nói hay đăng trên báo viết hay trên báo hình...),
Hành vi xâm phạm, mức độ lan truyền thông tin xúc phạm...
c. Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị
xâm phạm phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa
không quá 10 tháng lương, tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà
nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
2.Tuy nhiên theo nhóm chúng tôi mức bồi thường thiệt hại mà hội đồng xét
xử đưa ra chưa thoả đáng:
- Các khoản tiền bồi thường về mặt tinh thần cũng như các chi phí khác
thì chúng tôi hoàn toàn đồng ý,nhưng riên đối với tiền thuê nhà chưa hợp
lí.Bởi theo lời khai của bà Oanh thì từ Tuyên Quang xuống Hà Nội khởi
kiện từ 3/2004 đến 12/2006 là 33 tháng.Nhưng toà xét bồi thường số tiền
thuê nhà trong khoảng thời gian chỉ là 7 tháng là chưa hợp lí và chưa tương
xứng với chi phí mà bà Oanh bỏ ra.Mặc dù hội đồng xét xử đã căn cứ ào
tiểu mục 1.3 mục 3 phần II nghị quyết số 01 nhưng cũng nên tăng mức bồi
thường cho phù hợp với mức chi phí của bà Oanh đã sử dụng,bởi vì bà đưa
ra hợp đồng là 33 tháng vậy theo chúng tôi mức bồi thương thiệt hại nên
là:
-Bồi thường thiệt hại về tinh thần : 3.150.000 đồng.
-Tiền thuê luật sư :2.400.000 đồng.



-Thuê xe đi lại :1.000.000 đồng.
-Tiền thuê đánh máy đơn,photo tài liệu,phí tem,thư:1.000.000 đồng.
-Tiền thuê nhà trọ 33 tháng x 500.000 đồng = 16.500.000 đồng.
Vậy tổng số tiền bồi thường là :24.050.000 đồng.
III.

ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT CỦA NHÓM.

1. Một sô điểm thiêu sót cua phap luật trong viêc quy định vê quyên bí mật
đơi tư,
Trong thời gian qua, pháp luật về quyền bí mật đời tư đã từng bước hoàn thiện
đáp ứng dần yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội ở nước ta. Dù dần hoàn thiện
từng bước nhưng quy định về quyền bí mật đời tư của cá nhân của pháp luật hiện
hành còn hạn chế và bộc lộ nhiều điểm thiếu sót. Cụ thể như sau:
+, Như đã nói ở trên, BLDS 2005 chưa đư ra được khái niệm “bí mật đời tư”. Từ
đó sẽ dẫn đến 2 hiện tượng xảy ra trên thực tế. Một là, mọi người cứ lấy lí do
quyền bí mật đời tư đã được pháp luật ghi nhận để khước từ, không cho phép bất
cứ ai được tiết lộ bất cứ thông tin gì về mình. Thứ 2 là giúp cho giới báo chí lợi
dụng điều này để xâm phạm sâu vào đời sống riêng tư của cá nhân trong xã hội,
đặc biệt là các nghệ sỹ. không những vậy, quy định không cụ thể, rõ ràng như vậy
cũng là một trong những khó khăn khăn khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
áp dụng pháp luật vào việc giải quyết đơn kiện.
+, Những quy định đảm bảo cho quyền bí mật đời tư trong pháp luật hiện hành
vẫn vẫn còn chung chung dựa trên điều 25 BLDS 2005 quy định các biện pháp
bảo vệ quyền nhân thân.
“ Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền” – như
vậy pháp luật dân sự không đề cập đến vấn đề mỗi cá nhân tự bảo vệ quyền nhân
thân (trong đó có quyền bí mật đời tư) của chình mình, nghĩa là tự bảo vệ khi chưa
có hành vi xâm hại xảy ra. Thiết nghĩ mỗi cá nhân cần chủ động trong việc bảo vệ

quyền nhân thân của chính mình trước khi cần đến sự can thiệp của pháp luật khi
bị xâm hại.
+, Pháp luật hiện hành cũng chưa chưa quy định được phạm vi, mức độ của quyền
đời tư cá nhân, khiến khó xác định được việc xâm phạm đời tư cá nhân và việc
giải quyết cho hợp lí với từng mức độ, cao thấp…


+, Các loại hình thức chứa đựng đời tư cá nhân còn hạn chế (đã được quy định tại
khoản 3 điều 38), khiến gây ra hiểu lầm chỉ có “thư tín, điện thoại, điện tín, các
thông tin điện tử khác” của cá nhân mới là bí mật đời tư; còn những thứ khác như
nhật kí, các tài liệu liên quan đến công việc của mỗi cá nhân hay các thông tin
công khai trong các phiên tòa dân sự mà cá nhân không muốn bị công khai ngoài
cuộc sống… không được coi quyền bí mật đời tư.
2. Hoan thiên khuôn khổ phap luật vê quyên bí mật đơi tư ca nhân.
- Cần chi tiết hóa, cụ thể hóa quyền bí mật đời tư cá nhân trong các bộ Luật, đặc biệt
là trong bộ Luật Dân sự.Chẳng hạn như đưa ra quy định rõ rang,và đưa ra một số khái
niệm cu thể thống nhất như : thế nào là bí mật đời tư, bí mật đời tư cá nhân, bảo vệ
bí mật đời tư của cá nhân. Đồng thời quy định rõ giới hạn, phạm vi, mức độ của đời
tư cá nhân và xâm phạm quyền bí mật đời tư. Từ đó nhằm tránh những cách hiểu sai
lầm, suy diễn khi thực hiện quyền này trong thực tế cuộc sống. việc này cần phải thực
hiện nhanh chóng, kịp thời trong thời gian tới.
- Các nhà làm luật cần phải trù liệu tất cả những khả năng, cách thức có thể xâm
phạm tới quyền bí mật đời tư cá nhân để đưa ra những quy định kịp thời, ngăn chặn
các hành vi trái pháp luật làm ảnh hưởng tới cuộc sống, tinh thần và danh dự , nhân
phẩm của công dân vì càng ngày hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư càng tinh vi
và đa dạng.
- Cần xây dựng các quy định, các điều luật, quyết định để hướng dẫn cụ thể cách
giải quyết vụ việc xâm phạm đến quyền bí mật đời tư cá nhân giúp cho cơ quan có
thẩm quyền dễ dàng giải quyết các vụ việc này. Đồng thời phải quy định luôn trình tự
, thủ tục thực hiện việc bảo vệ quyền bí mật đời tư cá nhân, trong đó cần chú ý hành

vi tự bảo vệ của mỗi cá nhân và thủ tục cải chính , xin lỗi.
- Cần mở rộng thêm phạm vi của bí mật đời tư cá nhân như ngoài thư tín, điện thoại,
điện tín, các thông tin điện tử khác thì còn có nhật ký, các thông tin liên quan đến
cuộc sống được công khi trong các phiên tòa dân sự, hôn nhân và gia đình hay các
văn bản cá nhân khác…để tránh gây ra sự hiểu lầm rằng 1 số thông tin được công
khai trong các phiên tòa không phải bí mật đời tư.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
0. Các văn bản Luật : Bộ Luật Dân sự năm 2005, Hiến pháp năm 1992, Luật báo
chí năm 1989 sửa đổi bổ sung năm 1999.
1.

Công trình nghiên cứu khoa học: Luận án tiến sỹ luật học “ Quyền bí mật đời
tư theo quy định của pháp luật Dân sự Việt nam”, Lê Đình Nghị, năm 2008.

2.

Giáo trình luật Dân sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà nội, năm 2008.


MỤC LỤC
I. LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
II.

NỘI DUNG CHÍNH............................................................................................1

1. Cơ sở lí luận............................................................................................................1
1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân. Ví trí của quyền bí mật đời tư
trong hệ thống quyền nhân thân....................................................................................1

1.2. Biểu hiện cụ thể của những hành vi xâm phạm bí mật đời tư (điều 38
BLDS 2005)..................................................................................................................2
2. Hai vụ việc liên quan đến hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá
nhân...............................................................................................................................2
1.Tình huống thứ nhất:..................................................................................................2
1.1.Tóm tắt vụ việc........................................................................................................3
1.2.Quyết định của toà án nhân dân quận Liên Chiểu-Đà Năng...................................4
1.3.Phân tích cách giải quyết vụ việc của toà án quận Liên Chiểu,Đà Năng
giải quyết vụ việc nói trên.............................................................................................5
2.Tình huống thứ 2:.......................................................................................................6
2.1.Tóm tắt vụ việc........................................................................................................7
2.2.Quyết định của toà án Quận Hoàn Kiếm,Hà Nội về vụ việc trên...........................8
2.3 Nhận xét của nhóm về các giải quyết của toà án quận Hoàn Kiếm đối với
vụ việc trên:...................................................................................................................9
III.

ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT CỦA NHÓM............................................................14

1. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ bí
mật đời tư.
………………………………………………………………………………
…..14
2.Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về quyền bí mật đời tư cá nhân............................15




×