Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.4 KB, 11 trang )

BÀI LÀM
I. Đặt vấn đề
Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) là một trong những phương tiện
chủ yếu có tác động trực tiếp và sâu sắc đến hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước.
Do đó nâng cao chất lượng của VBQPPL được xác định là một trong những biện
pháp quan trọng để tăng cường năng lực hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Để đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao, hoạt động xây dựng VBQPPL phải tuân
thủ một số nguyên tắc nhất định, một trong những nguyên tắc đó là đảm bảo tính
hợp Hiến, hợp pháp.
II. Giải quyết vấn đề
1. Khái niệm và đặc điểm của VBQPPL
1.1 Khái niệm VBQPPL
Nhà nước đã sử dụng nhiều hình thức khác nhau để thể hiện ý chí của
mình thành pháp luật như tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp
luật. Trong đó VBQPPL được coi là hình thức tiến bộ nhất, là hình thức cơ bản
nhất của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
“ Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành
hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức trình tự, thủ tục luật định,
trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung được nhà nước
đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” (Điều 1 – Luật Ban hành
VBQPPL năm 2008).
1.2 Đặc điểm của VBQPPL.
Theo định nghĩa trên, VBQPPL có những đặc điểm sau đây:
- VBQPPL do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Theo đó không phải
tất cả các cơ quan nhà nước đều có thể ban hành VBQPPL, mà chỉ có cơ quan,
tổ chức, cá nhân nào có thẩm quyền ban hành pháp luật mới có thể ban hành ra
các VBQPPL, bao gồm: Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH),
Chính phủ, Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, ủy ban nhân dân (UBND) các
cấp, có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa cơ quan nhà

1




nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội để
ban hành VBQPPL liên tịch.
- VBQPPL là văn bản có chứa đựng quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật).
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của VBQPPL.Với nội dung là các quy tắc
xử sự do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí nhà nước, cho nên VBQPPL luôn
mang tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện
pháp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tổ chức, hành chính, kinh tế.
- VBQPPL được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống và được thực hiện
trong mọi trường hợp khi có các sự kiện pháp lý tương ứng với nó xảy ra cho
đến khi nó hết hiệu lực. Bởi vì VBQPPL có chứa đựng các quy tắc xử sự chung
nên nó được ban hành không phải để điều chỉnh một quan hệ pháp luật cụ thể,
một trường hợp cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là mọi
trường hợp khi có các điều kiện, hoàn cảnh do nó dự kiến xảy ra.
- VBQPPL được ban hành theo thủ tục, trình tự và hình thức luật định. Luật
Ban hành VBQPPL đã quy định trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL của các cơ
quan nhà nước ở trung ương khá hợp lí, phải trải qua các bước nhất định. Nếu
một văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, có nội dung hoàn toàn hợp pháp
nhưng chỉ cần vi phạm về thủ tục ban hành thì văn bản đó không được coi là
VBQPPL vì trước sau sẽ bị cơ quan có thẩm quyền xử lí. Ngoài ra, một văn bản
được coi là VBQPPL còn phải được ban hành đúng hình thức do pháp luật quy
định (được quy định tại Điều 1, Luật Ban hành VBQPPL năm 2008).
Như vậy, chỉ những văn bản nào đáp ứng được đầy đủ các đặc điểm trên
đây mới trở thành VBQPPL.
2. Khái quát về tính hợp Hiến, hợp pháp của VBQPPL
2.1.


Tính hợp Hiến của văn bản quy phạm pháp luật.

Điều 46 Hiến pháp 1992 quy định: “Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của nhà nước và có hiệu lực pháp lý cao nhất,
mọi văn bản phải phù hợp với Hiến pháp”.
2


Có thể hiểu, hợp Hiến là “đúng với quy định của Hiến pháp”. Theo đó,
tính hợp Hiến của VBQPPL, được hiểu là: mọi VBQPPL do các cơ quan nhà
nước , cá nhân có thẩm quyền ban hành phải phù hợp với Hiến pháp. Và để đảm
bảo nguyên tắc Hiến pháp là luật cơ bản, có tính pháp lý cao nhất thì các văn
bản pháp luật nói chung và VBQPPL nói riêng được tất cả các cơ quan, cá nhân
có thẩm quyền ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, hay nói cách khác là phải
đảm bảo tính hợp Hiến. Tính hợp Hiến được biểu hiện thông qua hai điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, các VBQPPL không được trái với quy định cụ thể của Hiến
pháp; để đảm bảo VBQPPL không trái với quy định của Hiến pháp thì cơ quan
soạn thảo văn bản phải nắm rõ, hiểu đúng các quy định cụ thể của Hiến pháp
liên quan tới lĩnh vực điều chỉnh của văn bản đang soạn thảo. Các quy định của
Hiến pháp có thể được chia làm hai loại: những quy định có giá trị thi hành trực
tiếp và những quy định có giá trị thi hành gián tiếp thông qua các đạo luật cụ
thể. Ví dụ: nguyên tắc “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” được quy
định tại Điều 52 Hiến pháp 1992 có giá trị thi hành trực tiếp và bất cứ văn bản
nào dưới Hiến pháp đều phải đảm bảo rằng không có sự phân biệt đối xử đối với
công dân trước pháp luật, vì vậy, khi soạn thảo VBQPPL cần phải cân nhắc là
những quy định trong dự thảo có hạn chế quyền bình đẳng của công dân trước
pháp luật hay không để trả lời câu hỏi là các quy định có hợp Hiến không?
Trong khi quy định về quyền tự do kinh doanh (Điều 57 Hiến pháp 1992) được
coi là quy định có giá trị gián tiếp bởi lẽ quyền tự do kinh doanh mà pháp luật

quy định là “tự do kinh doanh trước pháp luật”, có nghĩa là Hiến pháp giao cho
Quốc hội và cơ quan và các cơ quan có thẩm quyền khác ban hành các đạo luật
và các VBQPPL dưới luật quy định về quyền tự do kinh doanh quy định quyền
tự do kinh doanh ở mức độ nào, thông qua các hình thức nào và phải tuân thủ
các thủ tục nào. Sau đây là một ví dụ về VBQPPL có nội dung trái với hiến
pháp : Thông tư số 02 ngày 13/01/2003 của Bộ Công an hướng dẫn cấp đăng
ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới có quy định: “mỗi người chỉ được
đăng ký một mô tô hoặc một xe gắn máy”. Thông tư này không những trái với
3


Bộ luật dân sự (vì theo Bộ luật này thì tài sản hợp pháp thuộc sở hữu tư nhân
không bị hạn chế về số lượng, giá trị) mà còn bất hợp hiến vì Điều 58 cuả Hiến
pháp bảo đảm quyền sở hữu tài sản của công dân.
Khi kiểm tra tính hợp Hiến của dự thảo văn bản pháp luật, cơ quan soạn
thảo và cơ quan thẩm định, thẩm tra cần lưu ý đến các quyền cơ bản của công
dân mà Hiến pháp đã quy định để đảm bảo rằng các quyền đó không bị hạn chế,
Nếu Hiến pháp có quy định các quyền đó được thực hiện theo quy định của pháp
luật thì cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định phải tìm kiếm các VBQPPL khác
như: luật, pháp lệnh, nghị định… để đối chiếu dự thảo của mình có phù hợp với
các quy định của các VBQPPL đã ban hành về lĩnh vực đó hay không. Ví dụ: khi
HĐND, UBND soạn thảo VBQPPL về việc quản lí các cơ quan báo chí của địa
phương mình thì cần phải đối chiếu với Luật báo chí và các văn bản của cơ quan
có thẩm quyền ở trung ương quy định về việc thi hành Luật Báo chí và Hiến
pháp cho phép tự do báo chí nhưng “theo quy định của pháp luật”.
Thứ hai, VBQPPL phải phù hợp với tinh thần của Hiến pháp .
Đây là việc không đơn giản vì không dễ dàng hiểu tinh thần của Hiến
pháp như thế nào. Tuy nhiên, nếu chỉ quy định rằng VBQPPL chỉ cần không trái
với quy định của Hiến pháp (điều khoản cụ thể của Hiến pháp) thì chưa đủ.
Thực tế ban hành và áp dụng pháp luật từ trước tới nay thường có xu hướng đối

chiếu, áp dụng các điều khoản cụ thể của văn bản pháp luật cứ chưa chú trọng
đến các nguyên tắc chung được quy định ở Lời nói đầu hoặc ở phần những quy
định chung của VBQPPL, do đó việc hiểu và áp dụng pháp luật nhiều khi mang
tính máy móc, câu chữ và không có tính thống nhất. Lời nói đầu và phần những
quy định chung thông thường xác định mục đích và những nguyên tắc cơ bản
của VBQPPL mà các điều khoản cụ thể của văn bản đó sẽ được xây dựng dựa
trên những nguyên tắc cơ bản đó, hay nói cách khác chúng đã xác định phần
“tinh thần” của VBQPPL.
Ví dụ: nếu Hiến pháp quy định “không được phân biệt đối xử”, thì các
văn bản pháp luật, bất kể quy định dưới hình thức gì, nếu có tính chất “bất bình
đẳng” giữa các công dân trước pháp luật thì đã không thể coi là không phù hợp
4


với tinh thần của Hiến pháp. Nếu Hiến pháp thừa nhận “quyền tự do kinh
doanh” của công dân thì các văn bản pháp luật khác không được phép quy định
hạn chế các quyền đó. Hay gần đây nhất khi Quốc Hội xây dựng Luật thủ đô,
khi dự thảo ra đời với nhiều quy định về mức xử lí vi phạm giao thông, ô nhiễm
môi trường…cao hơn nhiều so với các địa phương khác, như vậy sẽ không đảm
bảo được quyền bình đẳng của công dân, trái với quy định của Hiến pháp. Tuy
nhiên, khi nhìn nhận thực tế đặt thì có thể thấy Hà Nội giờ đang đối mặt với đủ
thứ ô nhiễm từ chất thải rắn, ô nhiễm không khí do khói bụi, rồi các sông, hồ
trên địa bàn cũng ô nhiễm nghiêm trọng. Kết quả quan trắc cho thấy lượng bụi
lơ lửng trong không khí tại Hà Nội vượt trên tiêu chuẩn cho phép nhiều lần
(đường Nguyễn Trãi 11 lần, đường Nguyễn Văn Linh 5,2 lần...). Còn vấn đề
giao thông thực sự là một thách thức lớn khi việc ùn tắc không chỉ xảy ra vào
giờ cao điểm mà cả trong giờ thấp điểm, mà tình trạng này đang có xu hướng
lan rộng. Bởi vậy những quy định đó trên tinh thần của Hiến pháp là hoàn toàn
phù hợp, thiết thực với yêu cầu của xã hội. Đó là sự áp dụng linh hoạt trên cơ sở
quy định của Hiến pháp góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý xã

hội của nhà nước.
2.2.

Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật.

Hợp pháp của VBQPPL được hiểu là: VBQPPL cần phải đảm bảo tuân thủ
thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật, hay nói cách
khác VBQPPL cấp dưới ngoài yêu cầu phù hợp với Hiến pháp thì còn phải phù
hợp với VBQPPL cấp trên đã ban hành. Ngoài ra còn phải đối chiếu với các điều
ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia khi ban hành VBQPPL để
đảm bảo rằng các VBQPPL không trái với các cam kết quốc tế đó. Tính hợp
pháp của văn bản quy phạm pháp luật biểu hiện như sau:
Thứ nhất, VBQPPL ban hành đúng thẩm quyền do pháp luật quy định.
Thẩm quyền ban hành VBQPPL là giới hạn quyền lực của chủ thể trong quá
trình xây dựng, ban hành VBQPPL. Thẩm quyền ban hành VBQPPL bao gồm
thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung. Thẩm quyền này được quy định
trong các VBQPPL: Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, Luật Ban hành
5


VBQPPL của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004; các văn bản quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước và các chủ
thể có thẩm quyền.
Khi xem xét tính hợp pháp của VBQPPL, yêu cầu về thẩm quyền ban
hành VBQPPL được xem xét ở cả hai phương diện: đúng thẩm quyền hình thức
và thẩm quyền nội dung.
Ban hành đúng thẩm quyền hình thức: Thẩm quyền hình thức được hiểu là
các chủ thể ban hành VBQPPL đúng tên gọi do pháp luật quy định. Theo quy
định này, mỗi cá nhân, cơ quan trong thẩm quyền của mình chỉ được ban hành
một hoặc một số hình thức VBQPPL do pháp luật quy định. Thẩm quyền về

hình thức của các chủ thể trong hoạt động ban hành VBQPPL được quy định
trong Điều 2, Điều 21 Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 và khoản 2 Điều 1
Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004. Theo như Luật quy
định, các chủ thể phải đảm bảo cho văn bản ban hành đúng về mặt thẩm quyền
hình thức. Một khi các chủ thể vi phạm yêu cầu này cũng có nghĩa là văn bản
không hợp pháp về hình thức theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Chính phủ ban
hành Nghị Định; bộ , cơ quan ngang bộ ban hành thông tư….tuy nhiên có
trường hợp văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành mặc dù đứng trên loại
văn bản được quy định nhưng không phải là VBQPPL. Ví dụ: Chính phủ ban
hành VBQPPL dưới hình thức nghị định để điều chỉnh địa giới hành chính cấp
huyện, xã là nghị định áp dụng pháp luật.
Ban hành VBQPPL đúng pháp luật về nội dung: Thẩm quyền nội dung là
thẩm quyền pháp luật cho phép chủ thể có thẩm quyền ban hành VBQPPL để
giải quyết công việc trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Trên thực
tế thẩm quyền này được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật hiện hành. Đó
là thẩm quyền nội dung bị giới hạn bởi địa vị pháp lý của cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền trong bộ máy nhà nước và bị giới hạn bởi mức độ thực hiện thẩm
quyền nghĩa là các chủ thể có thẩm quyền có trách nhiệm ban hành VBQPPL để
giải quyết công việc phát sinh trong phạm vi thẩm quyền, phạm vi không gian
và thời gian do pháp luật quy định.
6


Thứ hai, văn bản ban hành phải hợp pháp về nội dung. Hệ thống pháp
luật Việt Nam là hệ thống tập trung, thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Để đảm bảo tính thống nhất thì VBQPPL phải được ban hành theo trật tự pháp
lý từ trên xuống dưới, VBQPPL cấp dưới phải phù hợp với VBQPPL cấp trên.
Nói cách khác, văn bản đó phải đảm bảo tính hợp pháp.
Muốn như vậy, việc trước tiên khi ban hành VBQPPL là phải xác định
căn cứ pháp lý để ban hành. Và để xác định chính xác cơ sở pháp lý của

VBQPPL, trước hết cần xác định nội dung công việc đó thuộc phạm vi thẩm
quyền giải quyết của cơ quan nào. Để làm được điều này, chủ thể ban hành văn
bản phải hiểu được các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của các
cơ quan nhà nước nói chung và của cơ quan ban hành VBQPPL nói riêng. Ví dụ:
Trong quyết định của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc phê duyệt chương
trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2008. Nội dung công việc quy định về
xúc tiến thương mại quốc tế, nên thẩm quyền ban hành văn bản là Bộ trưởng Bộ
Công thương, vì thế văn bản xác định làm căn cứ cho quyết định ban hành hợp
pháp là nghị định của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương và văn bản khác có nội dung liên quan
Thứ nữa, để đảm bảo tính hợp pháp về nội dung, VBQPPL phải có nội
dung phù hợp với quy định của pháp luật.
Trước hết, nội dung hợp pháp phải thể hiện ở việc VBQPPL phải phù hợp
với nội dung văn bản do cấp trên ban hành. Trong nhiều trường hợp, yêu cầu
này còn được đặt ra theo nguyên tắc: VBQPPL có hiệu lực pháp lý thấp phải phù
hợp với văn bản pháp lý có hiệu lực cao. Ví dụ: Nghị định số 35/2005/NĐ - CP
của Chính phủ về xử lý kỷ luật với cán bộ, công chức là văn bản có hiệu lực
pháp lý thấp hơn Pháp lệnh Cán bộ, Công chức do vậy nội dung các quy phạm
của Nghị định phải phù hợp với nội dung Pháp lệnh và văn bản có liên quan
khác như: Luật tổ chức Chính phủ… Trong trường hợp ngược lại, nếu nội dung
văn bản quy phạm pháp luật ban hành không phù hợp với văn bản có hiệu lực
pháp lý cao hơn thì văn bản đó bất hợp pháp về nội dung

7


Về phương diện khác tính hợp pháp của VBQPPL còn được đánh giá theo
nguyên tắc: văn bản của địa phương ban hành phải phù hợp và thống nhất với
văn bản do trung ương ban hành. Như vậy, trong công tác ban hành VBQPPL
của chính quyền địa phương, một đòi hỏi phải đặt ra là phải đảm bảo tính hợp

pháp trong sự phù hợp với các văn bản khác do cơ quan trung ương ban hành.
Chẳng hạn, khi đánh giá nội dung hợp pháp của VBQPPL do UBND ban hành
cần xem xét nội dung văn bản đó trong mối liên hệ với các văn bản đã ban hành
của Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ,
cơ quan ngang Bộ… để đảm bảo sự phù hợp và thống nhất về các vấn đề nội
dung và hiệu lực pháp lý của văn bản.
Ngoài những biểu hiện nêu trên về sự phù hợp với các quy định của pháp
luật, tính hợp pháp còn được phản ánh ở các chủ thể ban hành VBQPPL đảm
bảo sự hài hòa thống nhất về nội dung giữa các văn bản có cùng thứ bậc hiệu lực
pháp lý. Đảm bảo được yêu cầu này cũng có nghĩa tránh được những trùng lặp,
chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong nội dung của các VBQPPL cùng thứ bậc hiệu
lực pháp lý. Và như vậy, một lần nữa tính hợp pháp được đảm bảo chặt chẽ.
Một điểm quan trọng nữa để đảm bảo tính hợp pháp về nội dung cho
VBQPPL là phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc
gia nhập. Trong xu hướng hội nhập và phát triển, tính tương thích về nội dung
văn bản giữa hệ thống pháp luật trong nước với các điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia hoặc ký kết được đánh giá là vấn đề quan trọng khi Việt Nam
là thành viên của một số tổ chức lớn trên thế giới và khu vực. Vì vậy, ngoài yêu
cầu phù hợp với quy định của Hiến pháp, các VBQPPL còn phải đảm bảo yếu tố
bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.
Các cơ quan Nhà nước khi ban hành VBQPPL phải tìm hiểu, nghiên cứu các
điều ước quốc tế đó để áp dụng cho đúng.
Thứ ba, VBQPPL phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về
thủ tục xây dựng, ban hành. Theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL năm
2008, Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004, thì quy trình
xây dựng và ban hành VBQPPL, gồm: Lập chương trình xây dựng VBQPPL;
8


soạn thảo, thẩm định; lấy ý kiến đóng góp; thẩm tra; trình, thông qua; công bố

VBQPPL. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban hành VBQPPL phải tuân thủ
đầy đủ các thủ tục xây dựng, ban hành văn bản theo quy định của pháp luật. Nếu
không VBQPPL sẽ bị coi là không hợp pháp. Ví dụ: trường hợp dự thảo văn bản
không gửi đến cơ quan có liên quan để lấy ý kiến về các vấn đề có liên quan, cần
phải giải quyết liên ngành; không gửi tới cơ quan thẩm tra, thẩm định là vi phạm
thủ tục, không đảm bảo tính hợp pháp của văn bản. Trong trường hợp này,
VBQPPL sẽ bị xử lý vì trái pháp luật về thủ tục ban hành, mặc dù văn bản có
hình thức, nội dung đúng pháp luật.
Thứ tư, VBQPPL ban hành tuân theo những quy định của pháp luật
về thể thức, kỹ thuật trình bày. Trong hoạt động ban hành VBQPPL, những quy
định về thể thức, kỹ thuật trình bày đóng vai trò khá quan trọng. Nếu VBQPPL
không tuân theo các quy định của pháp luật về thể thức, kỹ thuật trình bày thì
văn bản cũng sẽ không đảm bảo tính hợp pháp. Những quy định về thể thức, kỹ
thuật trình bày văn bản là tất cả những quy định liên quan đến: tiêu đề, tên cơ
quan ban hành, số, ký hiệu văn bản, tên loại văn bản… Để VBQPPL đảm bảo
tính hợp pháp, chủ thể có thẩm quyền khi ban hành văn bản cần chú ý cách thức
trình bày theo quy định của pháp luật và theo bố cục, kết cấu phù hợp với hình
thức và nội dung văn bản cần ban hành.
3. Đánh giá về tính hợp hiến, hợp pháp của VBQPPL ở nước ta hiện nay.
Thực tế cho thấy, đa số các VBQPPL đã đáp ứng được tính hợp Hiến, hợp
pháp . Về cơ bản VBQPPL được ban hành tuân theo quy trình soạn thảo, xây
dựng như quy định của Luật ban hành VBQPPL năm 2008. Đồng thời trong quá
trình triển khai, áp dụng VBQPPL trong thực tế cũng như trong quá trình kiểm
tra, rà soát, xử lí VBQPPL các chủ thể có thẩm quyền đã có sự phối hợp tương
đối nhẹ nhàng và cũng đã cơ bản thực hiện đúng các trình tự ban hành VBQPPL
đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp. Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành
VBQPPL ở các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương vẫn còn có nhiều
dấu hiệu trái pháp luật, trong đó chủ yếu tập trung ở những vấn đề sau:

9



- Trái thẩm quyền ban hành: văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật
nhưng không được ban hành bằng hình thức VBQPPL; văn bản có chứa đựng
quy phạm pháp luật nhưng do cơ quan nhà nước không có thẩm quyền ban hành.
- Nội dung VBQPPL trái pháp luật: VBQPPL không viện dẫn cơ sở pháp
lí hoặc viện dẫn sai văn bản làm cơ sở pháp lí; nội dung VBQPPL trái với văn
bản cấp trên.
- Bên cạnh những VBQPPL ban hành sai thẩm quyền, sai căn cứ pháp lý,
nội dung trái pháp luật, thực tế ban hành VBQPPL sai về thể thức và cách thức
trình bày diễn ra khá phổ biến.
Có thể đưa ra các giải pháp theo hướng sau: hoàn thiện quy định của pháp
luật về tính hợp Hiến, hợp pháp của VBQPPL; trong quá trình xây dựng và ban
hành VBQPPL cần tuân thủ nghiêm chỉnh quy định của pháp luật; các giải pháp
liên quan tới đội ngũ cán bộ thực hiện công tác ban hành, xây dựng VBQPP;
nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra và xử lý VBQPPL sau khi ban hành
III. Kết thúc vấn đề:
Có thể thấy, những năm trở lại đây, số lượng các VBQPPL được ban hành
ngày càng nhiều, nhưng trong đó vẫn tồn tại tình trạng nhiều văn bản mâu thuẫn,
chồng chéo, không phù hợp với VBQPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn. Do đó
cần có biện pháp hiệu quả nhằm khắc phục tình trạng ban hành VBQPPL không
đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp, để nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của
VBQPPL vào đời sống xã hội, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự phát triển
của công cuộc đổi mới.

10


Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội: “ Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật”,

NXB Công an nhân dân.
2. TS. Đỗ Ngọc Hải: “Một số tiêu chí cơ bản để ban hành VBQPPL có chất
lượng tốt” – Tạp chí dân chủ và pháp luật tháng 5/ 2008
3. Ths. Đoàn Thị Tố uyên : “Bàn về khái niệm VBQPPL” – tạp chí luật học
số 2/2004
4. Ths. Đoàn Thị Tố uyên: “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về xây dựng
và ban hành VBQPPL ở Việt Nam hiện nay”
5. Nguyễn Thị Thu Trang: “Đánh giá chất lượng VBPL lí luận và thực tiễn”
– khóa luận tốt nghiệp, HN 2009.

11



×