Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tóa theo lãnh thổ và quyền lựa chọn tòa án của đương sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.42 KB, 13 trang )

I.

Lời nói đầu
Sơ thẩm là giai đoạn quan trọng thủ tục tố tụng. thực tế số lượng vụ việc dân
sự được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vô cùng lớn. để giải quyết vụ việc dân sự
theo thủ tục sơ thẩm một cách hợp lí và hợp pháp thì việc xác định thẩm quyền là
không thể thiếu. bên cạnh việc phân chia thẩm quyền giải quyết theo loại việc hay
theo các cấp Tòa án tì việc phân chia thẩm quyền theo lãnh thổ và quyền lựa chọn
của đương sự cũng rất quan trọng. về vấn đề này, BLTTDS quy định khá chi tiết.
Với việc đưa ra đề tài “Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tóa theo lãnh thổ và
quyền lựa chọn Tòa án của đương sự”, nhóm chúng em xin trình bày những hiểu
biết của mình về lý luận và thực tiễn của vấn đề này.

II.

Nội dung
1. Khái quát chung
1.1.Khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án
Mỗi cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất
định. Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lí của mỗi cơ quan nhà nước do pháp
luật quy định được hiểu là thẩm quyền của các cơ quan đó. trong khoa học pháp lí,
thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hoạt động, quyết định
của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định.
Việc xác định khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án có ý nghĩa thiết thực trong
việc xây dựng và thực hiện các quy dịnh về thẩm quyền của Tòa án.
Với mỗi nước thì quan điểm luật học về khái niệm thẩm quyền dân sự của
Tòa án cũng có sự khác nhau. Ở Việt Nam, khái niệm này được tiếp cận dưới ba
góc độ: thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của các cấp Tòa án và thẩm quyền
theo lãnh thổ của Tòa án. Từ đó ta có định nghĩa cho thẩm quyền dân sự của Tòa
án như sau: “Thẩm quyền dân sự của Tòa án là quyền xém xét giải quyết các vụ
việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét, giải quyết các vụ việc đó theo thủ


tục tố tụng dân sự của Tòa án”
Ở Việt nam, xuất phát từ những đặc thù về tổ chức hệ thống Tòa án cho nên
quan niệm về thẩm quyền của Tòa án trong TTDS cũng có những điểm khác biệt.


khái niệm về thẩm quyền của Tòa án được tiếp cận dưới ba góc độ là thẩm quyền
theo loại việc, thẩm quyền của Tòa án các cấp và thẩm quyền của Tòa án theo lãnh
thổ. Trong phạm vi bài viết này, chúng em chỉ xin đề cập đến thẩm quyền của Tòa
án theo lãnh thổ. Hiểu đơn giản: “việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh
thổ là sự phân định thẩm quyền sơ thẩm vụ việc dân sự giữa các Tòa án cũng cấp
với nhau”
1.2.Ý nghĩa việc xác định thẩm quyền dân sự của Tòa án
Việc xác định thẩm quyền giữa các Tòa án một cách hợp lí, khoa học tránh
được sự chống chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa Tòa án với các cơ quan
nhà nước, giữa các Tòa án với nhau, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho Tòa án
giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự, nâng cao được hiệu quả
của việc giải quyết vụ việc dân sự. bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền giữa các
Tòa án một cách hợp lí, khoa học còn tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố
tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước Tòa án, giảm bớt những phiền phức cho
đương sự.
Ngoài ra, việc xác định thảm quyền của các Tòa án một cách hợp lí và khoa
học còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những điều kiện về nghiệp vụ,
chuyên môn cần thiết của đội ngũ cán bộ ở Tòa án và các điều kiện khác, trên cơ
sở đó có kế hoạch đáp ứng đảm bảo cho Tòa án thực hiện được chức năng, nhiệm
vụ.
2. Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ
2.1.Cơ sở của việc phân định thẩm quyền Tòa án theo lãnh thổ
Việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là sự phân định thẩm
quyền sơ thẩm vụ việc dân sự giữa các Tòa án cùng cấp với nhau. Việc phân định
thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ dựa trên những cơ sở sau đây:

- Trước hết, việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ phải được
tiến hành trên cơ sở đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được
nhanh chóng, đúng đắn. lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng việc phân định


không đúng thẩm quyền của Tòa án có thể gây kéo dài thời gian giải quyết
các yêu cầu của đương sự, không bảo vệ kịp thời quyền, lị ích hợp pháp của
họ hoặc không đảm bảo được sự công bằng trong việc bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của các bên trên thực tế. do vậy, quy định của pháp luật về
phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ phải nhằm giải quyết nhanh
chóng, đúng pháp luật, bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của các
đương sự.
- Thứ hai, việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ phải được tiến
hành trên cơ sở bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng, tránh sự chống
chéo trong việc thực hiện thẩm quyền giữa các Tòa án cùng cấp. Quyền yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đã dược BLTTDS ghi nhận là
một nguyên tắc: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có
quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có
thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hoặc của người khác.” (Điều 6 BLTTDS 2004, đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011)
- Thứ ba, việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ còn phải bảo
đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Trong tố tụng dân sự, quyền tự định
đoạt biểu hiện ở khả năng khi tham gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt
các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình trước các xâm hại. đó cũng là quan niệm chung nhất được pháp luật
TTDS của nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận, áp dụng và trở thành một
nguyên tắc tố tụng cơ bản. Điều 5 BLTTDS 2004 cũng quy định về quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự, theo đó “đương sự có quyền quyết

định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân
sự…” trong một số trường hợp, pháp luật quy định cho nguyên đơn, người


yêu cầu có quyền lựa chọn một trong các Tòa án có điều kiện giải quyết vụ
việc mà không phụ thuộc vào ý chí của bị đơn, người bị yêu cầu giải quyết
vụ việc dân sự.
2.2.Thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo lãnh thổ
Căn cứ Điều 35 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định cụ thể về
thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ như sau:
“1. thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định
như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ
sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi
cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của
nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các
Điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất
động sản.
2. thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như
sau:
a) Tòa án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự;
b) Tòa án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mắt tại nơi cư trú, bị yêu

cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lí tài sản
của người đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết;


c) Tòa án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có thẩm
quyền giải quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích hoặc đã chết;
d) Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu
người phải thi hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu
người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc
thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài;
đ) Tòa án nơi gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi
người gửi đơn có trụ sở, nếu người đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải
quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi
hành tại Việt Nam;
e) Tòa án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm
việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải hti hành có trụ sở, nếu
người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi
hành quyết định của Trong tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài;
g) Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật;
h) Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận quyết định thuận tình
ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
i) Tòa án nơi một trong các bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau

khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận sự thỏa
thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;


k) Tòa án nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc
quyền thăm non con sau khi ly hôn;
l) Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi:
m) Tòa án nơi Phòng công chứng, Văn phòng công chứng đã thực hiện việc công
chứng có trụ sở có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu;
n) Tòa án nơi cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành án có trụ sở hoặc nơi có
tài sản liên quan đến việc thi hành án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án theo
quy định của pháp luật;
o) Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc
Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo
quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.”
2.3.Ví dụ thực tiễn
2.3.1. Tình huống 1
Năm 2010, chị nguyễn Thị Yến có hô khẩu thường trú tại huyện Kim Thành,
tỉnh Hải Dương mua một mảnh đất tại huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương giá 600
triệu đồng của ông Nguyên Đăng Mạnh cũng cư trú tại Kim Thành, Hải Dương.
Hai bên thỏa thuận nếu xảy ra tranh chấp sẽ giải quyết tại Tòa án huyện Kim
Thành. Theo thỏa thuận, chị Yến sẽ chuyển 450 triệu đồng cho ông Mạnh sau khi
ông Mạnh hoàn thành xong các loại giấy tờ chuyển quyền sử dụng đất sẽ thành
toán nốt 150 triệu đồng còn lại. nhưng sau khi chuyển quyền sử dụng đất cho chị
Yến chị Yến không thanh toán số tiền 150 triệu đồng cho ông Mạnh. Hai bên xảy
ra tranh chấp, sau nhiều lần thỏa thuận không thành, ngày 4/1/2011 ông Mạnh đã

khởi kiện lên Tòa án nhân dân huyện Kim Thành và Tòa án nhân dân huyện Kim
Thành đã từ chối thụ lí vụ việc này.


Theo khoản 3 Điều 25 và điểm a khoản 1 Điều 33 BLTTDS 2004, tranh chấp
này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện. về nguyên tắc theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 35 BLTTDS, các đương sự có quyền thỏa thuận với
nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu
nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn nếu nguyên đơn là tổ
chức, cơ quan giải quyết những tranh chấp về dân sự. Song không phải bất cứ
trường hợp các bên cũng được chấp nhận về việc lựa chọn Tòa án để giải quyết
tranh chấp.
Trong trường hợp trên, đối tượng tranh chấp là bất động sản. Theo quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 35 BLTTDS 2004 thì đối với những tranh chấp về bất
động sản thì Tòa án nơi có bất động sản đang tranh chấp mới là nơi có thẩm quyền
giải quyết. như vậy mặc dù khi mua bán ông Mạnh và chị Yến có thỏa thuận với
nhau là sẽ giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân huyện Kim Thành nơi cả hai
đang cư trú nhưng tranh chấp này phải thuộc thẩm quyenf giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện Kinh Môn. Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Kim Thành trả lại hồ
sơ và không thụ lí tranh chấp là đúng với quy định của pháp luật.
2.3.2. Tình huống 2
Anh Hò Minh Thắng và chị Lê Thị Thơm kết hôn năm 2001 tại Xã Kim Sơn,
huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định nơi anh Thắng cư trú, sau đó hai vợ chồng anh
sống với nhau và đăng kí thường trú tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Sau
khi làm ăn thua lỗ, vợ chồng anh buộc phải bán nhà để trả nợ. Chị Thơm và con về
nhà bố đẻ của chị Thơm tại huyện Phù Cát, Bình Định sống từ năm 2008 đến nay
và đăng kí tạm trú tại đây. Năm 2009, anh Thắng và chị Thơm li hôn, sau khi li hôn
anh Thắng chuyển ra nước ngoài sinh sống. Vì cho rằng anh Thắng không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, ngày 8/5/2011 chị Thơm gửi đơn lên Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Đình yêu cầu anh Thắng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp

dưỡng.


Theo khoản 3 Điều 34 BLTTDS 2004, tranh chấp này thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân tỉnh. Chị Thơm yêu cầu anh Thắng thực hiện quyền cấp dưỡng
khi anh này đang sống tại nước ngoài. Theo điểm c khoản 1 Điều 36 BLTTDS
2004, nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về
tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú,
làm việc giải quyết. như vậy, chị Thơm đang cư trú tại tỉnh Bình Định có quyền
yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Đình giải quyết vụ việc này. Và Tòa án nhân
dân tỉnh BÌnh Định cũng là nơi có thẩm quyền giải quyết vụ việc này.
3. Quyền lựa chọn Tòa án của đương sự
Trong thực tế, việc xác định thẩm quyền của tòa án theo vụ việc hoặc theo
lãnh thổ rất dễ làm phát sinh trường hợp một vụ việc cùng có nhiều Tòa án có thẩm
quyền giải quyết. đo đó để khắc phục trường hợp này BLTTDS còn quy định thêm
về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn và người yêu cầu,
được ghi nhận tại các Điều 36 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 và được
hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết 01/2005/NQ – HDTP. Quy định này nhằm đảm
bảo và tạo điều kiện cho đương sự tham gia tố tụng dân sự đầy đủ và thuận lợi.
3.1.Cơ sở pháp lí
3.1.1. Đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động
Mặc dù BLTTDS đã quy định rõ về thẩm quyền của Tòa án nhưng các nhà
làm luật vẫn tôn trọng sự tự thỏa thuận của các đương sự.
Thứ nhất, trường hợp các đương sự đã có sự thỏa thuận với nhau: “các đương
sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm
việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên
đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại. lao động quy định tại các Điều 25,
27, 29 và 31 của Bộ luật này” (điểm b khoản 1 Điều 35 BLTTDS).

Thứ hai, quyền lựa chọn Tòa án của nguyên đơn


Căn cứ vào Điều 36 BLTTDS đã được sửa đối, bổ sung năm 2011 và nghị
quyết 01/2005 thì:
- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có
quyền lựa chọn Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc
nơi bị đơn có tài sản giải quyết. nếu nguyên đơn chứng minh được bị đơn cố
tình giấu địa chỉ hoặc thay đổi địa chỉ liên tục, không ở một nơi nhất định thì
có thể vận dụng quy định này để lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn
3.1.2. Đối với các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình
- Đối với các yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự; yêu
cầu thông báo tìm kiếm người vằng mặt tại nơi cư trú và quản lí tài sản của người
đó; yêu cầu tuyên bố mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích; yêu
cầu tuyên bố một người đã chết, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết
(Điều 26 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011), người yêu cầu có thể yêu cầu tòa
án nơi mình cư trú ,làm việc, có trụ sở giải quyết.
- Đối với yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 8
BLTTDS thì người yêu cầu có thể yêu cầu tòa án nơi một trong các bên đăng kí kết
hôn trái pháp luật giải quyết.
- Đối với yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
hoặc quyền thăm non con sau khi ly hôn thì người yeu cầu có thể yêu cầu tòa án
nơi người con cư trú giải quyết.
3.2.Nhận xét
Thứ nhất, BLTTDS đã dự liệu tương đối đầy đủ các trường hợp cho phép
nguyên đơn có thể lựa chọn tòa án giải quyết. Tuy nhiên, nếu là trường hợp bắt
buộc phải tuân theo Điều 35 BLTTDS thì không chấp nhận yêu cầu lựa chọn tòa án

của nguyên đơn.
Ngoài ra trong trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu được quyền lựa chọn
nhiều tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, thì khi nhận đơn khởi kiện,


Tòa án phải giải thích cho họ biết là chỉ có một trong các tòa án được điều luật quy
định mới có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự để họ lựa chọn. Tòa án do họ lựa
chọn yêu cầu người khởi kiện, người yêu cầu phải cam kết trong đơn kiện không
khởi kiện hoặc trong đơn yêu cầu không yêu cầu tại các tòa án khác (Nghị quyết só
01/2005/NQ – HDTP). Còn nếu như nguyên đơn đã nộp đơn kiện ở nhiều tòa án
khác nhau hoặc người yêu cầu đã nộp đơn yêu cầu ở nhiều tòa án khác nhau thì tòa
án đã thụ lí đầu tiên có thẩm quyền giải quyết. các tòa án khác, nếu chưa thụ lí thì
căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 168 BLTTDS trả lại đơn kiện, đơn yêu cầu; nếu đã
thụ lí thì căn cứ vào diểm e khoản 1 Điều 168 và khoản 2 Điều 192 BLTTDS ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, xóa tên vụ việc dân sự đó trong sổ
thu lí và trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho
đương sự. nếu đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, Tòa án căn cứ vào khoản 3
Điều 193 BLTTDS trả lại tiền tạm ứng án phí đó.
Thứ hai, BLTTDS hạn chế quyền lựa chọn tòa án giải quyết của đương sự
trong phạm vi các tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc có trụ sở của nguyên đơn hoặc
bị đơn mà chưa quy định mở rộng quyền này đối với các tòa án khác như tòa án
nơi các bên thực hiện hợp đồng, nơi một bên có tài sản…Ngoài ra, trong thực tiễn
vẫn nảy sinh trường hợp khi kí kết hợp đồng các bên đã thỏa thuận lựa chọn tào án
để giải quyết nếu có tranh chấp nhưng khi tranh chấp xảy ra, bên khởi kiện lại nộp
đơn yêu cầu tòa án của địa phương khác giải quyết. Ví dụ: Doanh nghiệp A có tru
sở tại TP HỒ Chí Minh ký hợp đồng mua bán hàng hóa với B có trụ sở tại tỉnh
Daklak, các bên thỏa thuận nếu có tranh chấp thì các bên khởi kiện tại tòa kinh tế
Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh. Sau đó khi có tranh chấp doanh nghiệp A lại
yêu cầu Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh Daklak giải quyết. Như vậy giá trị
pháp lí của thỏa thuận giữa các bên vè việc lựa chọn tòa án sẽ được xem xét như

thế nào? LTTDS vẫn chưa quy định hướng giải quyết cho trường hợp này.


Thứ ba, việc quy định các đương sự có quyền lựa chọn tòa án như trên có ý
nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong quá
trình tố tụng. Điều này thể hiện sự tôn trọng, tạo nên sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ của các đương sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt
hại.
4. Nhận xét chung
4.1.Nhận xét về thực trạng việc xác định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án hiện
nay
Thứ nhất, vướng mắc về việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo nơi có bất
động sản tranh chấp. vấn đề gặp phải ở đây là Luật tố tụng dân sự mới chỉ xác định
rằng tòa án nơi có bất động sản tranh chấp là nơi thụ lí giải quyết vụ án nhưng
chưa xác định rõ thế nào là “tranh chấp về bất động sản” dẫn tới có nhiều quan
điểm khác nhau. có ý kiến cho rằng đó là tất cả các tranh chấp có liên quan đến bất
động sản nhưng có ý kiến hco rằng chỉ có tranh chấp mà đối tượng là bất động sản
và là tranh chấp chính mới được gọi là tranh chấp bất động sản. Như vậy tòa án sẽ
gặp rất nhiều khó khăn để xác định thẩm quyền của mình.
Thứ hai là vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền đối với các tranh chấp
về tài sản trong đó bao gồm cả động sản và bất động sản. trên thực tế, các tòa án đã
rất lúng túng khi giải quyết những vụ việc như đương sự kiện yêu cầu chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kì hôn nhân, chia di sản thừa kế nhưng tài sản đó lại bao
gồm động sản và bất động sản. có ý kiến cho rằng thừa kế nhà đất hoặc quyền sử
dụng đất không phải là tranh chấp về bất động sản vì với tranh chấp này phải xác
định ai được thừa kế rồi mới chia và có khi đương sự chỉ đòi chia giá trị tài sản mà
không yêu cầu chia hiện vật. có ý kiến cho rằng thừa kế cả động sản và bất động
sản không thê áp dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ nơi có bất
động sản.
Thứ ba, các quy định về việc lựa chọn tòa án của đương sự chưa thật sự hợp

lí. Hiện nay, pháp luật chỉ hạn chế đương sự trong việc thỏa thuận về tòa án có


thẩm quyền giải quyết trong phạm vi cư trú, làm việc hoặc có trụ sở của nguyên
đơn mà chưa mở rọng quyền này đối với các tòa án khác như tòa án nơi các bên
thực hiện hợp đồng, nơi một bên có chi nhành hoặc nơi có tài sản…Ngoài ra luật
cũng chưa quy định rõ về giá trị phap slis của thỏa thuận giữa các bên đương sự
dẫn tới nhiều bất cập trong thực tiễn.
Thứ tư là vướng mắc về vấn đề thực hiện quyền của đương sự. Hiện nay, Bộ
luật tố tụng dân sự vẫn chỉ dừng lại ở quy định rằng: Tòa án nơi có bất động sản có
thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp về bất động sản mà không xác định rằng
chỉ có tòa án này mới có thẩm quyền giải quyết dẫn tới lúng túng với các đương sự
khi lựa chọn tòa nào để nộp đơn và các tòa án khi thụ lí.
4.2.Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật trong việc xác
định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ.
Thứ nhất, tại điểm c khoản 1 Điều 35 BLTTDS cẫn quy định rõ ràng, cụ thể
hơn thẩm quyền giải quyết duy nhất thuộc về tòa án nơi có bất động sản tranh
chấp.
Thứ hai, trong văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS cần có hướng dẫn cụ thể
về quy tắc xác định thẩm quyền trong trường hợp vụ việc có nhiều quan hệ tranh
chấp như trường hợp bao gồm cả động sản và bất động sản.
Thứ ba, xét thấy hiện nay cần bổ sung những quy định về việc xác định thẩm
quyền của tòa án nơi mở thừa kế đối với các tranh chấp về thừa kế có bất động sản
vào BLTTDS để xác định thẩm quyền một cách rõ ràng đối với các tranh chấp loại
này.
Thứ tư, vè quyền của đương sự lựa chọn tòa án có thẩm quyền, cần mở rộng
quy định thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp. Theo đó, các bên tranh
chấp có thể thỏa thuận lựa chọn tòa án nơi thực hiện hợp đồng, nơi một bên có chi
nhánh hoặc nơi có bất động sản hoặc nơi có tranh chấp để giải quyết vụ án.
Thứ năm, theo pháp luật hiện hành thì đối với các vụ án có nhiều bất động

sản tranh chấp thì các nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án nơi có một trong các bất
động sản giải quyết (điểm I khoản 1 Điều 3 BLTTDS). Tuy nhiên quy định này


chưa thực sự cụ thể và chỉ theo hướng có lợi cho nguyên đơn bất lợi cho bị đơn. Vì
vậy, pháp luật có thê quy định một cách linh động hơn như nơi có bất động sản lớn
nhất, nơi các bên thỏa thuận, hoặc nơi mở thừa kế để thuận tiện cho các bên tham
gia tố tụng.

III.

Kết luận
Với đề tài đã nêu, nhóm đã đưa ra những hiểu biết và tìm hiểu của mình về

xác định thẩm quyền dân sự của tòa án theo lãnh thổ và quyền lựa chọn tào án của
đương sự. có thể thấy xác định thẩm quyền dân sự của tòa án the lãnh thổ có ý
nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết một vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm,
là cơ sở để đảm bảo tính hợp pháp và hợp lí. Đảm bảo quyền lựa chọn tòa án của
đương sự trong tố tụng dan sự là đảm bảo tính dân chủ và nguyên tắc quyền yêu
cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và nguyên tắc tự định đoạt của đương
sự. từ đó có thể đạt được hiệu quả trong việc giải quyết sơ thẩm vụ việc dân sự.



×