Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Trách nhiệm của xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.75 KB, 12 trang )

A. Mở đầu
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến công tác đấu
tranh phòng chống bạo lực gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình đã được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào tháng 11/2007
và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2008 đã đánh dấu một bước quan trọng trong công tác
phòng chống bạo lực gia đình. Kể từ thời điểm Luật phòng chống bạo lực gia đình
có hiệu lực đến nay, chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, giảm thiểu
đáng kể tình trạng bạo lực trong gia đình, tuy nhiên, tình hình bạo lực gia đình vẫn
diễn biến khá phức tạp.
Để giải quyết triệt để vấn đề này, bên cạnh quy định trách nhiệm cụ thể của các
cá nhân, gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình cũng đã quy định trách nhiệm
của xã hội trong công tác này. Thông qua việc thực hiện đề tài “Trách nhiệm của xã
hội trong phòng chống bạo lực gia đình”, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về trách
nhiệm của xã hội trong công tác phòng chống bạo lực gia đình hiện nay.
B. Nội dung
I. Khái quát chung về phòng chống bạo lực gia đình
Khái niệm gia đình và thành viên gia đình:
Có thể hiểu khái niệm gia đình giữa hai góc độ :
Thứ nhất, dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Không
giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu tố sinh học,
kinh tế, tâm lý, văn hóa… Những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ
chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu ( và những mối liên hệ khác như cô dì chú
bác, con dâu, con rể… ). Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh như:
lao động tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội,
nuôi dạy con cái, đời sống tình dục… Những mối liên hệ này có thể dựa trên những
căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự
phát.
1


Thứ hai, dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau


qua hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa
vụ và quyền giữa họ với nhau ( Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình năm
2000 ).
Từ những góc độ nhìn nhận khác nhau dẫn tới những quan niệm khác nhau về
thành viên gia đình.
Theo quan niệm truyền thống : thành viên gia đình là tất cả những người trong
cùng dong họ, trong một đại gia đình từ cụ, kỵ, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái ,
cháu chắt… ( bao gồm cả con dâu, con rể, cháu dâu, cháu rể )
Theo quan niệm hiện đại, thành viên gia đình là những người sống trong cùng
một gia đình, có đời sống chung về mặt vật chất và tinh thần như cha mẹ và con
cái, vợ chồng, giữa những người đã từng là con dâu với cha mẹ chồng, đã từng là
con rể với cha mẹ vợ, giữa những người sống chung với nhau như vợ chồng
Khái niệm bạo lực và bạo lực gia đình :
Khái niệm “Bạo lực” có thể hiểu đơn giản là việc dùng sức mạnh để cưỡng bức,
trấn áp hoặc lật đổ.
Khái niệm “Bạo lực gia đình” được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 1 Luật
Phòng chống bạo lực gia đình, theo đó, bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành
viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh
tế đối với các thành viên khác trong gia đình
Các hình thức thể hiện của bạo lực gia đình : Bao gồm 4 hình thức sau:
Bạo lưc thể chất : là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làm tổn
thương tới sức khỏe, tính mạng của họ
Bạo lực về tinh thần : là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh
dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình
Bạo lực về kinh tế : là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của thành
viên gia đình ( quyền tự do lao động, tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản… )
2


Bạo lực về tình dục : là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép trong các

quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con
II. Thực trạng về vấn đề bạo lực gia đình diễn ra ở Việt Nam trong thời gian
qua
Theo Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao cho biết : trong 5 năm (2000 – 2005),
tòa án các địa phương giải quyết 352.047 vụ việc về hôn nhân gia đình. Trong đó
gần 200.000 vụ ly hôn do bạo lực gia đình, hành hạ, đánh đập, ngược đãi chiếm
53,1% trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn.
Còn theo báo cáo của Bộ Công an, trên toàn quốc cứ 2-3 ngày lại có 1 người bị
chết có liên quan đến bạo lực gia đình 80% nạn nhân là nữ, số nạn nhân còn lại là
đàn ông. Trong năm 2005 có 14% số vụ giết người liên quan đến bạo hành gia đình
(151/1113 vụ, trong đó 39 vụ chồng giết vợ, 16 vụ vợ giết chồng). Chỉ riêng 3
tháng đầu năm 2006, tỉ lệ này là 30,5% (26/77 vụ).
Nạn nhân của bạo lực gia đình ở Việt Nam bao gồm cả nam giới lẫn nữ giới, tuy
nhiên, nạn nhân là nam giới chiếm tỉ lệ ít hơn, khó phát hiện hơn, vì vậy, việc đưa
ra các số liệu thống kê gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, theo Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt
Nam năm 2010 thu thập thông tin chi tiết về tỷ lệ bạo lực, tần suất, những yếu tố
nguy cơ và hậu quả của bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Đây là nghiên cứu đầu tiên
trên phạm vi toàn quốc, thông qua đó có thể thấy thực trạng bạo lực gia đình diễn
ra ở Việt Nam như sau :.
Bạo lực gia đình với nạn nhân là phụ nữ và người có hành vi bạo lực gia đình chủ
yếu là người chồng
Tại Việt Nam, 99% phụ nữ từng có bạn tình đều thuộc nhóm những phụ nữ "từng
kết hôn" và chỉ có 1% cho biết có hình thức bạn tình khác (hẹn hò/sống chung như
vợ chồng). 1% này được đưa chung vào kết quả của báo cáo, để thuận tiện cho việc
sử dụng thuật ngữ "đã từng kết hôn" và "chồng" để chỉ tất cả phụ nữ có bạn tình
trong nghiên cứu.
3



- Bạo lực thể xác
Có 32% phụ nữ từng kết hôn cho biết họ đã phải chịu bạo lực thể xác trong đời
và 6% đã từng trải qua trong vòng 12 tháng trở lại đây. Kết quả nghiên cứu cho
thấy bạo lực thể xác – được đo lường bởi tỷ lệ bạo lực hiện tại – bắt đầu sớm trong
mối quan hệ và giảm dần theo độ tuổi. Có sự khác biệt giữa các khu vực và trình độ
học vấn và với phụ nữ có trình độ học vấn thấp hơn thì tỷ lệ bị bạo lực thể xác cao
hơn so với phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn và trong số những phụ nữ bị bạo lực
cao hơn thì mức độ nghiêm trọng của những hành vi bạo lực cũng cao hơn. Trong
số những phụ nữ đã từng mang thai, tỷ lệ bị bạo lực thể xác trong ít nhất một lần
mang thai là 5% và tỷ lệ bị bạo lực khi đang mang thai cao nhất ở những phụ nữ
chưa từng đến trường.
- Bạo lực tình dục
Phụ nữ gặp khó khăn hơn khi tiết lộ những trải nghiệm bạo lực tình dục so với
những trải nghiệm bạo lực thể xác. Tương tự như vậy, việc nói về bạo lực tình dục
trong hôn nhân được xem như một chủ đề không phù hợp. Tuy nhiên, trong các
phỏng vấn có 10% phụ nữ từng kết hôn cho biết họ đã từng bị bạo lực tình dục
trong đời và 4% trong 12 tháng qua. Đáng chú ý là bạo lực tình dục hiện tại không
thay đổi nhiều ở những nhóm tuổi khác nhau (tới 50 tuổi) và trình độ học vấn của
phụ nữ.
- Bạo lực tinh thần và kinh tế
Bạo lực tinh thần và kinh tế cũng không kém phần quan trọng so với bạo lực tình
dục và thể xác và thường ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn bạo lực tình dục và thể
xác. Kết quả chỉ ra rằng tỷ lệ bị bạo lực tinh thần rất cao: 54% phụ nữ cho biết đã
phải chịu bạo lực tinh thần trong đời và 25% cho biết đã bị bạo lực tinh thần trong
12 tháng qua. Tỷ lệ bị bạo lực về kinh tế trong đời là 9%.
- Kết hợp bạo lực thể xác, tình dục và tinh thần
Tỷ lệ bạo lực thể xác và tình dục là chỉ tiêu quan trọng về bạo lực do chồng gây
ra và được sử dụng để so sánh quốc tế. Các chỉ tiêu về tỷ lệ bạo lực hiện tại và
4



trong cuộc đời tương ứng là 9% và 34%. Tỷ lệ bạo lực trong cuộc đời khác nhau
theo vùng và giữa các nhóm dân tộc và thay đổi từ 8% đến 38%.
Khi kết hợp ba loại bạo lực chính: thể xác, tình dục và tinh thần do chồng gây ra
đã có hơn nửa phụ nữ (58%) trả lời từng bị ít nhất một trong ba loại bạo lực này
trong cuộc đời. Tỷ lệ này trong 12 tháng qua là 27%.
Bạo lực đối với phụ nữ do đối tượng khác không phải là chồng gây ra ( thành viên
khác trong gia đình )
- Bạo lực thể xác đối với phụ nữ
Khoảng 10% phụ nữ cho biết đã từng bị bạo lực thể xác bởi một người khác không
phải là chồng trong gia đình, tuy nhiên có sự khác biệt khá lớn giữa các vùng với
khoảng dao động từ 3% đến 12%. Người gây bạo lực chủ yếu là các thành viên
trong gia đình (65% phụ nữ bị bạo lực là do thành viên trong gia đình gây ra).
- Lạm dụng tình dục
Khoảng gần 1% tổng số phụ nữ được hỏi cho biết bị lạm dụng tình dục bởi thành
viên khác trong gia đình
Hậu quả của bạo lực đối với phụ nữ
Trong khảo sát, 26% phụ nữ từng bị chồng gây bạo lực thể xác hoặc tình dục cho
biết đã bị thương tích do hậu quả trực tiếp từ hành vi bạo lực. Trong số này, 60%
cho biết họ bị thương tích hai lần trở lên và 17% bị thương tích 5 lần trở lên.
Tất cả phụ nữ trong khảo sát đã trả lời một số câu hỏi về sức khỏe chung, sức khỏe
tâm thần và sức khỏe sinh sản. Trong phần phân tích tình trạng sức khỏe, những
hậu quả này được so sánh giữa những phụ nữ từng bị bạo lực thể xác hoặc tình dục
với những phụ nữ chưa bao giờ bị bạo lực thể xác hoặc tình dục. Phụ nữ bị bạo lực
do chồng gây ra thường trả lời là tình trạng sức khỏe của họ là "kém" hoặc "rất
kém" nhiều hơn. Họ cũng gặp phải nhiều hơn những vấn đề về đi lại hoặc thực hiện
những hoạt động thường ngày, bị đau và mất trí nhớ, căng thẳng tinh thần và suy
nghĩ tiêu cực, sảy thai, nạo thai và thai chết lưu. Phụ nữ có con từ 6 đến 11 tuổi
5



từng bị bạo lực do chồng gây ra cho biết con cái họ cũng có những vấn đề về hành
vi (như ác mộng, đái dầm, hành vi hung hăng và kết quả học tập kém) so với những
phụ nữ không bị bạo lực do chồng gây ra.
Bạo lực đối với trẻ em, khía cạnh liên thế hệ của bạo lực
Có khoảng 1/4 phụ nữ có con dưới 15 tuổi cho biết con của mình đã từng bị bạo lực
về thể xác do chồng gây ra. Hình thức bạo lực thể xác trẻ em phổ biến thường là
tát, xô, đẩy trẻ. Khảo sát cũng cho thấy bạo lực đối với trẻ em có mối liên hệ chặt
chẽ với bạo lực đối với phụ nữ do cùng một đối tượng gây ra. Phụ nữ có chồng bạo
hành có nguy cơ trả lời rằng con của mình cũng bị đánh đập cao gấp hai lần và
thậm chí là cao hơn nếu người chồng bạo hành vợ nghiêm trọng. Hơn nữa, số phụ
nữ bị chồng gây bạo lực thể xác cũng cho biết con cái họ đã từng chứng kiến ít nhất
một lần cảnh bạo lực này. Phụ nữ từng bị bạo lực do chồng gây ra có nguy cơ mẹ
mình cũng từng bị cha đánh đập cao gấp hai lần so với những phụ nữ khác. Nguy
cơ này tăng gấp ba lần nếu họ có mẹ chồng bị bố chồng đánh hoặc bản thân chồng
cũng bị đánh đập khi còn nhỏ. Trải nghiệm thơ ấu của người chồng là một yếu tố
nguy cơ quan trọng dẫn tới việc anh ta trở thành người gây bạo lực trong đời sống
sau này.
Phản ứng của phụ nữ khi là nạn nhân của bạo lực gia đình
Một nửa số phụ nữ từng bị chồng gây bạo lực chưa từng nói với bất cứ ai về vấn đề
mà mình phải hứng chịu cho tới khi được phỏng vấn. Nếu họ đã từng nói điều này
với ai đó thì thường là thành viên trong gia đình. Nhiều phụ nữ nghĩ bạo lực trong
quan hệ vợ chồng là chuyện "bình thường" và rằng phụ nữ phải làm quen và chịu
đựng những gì đang diễn ra vì hạnh phúc gia đình.
Hầu hết phụ nữ bị bạo lực (87%) chưa bao giờ tìm kiếm sự hỗ trợ từ các dịch vụ
chính thống hoặc từ những người có thẩm quyền. Nếu họ có tìm kiếm sự hỗ trợ thì
cũng là khi bạo lực đã nghiêm trọng và người họ thường tìm đến là lãnh đạo địa
phương. Khoảng 1/5 số phụ nữ bị bạo lực đã từng rời khỏi nhà ít nhất là một đêm.
Thực tế gần như không có một lựa chọn nào cho phụ nữ đi đâu và người phụ nữ
thường quay về nhà vì gia đình. Trong khảo sát khoảng 60% phụ nữ từng bị bạo lực

6


thể xác và tình dục do chồng gây ra nói rằng họ có nghe về Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình. Tuy nhiên, phỏng vấn định tính cho thấy phụ nữ không nắm được chi
tiết luật và ngay cả các cấp chính quyền địa phương cũng không nắm được Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình.
II. Trách nhiệm của xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình
Để giải quyết vấn đề về bạo lực gia đình hiện nay, pháp luật Việt Nam đã đề cập
đến trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan, tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội nhằm tiến tới xóa bỏ nạn bạo lực gia đình hiện nay, tuy nhiên, trong phạm vi
đề tài này, bài viết chỉ tập trung tìm hiểu về trách nhiệm của tổ chức xã hội – một
trong những cấu thành của xã hội, được thể hiện trong các quy định của pháp luật
Việt Nam và có những tác động nhất định trong thực tiễn đời sống.
1. Trách nhiệm của xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình theo quy định của
Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2008:
Ở Việt Nam hiện nay tồn tại rất nhiều các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội có
thể kể đến như : Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Đoàn thanh niên, Hội nông
dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam… Nhìn chung, tất cả các tổ chức xã hội này đều là tổ chức thành viên của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chính vì thế, trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong phòng chống bạo lực gia đình được quy định cụ thể tại Luật phòng, chống
bạo lực gia đình năm 2008 chủ yếu đề cập đến trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt nam và các tổ chức thành viên và trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam ( tổ chức đại diện cho phụ nữ và trẻ em – những nạn nhân chủ yếu của bạo lực
gia đình ở Việt Nam hiện nay ). Cụ thể :
- Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên ( Điều
33 ): Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm tuyên
truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình, đồng thời có trách nhiệm kiến nghị những
biện pháp cần thiết đối với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về

phòng, chống bạo lực gia đình.
7


- Trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ( Điều 34 ): Bên cạnh trách
nhiệm tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân tuân
thủ pháp luật phòng chống bạo lực gia đình, kiến nghị các biện pháp cần thiết nhằm
đảm bảo thực hiện pháp luật phòng chống bạo lực gia đình, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam còn có trách nhiệm tổ chức cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia
đình, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, tổ chức các hoạt động dạy nghề, tín
dụng, tiết kiệm để hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, phối hợp với cơ quan, tổ chức
có liên quan để bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
Nhìn chung, luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định trách nhiệm tổ chức xã
hội trong công tác phòng chống bạo lực gia đình khá lỏng lẻo. Luật phòng chống
bạo lực gia đình quy định, trách nhiệm của các tổ chức xã hội bao gồm :
- Tuyên truyền pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình
- Kiến nghị các giải pháp, biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp
luật về phòng chống bạo lực gia đình
Tuy nhiên, trên thực tế, các tổ chức xã hội mới chỉ cơ bản thực hiện được trách
nhiệm tuyên truyền pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình thông qua các
chương trình hoạt động của mình. Về vấn đề kiến nghị các biện pháp, giải pháp cần
thiết nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình thì
về cơ bản là chưa thực hiện được.
2. Giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của xã hội nhằm hoàn thiện công tác
phòng chống bạo lực gia đình hoàn thiện công tác :
Thực tiễn đạt được :
Luật phòng chống bạo lực gia đình trải qua một thời gian có hiệu lực ( từ năm
2008 đến nay ), về cơ bản, công tác của các tổ chức xã hội trong phòng chống bạo
lực gia đình cũng đã đạt được một số kết quả nhất định
Các tổ chức xã hội thực hiện vai trò phòng chống bạo lực gia đình thông qua

nhiều hình thức và nội dung, tuy nhiên, tập trung chủ yếu vào hai biện pháp cơ bản,
8


có hiệu quả trên thực tế, đó là truyền thông nâng cao nhận thức về bạo lực gia đình
và tổ chức thực hiện hòa giải khi có bạo lực gia đình xảy ra
Qua số liệu khảo sát gần đây của Tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình đã
cho thấy việc cá nhân, gia đình tiếp cận được các thông tin nhằm thay đổi nhận
thức, hành vi về bạo lực gia đình là do các tổ chức xã hội tuyên truyền phòng chống
bạo lực gia đình đạt đến 66,6 %. Trong đó, Hội Liên hiệp phụ nữ là tổ chức có
những hoạt động tích cực nhất trong hoạt động tuyên truyền pháp luật phòng chống
bạo lực gia đình, tiếp đến là Mặt trận Tổ quốc và Đoàn thanh niên. Đây cũng là ba
tổ chức xã hội hoạt động hiệu quả nhất trong phòng chống bạo lực gia đình. Có
65,4% số người được hỏi cho rằng, Hội Liên hiệp phụ nữ tích cực tham gia phòng
chống bạo lực gia đình, tỷ lệ này đối với Mặt trận tổ quốc là 50,5% và Đoàn thanh
niên là 43,3%. Về hiêu quả hoạt động thì có 53,6% số người được hỏi cho rằng,
Hội phụ nữ hoạt động có hiệu quả tốt, Mặt trận tổ quốc là 44,4% và Đoàn thanh
niên là 37,1%.
Bên cạnh những hoạt động tích cực trong công tác phòng chống bạo lực gia
đình, các tổ chức xã hội cũng bộc lộ những nhược điểm khác nhau. Phần lớn các
hoạt động của các tổ chức xã hội còn mang tính phong trào, như tuyên truyền, vân
động, thông tin tới các thành viên về vấn đề bạo lực gia đình, chưa xây dựng được
những biện pháp nhằm can thiệp trực tiếp khi có các vụ bạo lực gia đình nghiêm
trọng xảy ra, nội dung tư vấn còn nhiều hạn chế… ( Ví dụ như hoạt động của Hội
phụ nữ: thường chỉ can thiệp vào những trường hợp bạo lực gia đình rất nghiêm
trọng – chỉ nhằm mục đích chấm dứt ngay sự ngược đãi lúc đó mà không tư vấn
tiếp theo cho nạn nhân và người có hành vi bạo lực gia đình sau đó )
Bên cạnh công tác tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình, các tổ chức xã
hội còn thể hiện vai trò của mình thông qua hình thức hòa giải. Biện pháp hòa giải
trong bạo lực gia đình được xem như là một biện pháp quan trọng và có hiệu quả

nhất để hạn chế những hành vi bạo lực gia đình, bảo vệ nạn nhân của bạo lực gia
đình. Biện pháp hòa giải không mang trong mình nó sự thủ tiêu đấu tranh, mà
ngược lại, nó là một hình thức đấu tranh bằng tình, bằng lý một cách mềm mại, bền
bỉ, cương quyết. Biện pháp hòa giải còn được coi là biện pháp “ngăn chặn từ xa”,
9


ngăn chặn kịp thời những hành vi bạo lực, nó không chỉ là biện pháp làm hạn chế
sự gia tăng hành vi bạo lực, giảm bớt hậu quả mà còn là biện pháp có tính khả thi
cao trong phòng chống bạo lực gia đình.
Thực tế ở Việt Nam đã xuất hiện nhữn “trung tâm hòa giải”, “ban hòa giải”, “tổ
hòa giải” do các tổ chức xã hội thành lập nên ( Hội phụ nữ, cá tổ chức thuộc Mặt
trận tổ quốc…)
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và hiệu quả của biện pháp hòa giải
trong phòng chống bạo lực gia đình thì nó còn gặp phải những trở ngại không nhỏ.
Do quá coi trọng việc hòa giải, đặt nặng vấn đề thành tích giữ gìn hành phúc gia
đình yên ổn và tỉ lệ ly hôn thấp đã dẫn đến thái độ thiếu quan tâm đến quyền lợi và
sức khỏe của nạn nhân của bạo lực gia đình…
Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội trong vấn đề
phòng, chống bạo lực gia đình
Thứ nhất, về mặt pháp lý :
- Cần xây dựng một hành lang pháp lý quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm chung
và riêng của từng tổ chức xã hội tùy theo mức độ liên quan đến công tác phòng,
chống bạo lực gia đình.
- Những quy định này cần phân định rõ giới hạn, phạm vi của các tổ chức xã hội,
đồng thời đưa ra được các chế tài ( xử phạt hành chính ) khi họ không thực hiện
đúng trách nhiệm, nhiệm vụ của mình; đưa ra các hình thức khen thưởng khi họ
thực hiện tốt trách nhiệm, nhiệm vụ của mình… Cần đưa ra các văn bản hướng dẫn,
giải thích chi tiết nhiệm vụ, phạm vi cũng như trách nhiệm của các tổ chức này
Thứ hai, về mặt thực tiễn :

- Đối với công tác tuyên truyền pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình của các
tổ chức xã hội :

10


Những người thực hiện công tác tuyên truyền, truyền thông, tư vấn về bạo lực
gia đình của các tổ chức xã hội cần được định kỳ tập huấn và cung cấp tài liệu đầy
đủ, kịp thời.
Đối với những mô hình tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình có hiệu
quả cao như mô hình khu phố, thôn, xóm văn hóa cần được duy trì và phát huy
( cung cấp kinh phí kịp thời, đầy đủ nhằm hỗ trợ chương trình này ). Đưa vấn đề
bạo lực gia đình thành một tiêu chuẩn trong việc xây dựng gia đình văn hóa
Đối với những chương trình lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật phòng chống
bạo lực gia đình, cần xây dựng những kế hoạch, chương trình cụ thể, hợp lý, có ý
nghĩa thực tiễn. Đối với những tổ chức xã hội xây dựng được những chương trình
lồng ghép việc tuyên truyền đạt hiệu quả cao, cần có các biện pháp nhân rộng, tạo
điều kiện cho các chương trình này đi vào thực tiễn
- Trong công tác hòa giải
Công tác hòa giải của các tổ chức xã hội nêu trên cần hướng tới việc bảo vệ thiết
thực quyền lợi, sức khỏe, tinh thần của nạn nhân bạo lực gia đình. Trong những
trường hợp khác nhau, cần áp dụng các phương pháp hòa giải khác nhau ( Đa dạng
hóa các phương thức hòa giải nhằm tiếp cận đối tượng, nạn nhân của bạo lực gia
đình một cách dễ dàng hơn )
C. Kết Luận
Bạo lực gia đình có nguồn gốc từ lâu đời trong xã hội Việt Nam, với nguyễn
nguyên nhân và đặc điểm đặc thù của mình, hậu quả của bạo lực gia đình là rất lớn
không chỉ đối với nạn nhân của và người thân của họ mà còn gây tốn kém trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử, chữa trị thương tích, trợ giúp nạn nhân …. Chính
vì vậy, muốn công tác phòng chống bạo lực gia đình đạt kết quả cao, xã hội càng

phải có sự quan tâm thiết thực hơn nữa tới công tác phòng chống bạo lực gia đình,
mà biểu hiện cụ thể của nó là sự hoạt động tích cực, đạt hiểu quả cao của các tổ
chức xã hội.

11


D.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. />2. />3. />4. />p_p_id=62_INSTANCE_Z5vv&p_p_lifecycle=0&p_p_state=maximized
&p_p_mode=view&p_p_col_id=column3&p_p_col_count=1&_62_INSTANCE_Z5vv_struts_action=
%2Fjournal_articles
%2Fview&_62_INSTANCE_Z5vv_groupId=18&_62_INSTANCE_Z5vv
_articleId=2697&_62_INSTANCE_Z5vv_version=1.0
5. />class_id=1&mode=detail&document_id=51256
6. />p_p_id=62_INSTANCE_Z5vv&p_p_lifecycle=0&p_p_state=maximized
&p_p_mode=view&p_p_col_id=column3&p_p_col_count=1&_62_INSTANCE_Z5vv_struts_action=
%2Fjournal_articles
%2Fview&_62_INSTANCE_Z5vv_groupId=18&_62_INSTANCE_Z5vv
_articleId=31900&_62_INSTANCE_Z5vv_version=1.0
7. />
12



×