Cấu trúc bài luận
trang
I. Đặt vấn đề…………………………………………….………………….1
II. Nội dung vấn đề……………………………………………….…………1
1. Khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật và
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật………………………………….1
2. Khái niệm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp
trong xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật…………………………..2
3. Nguyên nhân của việc phải bảo đảm nguyên tắc hợp hiến,
hợp pháp trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật...........................2
4. Làm rõ nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến,
hợp pháp trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật………………...3
4.1. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến
trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ………………….....3
4.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp pháp
trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ…………………….4
5. Những giải pháp nhằm nâng cao nguyên tắc bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng văn bản QPPL pháp luật…………7
III. Tổng kết……………………………………………….……….…………7
* * * * * * * *
Một số từ viết tắt
1. VBPL : Văn bản pháp luật
2. QLNN : Quản lý Nhà nước
3. HĐND
và : Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
UBND
4. VBADPL : Văn bản áp dụng pháp luật
5. TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
6. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7. BMNN : Bộ máy Nhà nước
8. QSDĐ : Quyền sử dụng đất
9. QSH : Quyền sở hữu
10. Luật TCTAND 2002 : Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002
VKSNDTC : Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
1
I. Đặt vấn đề
Văn bản quy phạm pháp luật(VBQPPL) là văn bản được ban hành ra để
điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống hằng ngày, để có thể
điều chỉnh được những quan hệ đó nhằm đạt được những mục đích mà nhà nước
đã định ra, đòi hỏi các VBQPPL đó phải có đầy đủ quyền uy được bảo đảm bởi
nhà nước. Muốn có được quyền uy đó từ nhà nước, đòi hỏi các chủ thể khi xây
dựng VBQPPL thuộc thẩm quyền của mình phải tuân thủ một số nguyên tắc
nhất định, một trong những nguyên tắc đó là nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến,
hợp pháp.
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 3, khoản 1 Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2008(Luật Ban hành VBQPPL 2008): “Bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ
thống pháp luật”. Nội dung của nguyên tắc này cụ thể như thế nào mà có khả
năng chi phối rất lớn đến hiệu lực, tính khả thi của VBQPPL, sau đây sẽ là phần
phân tích để làm rõ.
II. Nội dung vấn đề.
1. Khái niệm Văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật.
Thứ nhất, về khái niệm VBQPPL: Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật
Ban hành VBQPPL: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà
nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ
tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó, có quy tắc xử xự
chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Với khái niệm này, ta thấy một số đặc điểm của
VBQPPL, đó là: do cơ quan nhà nước(CQNN) ban hành hoặc phối hợp ban
hành, bởi lẽ, các cơ quan nhà nước là chủ thể được nhà nước trao quyền trong
hoạt động quản lý, do đó để có thể thực hiện được chức năng quản lý của mình
các CQNN phải ra VBPL thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình để thực hiện các
hoạt động đó; có chứa đựng các quy tắc xử xự chung, có hiệu lực bắt buộc
chung. Quy tắc xử xự chung, hiệu lực bắt buộc chung này nên hiểu theo hướng
đó là: đối với các VBQPPL của Trung ương thì có hiệu lực đối với mọi chủ thể
trong một quốc gia, buộc mọi chủ thể đó phải xử xự theo các quy định của pháp
luật, còn đối với các VBQPPL của địa phương thì chỉ có hiệu lực đối với các
chủ thể của địa phương đó mà thôi; được Nhà nước bảo đảm, sự bảo đảm đó có
thể là bằng sức mạnh cưỡng chế.
Thứ hai, về khái niệm xây dựng VBQPPL: “xây dựng VBQPPL là hoạt
động của nhà nước bao gồm những quy trình nhất định để tạo nên những
VBQPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quản lý nhà nước nhằm
đạt được các mục tiêu đã đề ra”(trích bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của
VBPL – kilobooks.com). Như vậy, đây là khâu quan trọng để tạo ra sản phẩm
cuối cùng là một VBQPPL hoàn chỉnh, đáp ứng các yêu cầu về nội dung và hình
thức theo quy định của pháp luật, khâu này cũng quyết định việc VBQPPL đó
tồn tại trong thời gian bao lâu để điều chỉnh các vấn đề(thời gian tồn tại của văn
bản).
2
2. Khái niệm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng VBQPPL.
“Bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng VBQPPL tức là đảm bảo cho các
VBQPPL được ban hành không trái với các quy định cơ bản nhất, quan trọng
nhất trong Hiến pháp”(trích kilobooks.com – bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp
của VBPL), bởi lẽ, Hiến pháp có tính tối cao nhất trong hệ thống pháp luật, nếu
một VBQPPL lại trái với những quy định quan trọng nhất thì liệu những quy
định trong VBQP sai trái đó có thi hành được trên thực tế không?
Bảo đảm tính hợp pháp chính là sự phù hợp của dự án VBQPPL với các
quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền ban hành, hình thức, nội dung,
thủ tục, thời hạn ban hành. Nếu như bảo đảm tính hợp hiến là sự phù hợp của
VBQPPL với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn(một hướng) thì bảo đảm tính
hợp pháp là sự phù hợp của VBQPPL với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn
hoặc là ngang bằng về hiệu lực, chẳng hạn như: giữa Luật với Pháp lệnh hoặc
giữa Luật Đất đai với Luật Nhà ở...
3. Nguyên nhân của việc phải bảo đảm nguyên tắc hợp hiến, hợp pháp
trong xây dựng VBQPPL.
Một là, việc bảo đảm nguyên tắc này trong xây dựng VBQPPL là xuất
phát từ việc nhằm làm cho hệ thống pháp luật từ trên xuống dưới phù hợp nhau
(giữa Hiến pháp và các Luật) để có thể điều chỉnh được một vấn đề cụ thể, hơn
nữa việc tuân theo nguyên tắc này cũng chính là sự tuân theo quy luật trong sự
hình thành nên các chuẩn mực pháp lý: từ những vấn đề lớn nhất, cơ bản nhất,
sau đó có sự phân chia dần để có thể đi sâu vào mọi quan hệ xã hội và điều
chỉnh các quan hệ đó. Do đó quá trình này không được phép sai lệch, chỉ sai
lệch nhỏ cũng sẽ không điều chỉnh tốt một vấn đề nào đó.
Hai là, xuất phát từ việc các ngành luật đều có sự liên quan mật thiết với
nhau, cùng tham gia vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm làm ổn định
đời sống xã hội. Cho nên yêu cầu đặt ra hiện nay là phải tạo nên sự thống nhất
giữa các ngành luật do những chủ thể khác nhau trong QLNN ban hành, nếu đạt
được yêu cầu này thì các ngành luật đó không những không có sự mâu thuẫn mà
còn có sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong điều chỉnh các vấn đề cuối cùng là đạt
được mục đích hợp pháp của nhà nước.
Ba là, trong quá trình ban hành ra một VBQPPL thì văn bản đó có thể
động chạm tới nhiều văn bản do các chủ thể có thẩm quyền khác ban hành, nên
xuất phát từ lý do tôn trọng sự tối cao của Hiến pháp và các chủ thể có thẩm
quyền ra các văn bản có giá trị pháp lý ngang với mình, các chủ thể phải tự ý
thức được trách nhiệm của mình trong quá trình soạn thảo, thông qua các
VBQPPL thuộc thẩm quyền, phải đề cao công tác nghiên cứu các VBQPPL của
các chủ thể khác ban hành trước về cùng một vấn đề xem khi mình ban hành văn
bản đó có ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của văn bản đang có giá trị thi hành
của các chủ thể khác ban hành hay không, nếu xét thấy văn bản của các chủ thể
khác không hợp hiến và trái với văn bản mà mình đang ban hành thì kiến nghị
sửa đổi văn bản đó, còn nếu nhận thấy văn bản của mình đang đi ngược lại
VBQPPL của chủ thể khác mà văn bản của chủ thể đó có tính hợp hiến, hợp
pháp thì phải chỉnh sửa ngay VBQPPL mà mình chuẩn bị ban hành.
3
4. Làm rõ nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong
xây dựng VBQPPL.
4.1. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng VBQPPL,
ví dụ.
Trước hết, nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: các nguyên tắc
pháp lý được xác định trong VBQPPL mà các chủ thể có thẩm quyền ban hành
phải tuân theo những nguyên tắc pháp lý cơ bản đã được Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam xây dựng nên, đó là những nguyên tắc như: Đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc bảo đảm
sự tham gia của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước và xã hội, nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa...
Nếu tuân thủ nghiêm các nguyên tắc hiến định khi xây dựng nên các
VBQPPL thì không những VBQPPL đó đã đạt chuẩn mực pháp lý cao mà còn
có khả năng tác động đến các đối tượng, các vấn đề một cách hiệu quả nhất, có
khả năng làm cho các đối tượng chịu sự tác động phải tuân thủ một cách nghiêm
chỉnh pháp luật, làm cho các vấn đề đó phát triển tuân theo quy luật nhất định
mà nhà nước mong muốn, ngược lại, nếu không tuân theo các nguyên tắc pháp
lý đó thì khả năng VBQPPL mới được ban hành ra đã phải sửa đổi, bổ sung
thậm chí là hủy bỏ là điều không thể tránh khỏi. Trong thời gian qua, những
VBQPPL phần lớn phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến,
những VBQPPL trái Hiến pháp được ban hành không nhiều nhưng cũng không
phải không tồn tại. Nhiều dự thảo VBQPPL có nội dung trái Hiến pháp được
đưa ra thảo luận nhưng đã được phát hiện kịp thời và bị hủy bỏ. “Ví dụ như Dự
thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
do Bộ Giao thông vận tải soạn thảo có nội dung tăng mức xử phạt vi phạm giao
thông đường bộ ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Bộ tư pháp cho rằng một
hành vi vi phạm nhưng mỗi nơi lại áp dụng quy định khác nhau là vi phạm Hiến
pháp. Cụ thể là ở Điều 52 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định:
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”(trích kilobooks.com – bảo đảm
tính hợp hiến hợp pháp của VBPL).
Một ví dụ nữa thể hiện VBQPPL được ban hành nhưng trái với Hiến pháp
(chương các quyền và nghĩa vụ của công dân) như sau: “ngày 24/10/2008, Cục
Kiểm tra VBQPPL thuộc Bộ Tư pháp đã có văn bản gửi Bộ Y tế về việc kiểm
tra Quyết định số 33/2008/QĐ-BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe của
người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới và Quyết định số 34/2008/QĐ-
BYT về việc ban hành sức khỏe của người khuyết tật điều khiển mô tô, xe ba
bánh. Theo đó, qua kiểm tra bước đầu cũng như việc phân tích đánh giá các ý
kiến phản ánh về tính hợp hiến, hợp pháp và hợp lý, thì Bộ Tư pháp đã nhận
định việc đưa ra quá nhiều tiêu chuẩn(83 tiêu chuẩn), đặc biệt có những tiêu
chuẩn chiều cao, cân nặng và một số tiêu chuẩn khác không phù hợp đã hạn chế
quyền hiến định của công dân trong việc khai thác giá trị sử dụng của tài sản-
phương tiện giao thông thuộc sở hữu của mình”(diễn đàn pháp luật).
Thứ hai, nội dung các quy phạm trong VBQPPL được ban hành để điều
chỉnh các vấn đề phải phù hợp và thống nhất với các quy phạm đã được xác định
trong Hiến pháp. Bởi lẽ, nếu các quy phạm được xây dựng trong các VBQPPL
4
đó mà trái(không tuân theo tinh thần) của Hiến pháp, thì các quy phạm đó sẽ
không có khả năng tác động tốt tới các đối tượng, khả năng nhận được sự phản
đối của các đối tượng là điều không tránh khỏi, bởi vì sự không tuân theo quy
luật của các chủ thể ban hành văn bản thì một điều tất yếu là các văn bản đó sẽ
phải bị loại bỏ, không cho thi hành trên thực tế nhằm tránh những thiệt hại nhất
định cho xã hội.
Một trong những ví dụ cụ thể cho việc cần phải tuân thủ đúng các quy
phạm được quy định trong Hiến pháp: “Theo Ủy ban Pháp luật, nội dung một số
văn bản hướng dẫn thi hành còn trái với Hiến pháp. Đơn cử Thông tư 02 ngày
13/1/2003 của Bộ Công an về hướng dẫn tổ chức cấp đăng ký, biển số phương
tiện giao thông cơ giới đã quy định: "...Mỗi người chỉ được đăng ký 1 xe môtô
hoặc xe gắn máy". Quy định này đã hạn chế quyền sở hữu của công dân, được
quy định tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992, vi phạm khoản 1, Điều 221 BLDS là
công dân có quyền sở hữu tài sản hợp pháp, không bị hạn chế về số lượng, giá
trị”(bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của VBPL – kilobooks.com). Với quy định
tại điểm 2 Mục A Phần II các loại giấy tờ của chủ xe khi đến đăng ký xe của
Thông tư số 02/2003 của Bộ Công an như trên là hoàn toàn không hợp lý, do đó
đã bị sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 17/2005 của Bộ Công an để bảo đảm tính
hợp hiến của một VBQPPL.
Một ví dụ khác, tại Điều 2 Nghị định số 67 ngày 19/02/2005 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giám định Tư pháp, đã cho phép cơ
quan thuộc Chính phủ được ban hành VBQPPL. Điểm sai của Nghị định này
chính là đã đi ngược lại những quy định của Hiến pháp về Tổ chức bộ máy nhà
nước. Theo đó, Điều 116 Hiến pháp quy định thì chỉ Bộ trưởng, các thành viên
khác của Chính phủ ra Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành
các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. Như vậy, Hiến
pháp không quy định hay nói cách khác là không cho phép các cơ quan thuộc
Chính phủ được ra văn bản dưới hình thức pháp lý quy phạm để thực hiện nhiệm
vụ.
Thứ ba, nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng
VBQPPL còn thể hiện ở nội dung nữa như sau: những cơ quan và nhà chức
trách có quyền ban hành VBQPPL thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình cần
phải tuân theo những quy định của Hiến pháp đã xác định những cơ quan và nhà
chức trách đó có thẩm quyền ban hành loại văn bản nào tại chương quy định về
Tổ chức của Bộ máy Nhà nước. Nếu tuân thủ đúng nguyên tắc đó thì đảm bảo sẽ
không còn tồn tại một số thực trạng: một số chủ thể có thẩm quyền ban hành
VBQPPL nhưng không ban hành những văn bản thuộc quyền của mình mà lại
ban hành một văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của một chủ thể khác trong
bộ máy nhà nước. Chẳng hạn như việc UBND ban hành Nghị quyết – là văn
bản của HĐND mà không phải là Quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn,
điều này đã vi phạm một cách nghiêm trọng các quy định của Hiến pháp.
4.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tính hợp pháp trong xây dựng VBQPPL,
ví dụ.
Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện rõ trên các phương diện sau:
5