MỤC LỤC
I.Mở đầu
II.Nội dung
1. Các khái niệm liên quan
1.1. Khái niệm CTXH
1.2. Khái niệm nhân viên CTXH
1.3. Khái niệm gia đình
1.4. Khái niệm BLGĐ
1.5. Khái niệm trẻ em
1.6. Bạo hành trẻ em là gì
2. Tổng quan về BLGĐ đối với trẻ em tại Việt Nam
3. Các hình thức BLGĐ đối với trẻ em
3.1. Bạo hành thể chất
3.2. Bạo hành tình dục
3.3. Bạo hành tâm lý
3.4. Bỏ bê
3.5. Lạm dụng trẻ em
4. Thực trạng BLGĐ đối với trẻ em tại Sơn Tây- Hà Nội
4.1. Địa bàn nghiên cứu
4.2. Thực trạng BLGĐ đối với trẻ em tại Sơn Tây
4.3. Các hoạt động CTXH cung cấp cho trẻ em bị BLGĐ
5. Nguyên nhân dẫn đến trẻ em bị BLGĐ
6. Hậu quả của việc BLGĐ đối với trẻ em
7. Các biện pháp phòng tránh BLGĐ đối với trẻ em
III.Kết luận
I.Mở đầu.
Theo báo cáo tình trạng trẻ em thế giới của Unicef năm 2009, hiện
có khoảng 500 triệu trẻ em bị ảnh hưởng của bạo lực chiếm khoảng ¼
tổng số trẻ em trên thế giới. Đối với nước ta, tình trạng bạo lực trẻ em
trong những năm gần đâydiễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng.
Trong hai năm 2008-2009, cả nước đã xảy ra 5.956 vụ (bình quân gần
3.000 vụ một năm), trên 100 vụ giết trẻ em và 50 vụ bắt cóc, buôn bán
trẻ em được phát hiện và xử lý, trong đó có một số vụgây bức xúc trong
dư luận xã hội. Nhiều trẻ em bị chính cha mẹ, người thân, thầy cô giáo,
người sử dụng lao động và những người có trách nhiệm nuôi dưỡng
chăm sóc trẻ em có hành vi bạo lực trẻ em.
Bên cạnh đó, tình trạng bạo lực ở trong và ngoài trường học của
học sinh vẫn tiếp tục xảy ra đang lànỗi bức xúc của xã hội, chưa làm an
lòng các bậc phụ huynh và những nguời quan tâm đến sự nghiệp bảo vệ
chăm sóc, giáo dục trẻ em. Hiện tượng bạo lực của học sinh không phải
là một hiện tượng mới, song thời gian gần đây, hiện tượng này xảy ra ở
một số trường học đã bộc lộ những tính chất nguy hiểm và nghiêm trọng
như: học sinh đánh nhau gây thương tích, thậm chí tử vong. Giáo viên sử
dụng các biện pháp giáo dục có tính chất bạo lực gây hậu quả nghiêm
trọng đối với học sinh; học sinh hành hung thầy, cô giáo. Đối tượng học
sinh đánh nhau có cả nữ sinh, không phải chỉ có các nam sinh nóng nảy,
thiếu kiềm chế, thâm chí nữ sinh đánh nữ sinh theo kiểu hội đồng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực nêu trên, trước hết
phải kể đến nhận thức của các gia đình, cộng đồng về vấn đề bảo vệ trẻ
em chưa đầy đủ và phần nào đó còn bị xem nhẹ; nhiều thói quen, phong
tục, tập quán có hại cho trẻ em chưa được các cấp, các ngành quan tâm
đấu tranh loại bỏ như đánh con là việc ”bình thường”. Việc ngược đãi,
xâm hại, bạo lực, bóc lột đối với trẻ em chưa được cộng đồng chủ động
phát hiện sớm và báo cho các cơ quan chức năng xử lý, can thiệp kịp
thời vì họ không muốn có sự ”rắc rối ”liên quan đến họ. Nhận thức về sự
nguy hại nhiều mặt và hậu quả lâu dài, nghiêm trọng của các hành vi
xâm hại tình dục, bạo lực đối với trẻ em chưa được cảnh báo đúng mức,
đa phần những trẻ em bị ngược đãi, xâm hại và bị bóc lột có tâm lý mặc
cảm, tự ty hoặc tâm lý thù hận đối với xã hội và sau này khi trưởng
thành nhiều em trong số đó cũng ứng xử tương tự đối với người khác.
Trong khi đó, vai trò bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia
đình, cộng đồng chưa được coi trọng, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ và của chính bản
thân trẻ chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng
đồng còn hạn chế, trẻ em dễ trở thành nạn nhân của các hành vi bạo lực,
xâm hại tình dục và dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Tình trạng
nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân;
cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…cũng là nguyên nhân
dẫn đến việc trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và bị bạo lực
Nhận thức về bảo vệ trẻ em còn hạn chế thể hiện ở khía cạnh thiếu
hiểu biết về luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến
tình trạng người thân trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em
(khoảng 50% tổng số vụ vi phạm) và các thành viên khác trong xã hội
phạm tội nghiêm trọng đối với trẻ em đến mức phải xử lý hình sự.
Tiếp đến là những hệ lụy của những trang web đen, trò chơi điện tử
bạo lực không thể lường trước được. Nhiều gia đình tan nát, nhiều vụ án
đau lòng đã xảy ra, nhiều trẻ em đã phải lĩnh án. Trò chơi điện tử là một
thế giới ảo, ở đó người chơi có thể làm tất cả những điều mình thích mà
không bị trừng phạt. Tuy nhiên, khi cuộc chiến trên thế giới ảo trở thành
cuộc chiến thật ngoài đời thì thú chơi này thật sự trở thành một mối
nguy hiểm lớn đối với xã hội.
II.Nội dung.
1. Các khái niệm liên quan
1.1. Khái niệm công tác xã hội ( CTXH)
Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): Công tác xã hội là hoạt
động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm
nâng cao hay khôi phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức
năng xã hội và tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của
họ. CTXH tồn tại để cung cấp các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và
nhân đạo cho cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và xã hội giúp họ tăng
năng lực và cải thiện cuộc sống.
Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW) tại Hội nghị
Quốc tế Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên nghiệp
thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan
hệ con người, sự tăng quyền lực và giải phóng cho con người, nhằm
giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng
các lý thuyết về hành vi con người và các hệ thống xã hội. CTXH can
thiệp ở những điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ.
Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp phần giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các
vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội,
hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân
và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.
1.2. Khái niệm nhân viên CTXH
Nhân viên công tác xã hội (tiếng Anh là social worker) là những
người hoạt động trong nhiều lĩnh vực, được đào tạo chính quy và cả bán
chuyên nghiệp, được trang bị các kiến thức và kỹ năng trong CTXH để
trợ giúp các đối tượng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với vấn
đề trong cuộc sống; tạo cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực
cần thiết; thúc đẩy sự tương tác giữa các cá nhân, giữa cá nhân với môi
trường tạo ảnh hưởng tới chính sách xã hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi
ích của cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng thông qua hoạt động
nghiên cứu và hoạt động thực tiễn”. (Theo Hiệp hội Nhân viên công tác
xã hội quốc tế -IFSW)
Nhân viên công tác xã hội là những nhà chuyên nghiệp làm chủ
những nền tảng kiến thức cần thiết, có khả năng phát triển các kỹ năng
cần thiết, tuân theo những tiêu chuẩn và đạo đức của nghề công tác xã
hội.
1.3. Khái niệm gia đình
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các
mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,[1] quan
hệ nuôi dưỡng và hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm
và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có
những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội.
Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách
kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ
bản cho các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách
xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội
học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi
của động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều
kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở loài
người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự
kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật
ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh
học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó không giống với bất kỳ một
nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học
khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể,
phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có
cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì
vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như
một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã
hội hóa con người. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm
xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về
sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu
riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội
về tái sản xuất con người
1.4. Khái niệm bạo lực gia đình
Bạo hành gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý
của các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại… với
các thành viên khác trong gia đình” [1] (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo
lực gia đình). Nói một cách dễ hiểu hơn, đó là việc “các thành viên gia
đình vận dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề gia đình” [2].Gia đình
là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình
có thể coi như là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với rất nhiều dạng
thức khác nhau.
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng
bức, trấn áp hoặc lật đổ” . Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới
các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một
phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan
hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất
phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ
nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực
với phụ nữ, với trẻ em…
1.5. Khái niệm trẻ em
Về mặt sinh học, trẻ em là con người ở giữa giai đoạn từ khi sinh ra
và tuổi dậy thì. Định nghĩa pháp lý về một "trẻ em" nói chung chỉ tới
một đứa trẻ, còn được biết tới là một người chưa tới tuổi trưởng thành.
Trẻ em cũng có thể được hiểu trong mối quan hệ gia đình với bố mẹ
(như con trai và con gái ở bất kỳ độ tuổi nào) hoặc, với nghĩa ẩn dụ,
hoặc thành viên nhóm trong một gia tộc, bộ lạc, hay tôn giáo, nó cũng có
thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi một thời gian, địa điểm cụ thể, hoặc hoàn
cảnh, như trong "một đứa trẻ vô tư" hay "một đứa trẻ của những năm sáu
mươi "
Hiệp ước về Quyền Trẻ em của Liên hiệp quốc định nghĩa một đứa
trẻ là "mọi con người dưới tuổi 18 trừ khi theo luật có thể áp dụng cho
trẻ em, tuổi trưởng thành được quy định sớm hơn." hiệp nước này được
192 của 194 nước thành viên phê duyệt. Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em
của Việt Nam năm 2004 quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi. Một số định nghĩa tiếng Anh của từ trẻ em bao gồm thai nhi. Về
mặt sinh học, một đứa trẻ là bất kỳ ai trong giai đoạn phát triển của tuổi
thơ ấu, giữa sơ sinh và trưởng thành. Trẻ em nhìn chung có ít quyền hơn
người lớn và được xếp vào nhóm không để đưa ra những quyết định
quan trọng, và về mặt luật pháp phải luôn có người giám hộ
1.6. Bạo hành trẻ em là gì
Theo định nghĩa của Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO), bạo hành
trẻ em bao gồm tất cả những hành vi đối xử tệ bạc về thể chất hay tinh
thần, xâm hại tình dục, lợi dụng hay bỏ bê, dẫn đến nguy hại hay khả
năng nguy hại đối với sức khỏe, nhân phẩm, hay sự phát triển của đứa
trẻ.
Bạo hành có thể được thực hiện bởi cha mẹ, người trông nom, hay
một đứa trẻ lớn hơn,…v…v.
Theo Cục bảo vệ cộng đồng, trẻ em và người khuyết tật Department
of Communities, Child Safety and Disability Services của Queensland,
mức độ tổn thương của đứa trẻ không quan trọng, điều quan trọng là:
Đứa trẻ có đã bị, đang bị, hay có khả năng bị tổn thương hay không?
Đứa trẻ có phụ huynh có khả năng và sẵn sàng bảo vệ nó hay không?
Tổn thương ở đây được định nghĩa là những tác động nguy hại đáng
kể đối với sức khỏe thể chất, tâm lý, và tinh thần của đứa trẻ.
2. Tổng quan về BLGĐ đối với trẻ em tại Việt Nam
Tại Việt Nam, dù có tiến bộ trong thay đổi quan niệm và thực hành
chăm sóc và bảo vệ trẻ em, nhiều hình thức bạo lực đối với trẻ em như
bạo lực thân thể, xâm hại tình dục và lạm dụng lao động vẫn phổ biến.
Kỷ luật bạo lực đang diễn ra phổ biến với gần 68,4% trẻ em độ tuổi 1-14
được báo cáo là đã từng bị cha mẹ hoặc người chăm sóc bạo lực ở nhà…
Khoảng 16% trẻ em (tương đương 1,7 triệu trẻ) độ tuổi 5-17 được coi là
lao động trẻ em, trong đó 7,8% làm việc trong các điều kiện nguy hiểm.
Tỷ lệ trẻ em gái và nữ thanh niên 15-19 tuổi đã kết hôn tăng từ 5,4% vào
năm 2006 lên 11% vào năm 2015. Trong giai đoạn 2011-2015, 5.300 vụ
việc xâm hại tình dục trẻ em, chủ yếu là với trẻ em gái, đã được báo
cáo…
Từ đầu năm đến nay, qua quá trình theo dõi, nắm bắt và tổng hợp của
các quận, huyện, thị xã, Sở LĐTB&XH Hà Nội đã tiếp nhận: 4 thông tin
liên quan đến trẻ em bị xâm hại tình dục, 9 thông tin liên quan đến trẻ
em bị bạo hành, 10 vụ bạo lực giới, bạo lực gia đình (trong đó nạn nhân
chủ yếu là phụ nữ và trẻ em). Tuy nhiên, những vụ việc nêu trên mới chỉ
là “tảng băng nổi” chưa phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh về bạo lực
gia đình và xâm hại trẻ em trên địa bàn TP. Trên thực tế, số lượng các vụ
việc xảy ra nhiều hơn thế, nhưng gia đình nạn nhân không khai báo, tố
cáo đối tượng do sợ mặc cảm, sợ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của
trẻ em và phụ nữ.
Hàng năm, Sở LĐTB&XH đều duy trì công tác tuyên truyền,
PBGDPL tới cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng
giới của 30 quận, huyện, thị xã và 584 xã, phường, thị trấn, đội ngũ cộng
tác viên, tình nguyện viên, cha mẹ, người chăm sóc trẻ và bản thân trẻ
em về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong
đó, chú trọng các văn bản và các kỹ năng phòng chống bạo lực gia đình,
xâm hại trẻ em. Sở đã chủ động trong việc lựa chọn các hình thức tuyên
truyền, PBGDPL phù hợp với từng đối tượng, nhu cầu để mọi đối tượng
được tiếp cận dễ dàng và hiệu quả cao như tổ chức tập huấn, diễn đàn,
chiến dịch truyền thông, truyền thông trực tiếp tại cộng đồng, in ấn các
sản phẩm truyền thông…
3. Các hình thức bạo lực đối với trẻ em
3.1. Bạo hành thể chất
Bạo hành thể chất xảy ra khi cha mẹ hay người trông nom cố tình gây
thương tích cho đứa trẻ. Một số hành vi bạo hành thể chất bao gồm:
Đánh đập trẻ (đấm, đá, tát, nắm tóc, dùng roi, …)
Bóp cổ trẻ, lắc trẻ thô bạo
Ném, xô đẩy trẻ
Làm phỏng, đốt trẻ
Cắn trẻ
Bỏ độc trẻ
Và tất cả các hành vi có khả năng gây thương tích về mặt thể chất
khác.
3.2. Bạo hành tình dục
Bạo hành tình dục có thể là về mặt thể xác (touching), hoặc về mặt
tinh thần (non-touching). Các hành vi bạo hành tình dục bao gồm:
Về mặt thể xác (touching):
Xâm phạm thân thể đứa trẻ (penetrate) bằng một bộ phận cơ thể
hoặc một vật nào đó
Mơn trớn hoặc đụng chạm trẻ một cách không phù hợp
Bắt ép (hay yêu cầu) trẻ đụng chạm bộ phận sinh dục của người
lớn hoặc theo một cách gợi dục
Về mặt tâm lý (non-touching):
Cho trẻ tiếp xúc với văn hóa phẩm đồi trụy
Phô trương, phô bày một cách không đúng đắn, phản cảm trước
mặt trẻ
Cố tình thủ dâm trước mặt trẻ
Cố tình quan hệ tình dục trước mặt trẻ
Dùng trẻ để sản xuất các sản phẩm khiêu dâm (phim, ảnh, quảng
cáo,…v..v)
Các hành vi xâm phạm tình dục khác ở trẻ
3.3. Bạo hành tâm lý.
Bạo hành tâm lý xảy ra khi phụ huynh hay người chăm nom gây
nguy hại đến sự phát triển tinh thần và kỹ năng xã hội của đứa trẻ, hay
để lại chấn thương tâm lý đáng kể cho đứa trẻ. Một số hành vi bạo hành
tâm lý trẻ em bao gồm:
Từ chối hay bỏ bê (Rejecting or ignoring):
Nói với trẻ rằng không ai yêu thương hay mong muốn trẻ
Thể hiện rằng mình chả hứng thú gì với trẻ
Không thể hiện hay đáp trả tình yêu thương
Cắt lời trẻ trong các cuộc đối thoại
Mặc kệ trẻ cảm thấy gì, muốn nói gì,…v….v
Nhạo báng hay nhục mạ (Humiliating or shaming):
Gọi trẻ bằng những tên gọi mang tính hạ thấp nhân phẩm
Chỉ trích, nhục mạ, nhạo báng trẻ
Sử dụng ngôn ngữ hay thực hiện những hành vi nhầm phá hủy
lòng tự trọng của trẻ
Khủng bố tinh thần (Terrorizing):
Đập phá đồ, la, thét vào mặt trẻ
Vu khống, đỗ thừa trẻ
Đe dọa hoặc phạt trẻ bằng hình thức bỏ rơi, đánh đập tàn bạo hay
thậm chí là giết chết
Thiết lập mọi thứ để trẻ thất bại
Thao túng trẻ
Lợi dụng điểm yếu của trẻ, hay sự phụ thuộc của trẻ
Ngoài ra, một thủ thuật thường được sử dụng để bạo hành trẻ em là
Gaslight. Thủ thuật này khiến cho trẻ mất đi niềm tin vào chính mình,
nghi ngờ chính cảm xúc và suy nghĩ của mình, tin rằng chính mình là
người mất trí.
3.4. Bỏ bê
Bỏ bê xảy ra khi phụ huynh hay người chăm nom không cung cấp
cho trẻ sự quan tâm, giám sát, ủng hộ và tình cảm mà trẻ cần. Bỏ bê có
thể được chia thành 4 nhóm: Bỏ bê về mặt vật chất, Bỏ bê về mặt tinh
thần, Bỏ bê về mặt sức khỏe, Bỏ bê về mặt giáo dục.
Bỏ bê về mặt vật chất:
Một số hành vi bỏ bê trẻ vê mặt vật chất bao gồm:
Bỏ rơi trẻ hay từ chối trách nhiệm với đứa trẻ dưới sự giám hộ của
mình.
Không cho trẻ ăn uống, hay chỉ cho trẻ ăn những thức ăn thiếu
dinh dưỡng, dơ bẩn
Không cho trẻ ăn bận đầy đủ.
Không làm vệ sinh cho trẻ (đặc biệt là với trẻ nhỏ chưa có khả
năng tự làm vệ sinh cho mình).
Bắt trẻ phải sống trong môi trường dơ bẩn, không an toàn.
Bỏ trẻ cho người không phù hợp trông nom
Bỏ bê về mặt tinh thần:
Một số hành vi bỏ bê về mặt tinh thần bao gồm:
Mặc kệ nhu cầu cần được chú ý, chăm sóc, động viên, yêu thương
của trẻ.
Mặc kệ cho trẻ sử dụng chất có cồn, chất kích thích hay phạm tội.
Cô lập trẻ khỏi bạn bè và người thân.
Bỏ bê về mặt sức khỏe:
Một số hành vi bỏ bê về mặt sức khỏe bao gồm:
Không đem trẻ đến bệnh viện hay gặp bác sĩ trong tình trạng nguy
cấp
Ngăn cản không cho trẻ được chăm sóc sức khỏe.
Không thực hiện những biện pháp phòng chóng bệnh cho trẻ.
Không thực hiện những hướng dẫn chăm sóc của bác sĩ đối với trẻ.
Bỏ bê về mặt giáo dục:
Một số hành vi bỏ bê trẻ về mặt giáo dục:
Mặc kệ việc trẻ trốn học, bỏ học.
Không tạo điều kiện cho trẻ đến trường.
Không cho trẻ đến những lớp học chính quy, bắt buộc.
3.5. Lạm dụng trẻ em
Lạm dụng trẻ em là hành vi sử dụng trẻ nhỏ để thu được sức lao
động, lợi nhuận, thỏa mãn ham muốn tình dục, hay những lợi ích cá
nhân khác. Lạm dụng trẻ em thường dẫn đến việc đối xử tàn bạo với trẻ
nhỏ, để lại hậu quả rất sâu cho đứa trẻ và xã hội.
Một số hành vi lạm dụng trẻ em bao gồm:
Bắt trẻ em làm ăn xin để thu được lợi nhuận từ đó.
Bóc lột sức lao động của trẻ em (bắt trẻ em làm việc nặng nhọc,
nguy hiểm, khổ sai và chỉ trả rất ít hoặc không trả lương).
Sử dụng trẻ để làm phim ảnh khiêu dâm.
Buôn bán trẻ em.
Và nhiều hành vi tương tự khác.
4. Thực trạng BLGĐ tại đối với trẻ em tại Sơn Tây – Hà Nội
4.1. Địa bàn nghiên cứu.
Sơn Tây là một thị xã trực thuộc thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Do địa
bàn sinh tụ nên địa danh này luôn là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính
trị, xã hội của khu vực phía tây bắc thủ đô Hà Nội.
Địa giới hành chính thị xã Sơn Tây:
Phía đông giáp huyện Phúc Thọ
Tây giáp huyện Ba Vì
Phía nam giáp huyện Thạch Thất
Phía bắc giáp huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Thị xã Sơn Tây có diện tích là 11.346,85 ha và dân số là 320.000 người.
Sơn Tây gồm 9 phường: Lê Lợi, Ngô Quyền, Phú Thịnh, Quang
Trung, Sơn Lộc, Trung Hưng, Trung Sơn Trầm, Viên Sơn, Xuân Khanh
và 6 xã: Cổ Đông, Đường Lâm, Kim Sơn, Sơn Đông, Thanh Mỹ, Xuân
Sơn.
4.2. Thực trạng BLGĐ đối với trẻ em tại Sơn Tây
Ông Hoàng Văn Tiến - Phó cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em
(Bộ LĐTB&XH) đã có cuộc trao đổi với PV Báo điện tử Giáo dục Việt
Nam về vụ án giết người, hiếp dâm trẻ em xảy ra tại thị xã Sơn Tây (Hà
Nội) vào ngày 29/7 vừa qua.
Ông Tiến cho hay, ngay khi thông tin về sự việc được báo chí đăng
tải, Cục đã có chỉ đạo tới Sở LĐTB&XH thành phố Hà Nội nắm tình
hình, xem xét thực tế hoàn cảnh gia đình để có sự hỗ trợ gia đình nạn
nhân và có báo cáo một cách cụ thể.
Đồng thời Cục cũng phối hợp cùng phía công an để có đánh giá, xem
xét để Cục báo cáo lên Bộ LĐTB&XH. Hiện Cục cũng đã có kế hoạch
về việc thăm hỏi gia đình nạn nhân, động viên gia đình chăm sóc sức
khỏe cho cháu H.
Từ vụ việc vừa xảy ra tại thị xã Sơn Tây, ông Tiến cho biết về thực
trạng xâm hại trẻ em nói chung và xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam
đang ở mức báo động, có diễn biến phức tạp và tính chất, mức độ ngày
càng nghiêm trọng hơn.
Đáng nói là tính chấy của các vụ xâm hại trẻ em đặc biệt nghiêm
trọng báo động về sự suy đồi đạo đức, đi ngược nếp sống thuần phong
mỹ tục như: hiếp dâm tập thể, hiếp dâm trẻ dưới tuổi, hiếp rồi giết, ông
hiếp cháu,… Sự loạn luân trong các vụ hiếp dâm trẻ đang diễn ra ngày
càng phổ biến trên cả nước.
Thời gian vừa qua, liên tiếp xảy ra các vụ xâm hại trẻ em đặc biệt
nghiêm trọng, xâm hại tình dục trẻ em cũng ngày một gia tăng. Đối
tượng phạm pháp cũng ở nhiều lứa tuổi khác nhau, từ những đối tượng
chưa tới tuổi vị thành niên cho đến những đối tượng ngoài 70 tuổi.
Đặc biệt hơn là việc các đối tượng bị xâm hại có độ tuổi ngày càng
giảm xảy ra nhiều hơn. Hà Nội, chỉ riêng ngày 29/7 đã xảy ra 2 vụ hiếp
dâm trẻ em, một là vụ hiếp dâm trẻ em, giết cháu gái 4 tuổi tại Sơn Tây
và vụ việc một thanh niên hiếp dâm cháu bé chưa đầy 13 tuổi tại Hoài
Đức.
4.3. Các hoạt động cung cấp cho trẻ em bị BLGĐ
Chiều 21/9, tại Trường tiểu học Lê Lợi – Sơn Tây, Ban Thường vụ
Thị đoàn phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội thị xã
tổ chức diễn đàn chủ đề "Trẻ em với vấn đề phòng, chống bạo lực, xâm
hại trẻ em".
Tham gia diễn đàn, 140 em học sinh Trường tiểu học Lê Lợi trao
đổi, thảo luận về những vấn đề liên quan đến phòng, chống bạo lực, xâm
hại trẻ em; đồng thời đưa ra nhiều câu hỏi xoay quanh những vấn đề xã
hội đang quan tâm như: Nguyên nhân dẫn đến trẻ em bị xâm hại tình
dục; biểu hiện của xâm hại; bạo lực trẻ em tại gia đình và học đường;
các biện pháp phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em… Lãnh đạo các
phòng, ban, ngành chức năng đã giải đáp vấn đề về thực trạng, băn
khoăn, thắc mắc trong cách bảo vệ, chăm sóc trẻ em và đưa ra giải pháp
thiết thực nhằm đáp ứng nguyện vọng của các em về phòng chống bạo
lực, xâm hại. Qua đó góp phần để các cấp chính quyền, cơ quan, ban
ngành chức năng thấu hiểu, nâng cao vai trò, trách nhiệm trong công tác
phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em nhằm xây dựng môi trường sống
an toàn, lành mạnh và giúp trẻ em phát triển toàn diện.
Ngày 9/10, UBND thị xã Sơn Tây phối hợp với Trung tâm nghiên
cứu và ứng dụng khoa học về giới - gia đình - phụ nữ và vị thành niên tổ
chức hội thảo giới thiệu dự án 'Bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái khỏi các
hình thức bạo lực tình dục'.
Thông qua các hoạt động của dự án, vấn đề xâm hại trẻ em thu hút
số lượng lớn sự chú ý của công chúng; thúc đẩy những trường hợp xâm
hại tình dục trẻ em điển hình tiếp cận công lý; chợ Bãi Đá trở thành nơi
giao lưu, chia sẻ thông tin về bạo lực gia đình của người dân; chị em tiểu
thương tại chợ Bãi Đá biết cách hỗ trợ lẫn nhau...
Thời gian tới, dự án “Bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái khỏi các hình
thức bạo lực tình dục” trên địa bàn thị xã sẽ tập trung vào xây dựng mô
hình chợ vui tại xã Sơn Đông, Cổ Đông trong đó xây dựng mỗi xã một
câu lạc bộ dành cho nạn nhân bạo lực giới, xây dựng các địa chỉ an toàn
tại 2 xã, thiết kế sách cho người bị bạo lực, có các buổi nói chuyện dành
cho nam giới tại 2 xã; tổ chức hội thảo, tập huấn nâng cao năng lực cho
cán bộ thị xã và xã; hỗ trợ nạn nhân...
Cũng tại hội thảo, lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa
học về giới - gia đình - phụ nữ và vị thành niên, Phòng Văn hóa, xã Sơn
Đông, đại diện Hội Phụ nữ xã Cổ Đông và chị em tiểu thương chợ Bãi
Đá đã chia sẻ, trao đổi, đưa ra các giải pháp nhằm huy động sự tham gia
của chính quyền địa phương trong việc phối hợp thực hiện dự án đảm
bảo mục tiêu, mục đích và tính bền vững của dự án
5. Nguyên nhân trẻ em bị BLGĐ
Các nghiên cứu về tâm lý trẻ em cũng cho rằng: những đứa trẻ
không được chăm sóc và dạy dỗ chu đáo sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do
ngang bướng, thích sử dung bạo lực, thậm chí bất cần, dễ dàng phạm tội
khi bị rủ rê, lôi kéo.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trẻ em trong gia
đình, trước hết phải kể đến nhận thức của các gia đình, cộng đồng về vấn
đề bảo vệ trẻ em chưa đầy đủ và phần nào đó còn bị xem nhẹ, nhiều thói
quen, phong tục, tập quán như văn hoá ″Thương cho roi cho vọt, ghét
cho ngọt cho bùi” bấy lâu nay khiến cho người ta coi chuyện đánh con
là “bình thường” đó là quyền của cha mẹ phải dạy cho con nên người.
Do thiếu hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật về quyền trẻ em
nói riêng, chưa được các cấp, các ngành quan tâm, đấu tranh loại bỏ,
tuyên truyền nâng cao hiểu biết cho các bậc cha mẹ về quyền trẻ em.
Từ việc gia đình không có được một chức năng bình thường, cho
đến sự thiếu thông đạt, sự khiêu khích của người phối ngẫu, hay sự dồn
nén tâm lý của một người, hoặc vì các chất kích thích như rượu, thuốc,
hoặc vì thiếu một cuộc sống tâm linh, cho đến những sự khó khăn về
kinh tế, vv đều dẫn đến bạo hành trẻ em. Kết quả của những sự nghiên
cứu về bạo hành đã chứng minh rằng những người có hành vi bạo lực
thường muốn chế ngự người khác. Một người có hành vi bạo lực chẳng
những có thể dùng vị trí thượng phong về thể lý, mà còn có thể dùng
những khả năng trỗi vượt về tinh thần, tâm lý, về kiến thức, uy quyền, sự
thông đạt, và ngay cả về phương diện mầu da, hay tiếng nói ...
Việc ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột đối với trẻ em chưa được
cộng đồng chủ động phát hiện sớm và báo cho các cơ quan chức năng
xử lý, can thiệp kịp thời vì họ không muốn có sự “rắc rối” liên quan
đến họ. Nhận thức về sự nguy hại nhiều mặt và hậu quả lâu dài, nghiêm
trọng của các hành vi xâm hại tình dục, bạo lực đối với trẻ em chưa
được cảnh báo đúng mức, đa phần những trẻ em bị ngược đãi, xâm hại
và bị bóc lột có tâm lý mặc cảm, tự ti hoặc tâm lý thù hận đối với xã hội
và sau này khi trưởng thành nhiều em trong số đó cũng ứng xử tương tự
đối với người khác.
Trong khi đó, vai trò bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia
đình, cộng đồng chưa được coi trọng, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ và của chính bản
thân trẻ chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng
đồng còn hạn chế, trẻ em dễ trở thành nạn nhân của các hành vi bạo lực,
xâm hại tình dục và dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Tình trạng
nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn, ly thân;
cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…cũng là nguyên nhân
dẫn đến việc trẻ bị bạo lực.
Nhận thức về bảo vệ trẻ em còn hạn chế thể hiện ở khía cạnh thiếu
hiểu biết về luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến
tình trạng người thân trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em
(khoảng 50% tổng số vụ vi phạm) và các thành viên khác trong xã hội
phạm tội nghiêm trọng đối với trẻ em đến mức phải xử lý hình sự.
Bên cạnh đó, pháp luật về bảo vệ trẻ em còn nhiều khoảng trống,
chưa có quy định cụ thể về bảo vệ trẻ em là nạn nhân, nhân chứng; chưa
có quy định đặc biệt trong trường hợp nhận tố giác từ trẻ em. Môi
trường xã hội còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến bạo lực trẻ em như:
Cha mẹ bị cuốn vào tệ nạn xã hội, nghiện hút, cờ bạc, rượu chè; cha mẹ
mâu thuẫn hoặc ly hôn, lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm với con cái.
6. Hậu quả của việc BLGĐ đối với trẻ em
Bạo hành trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thể chất của
trẻ hoặc nguy hại hơn, khiến trẻ có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Bạo
hành cũng làm trẻ không thể phát triển về thể chất một cách bình
thường. Trẻ có thể trở nên còi cọc, chậm lớn, đau bụng, rối loạn tiêu hóa,
nước da tái, môi nhợt nhạt, ánh mắt đờ đẫn bạc nhược hoặc hung dữ…
Khi những bệnh nhân được điều trị có hiệu quả, nước da của họ đều trở
nên đẹp hơn, ánh mắt trong sáng hơn…
Bạo hành cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của
trẻ. Sức khỏe tâm thần tốt là sự thoải mái, không lo lắng, là cảm giác
được hưởng thụ cuộc sống. Sức khỏe tâm thần tốt cũng biểu hiện qua
những hành vi, ứng xử hợp lý. Bệnh về sức khỏe tâm thần không phải
chỉ là biểu hiện điên loạn, có những hành vi hoang tưởng, ảo giác…
Khi bị bạo hành, có hai phản ứng ở trẻ thường xảy ra. Nếu biểu hiện
ra bên ngoài, trẻ có thể thay đổi tính nết. Đang hiền lành, trẻ bỗng trở
nên hung bạo, hay cáu gắt, khóc lóc, thậm chí đánh đập người khác hoặc
độc ác với thú vật. Loại thứ hai là cách phản ứng thu mình lại. Trẻ trở
nên lo lắng, buồn phiền, xa lánh mọi người, không thích tiếp xúc và luôn
mang cảm giác sợ sệt.
Tuy nhiên, điều đặc biệt lưu ý là việc bạo hành trẻ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Tất cả
những hành động như đánh đập, vùi dập, khủng bố, làm nhục đều khiến
đứa trẻ thiếu tự tin, rụt rẻ, luôn trong trạng thái thảng thốt. Bị bạo hành,
trẻ dần dần hình thành một nhân cách nhút nhát, tự ti, thiếu sự khẳng
định mình khi mà trong cuộc sống có biết bao điều cần khẳng định bản
thân mỗi người. Thử thách trong cuộc sống là rất nhiều. Riêng học tập
cũng đã là một chuỗi thử thách nặng nề. Nếu suốt ngày bị đánh đập, chửi
bới, nhiếc móc, chắc chắn trẻ sẽ bị ảnh hưởng rất lớn tinh thần. Một đứa
trẻ không được yêu thương, làm sao biết yêu thương? Một đứa trẻ chịu
sự giáo dục bằng roi vọt dễ có hành vi độc ác khi trưởng thành. Biểu
hiện lúc nhỏ của trẻ có thể đơn giản là hung bạo, hay cáu gắt, khó tính,
nhưng khi lớn lên, trẻ có thể trở thành một con người cục cằn, lỗ mãng
và độc ác. Sống trong môi trường không lành mạnh, bị bạo hành hoặc
chứng kiến sự bạo hành, trẻ sẽ có quan niệm sống lệch lạc, không biết
tôn trọng người khác và cũng không biết tôn trọng chính bản thân mình.
Bạo hành cũng ảnh hưởng đến sự thành công trong tương lai của trẻ.
Trước hết, những cách giáo dục phản giáo dục, giáo dục sai phương
pháp là một tác nhân quan trọng khiến trẻ không thích đến trường,
không thích đi học. Khi không thích học, trẻ không thể tiếp thu kiến
thức. Điều này rất tai hại. Học kém, bị điểm thấp, bị trách phạt từ gia
đình đến nhà trường, trẻ trở nên kém tự tin, dần dẫn đến u lì, mụ mị đầu
óc, dễ bị những cám dỗ bên ngoài ảnh hưởng đến như: Kết bè đảng với
những đứa trẻ giống mình, bỏ nhà đi lang thang, hút thuốc lá, thậm chí
nghiện ma túy. Một điều mà các bậc phụ huynh nên lưu ý: Hút thuốc khi
còn ở tuổi vị thành niên cũng là một biểu hiện rối loạn hành vi. Càng bị
trách phạt, trẻ càng có nguy cơ rối loạn hành vi nhiều hơn. Chỉ một cái
tát của cô giáo đôi khi cũng là một vết thương khó phai mờ trong tâm trí
của trẻ, khiến trẻ trở nên tự ti. Cá biệt có trường hợp còn làm thay đổi cả
tính cách của một con người.
Một tác hại cũng không thể không nhắc tới, đó là việc bạo hành, làm
nhục có thể khiến trẻ trở nên mất lòng tự trọng. Khi liên tục bị đánh đập,
hành hạ hoặc bị làm nhục dưới mọi hình thức, trẻ trở nên mất lòng tự
trọng, lì lợm, ngang bướng, và không còn coi chuyện vi phạm lỗi là quan
trọng. Trẻ sẵn sàng không tôn trọng người khác nơi công cộng, có những
hành vi mà người có lòng tự trọng không bao giờ làm. Trẻ cũng trở nên
vô cảm, không biết lên án những hành vi phi đạo đức của người khác.
7. Các biện pháp phòng tránh BLGĐ đối với trẻ em
Nâng cao nhận thức của xã hội, tăng cường trách nhiệm và năng lực
của gia đình, nhà trường, cộng đồng trong việc chủ động phòng ngừa có
hiệu quả các hành vi bạo lực, xâm hại đối với trẻ em. Thực hiện các hoạt
động truyền thông, giáo dục, phổ biến kiến thức, pháp luật, kỹ năng bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho cha mẹ, người chăm sóc trẻ, giáo
viên, cộng đồng và bản thân trẻ em.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật vệ bảo vệ trẻ em; sửa đổi, bổ
sung Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, trong đó xác định
rõ quyền hạn, trách nhiệm và vai trò của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, nhà trường, gia đình và các cá nhân trong việc bảo vệ chăm
sóc trẻ em, đáp ứng các nhu cầu chăm sóc và bảo vệ an toàn cho mọi trẻ
em; bổ sung một chương riêng về bảo vệ trẻ em nhằm tăng khả năng
phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ xâm hại, bạo lực trẻ em; bổ sung
những quy định, chế tài cụ thể về các hành vi xâm hại, bạo lực đối với
trẻ em; quy định rõ các thủ tục và quy trình phòng ngừa, trợ giúp và giải
quyết các trường hợp trẻ em bị xâm hại, bạo lực, trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình và các cá nhân
phòng ngừa các hành vi xâm hại, bạo lực đối với trẻ em.
Nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Internet, trong đó có những
quy định cụ thể về việc quản lý các trang web, các trò chơi game online
trực tuyến nhằm tiếp thu những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông
tin, phát huy khả năng tư duy, sáng tạo của giới trẻ, đồng thời hạn chế tối
đa những tiêu cực mà loại hình giải trí này gây ra.
Cần phải thực hiện tốt công tác tư vấn, tham vấn học đường và phát
huy vai trò của công tác Đoàn, Đội. Môi trường gia đình có tác động tích
cực đến việc hình thành nhân cách, do đó cha mẹ phải là tấm gương tốt
để con cái noi theo. Chính quyền địa phương phải quan tâm, chăm lo
cho trẻ em. Cộng đồng không vô cảm trước những nguy cơ trẻ em bị
xâm hại, bạo lực.
Tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về
bảo vệ, chăm sóc trẻ em từ trung ương đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối
hợp liên ngành trong đó xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các tổ
chức trong việc thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phát triển
đội ngũ cán bộ xã hội, cộng tác viên, tình nguyện viên đến tận thôn,
xã…
Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội.
Nhà trường trong việc quản lý giáo dục trẻ em, cần phải thực hiện tốt
công tác tư vấn, tham vấn học đường và phát huy vai trò của công tác
Đoàn, Đội. Môi trường gia đình có tác động tích cực đến việc hình thành
nhân cách, do đó cha mẹ phải là tấm gương tốt để con cái noi theo.
Chính quyền địa phương phải quan tâm, chăm lo cho trẻ em. Cộng đồng
không vô cảm trước những nguy cơ trẻ em bị xâm hại, bạo lực.
- Xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện cho mọi trẻ em nhằm
phòng ngừa có hiệu quả các hành vi xâm hại bạo lực đối với trẻ em;
ngăn ngừa trẻ em vi phạm pháp luật, trên cơ sở thực hiện có hiệu quả
việc xây dựng xã phường phù hợp với trẻ em theo Quyết định số
37/2010/QĐ-TTg ngày 22/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quy định tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em. Đẩy mạnh thực
hiện Cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
+ Tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo
vệ, chăm sóc trẻ em từ trung ương đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp
liên ngành trong đó xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các tổ chức
trong việc thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phát triển đội ngũ
cán bộ xã hội, cộng tác viên, tình nguyện viên đến tận thôn, bản, khu,
ấp…
+ Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ bảo vệ
trẻ em, bao gồm: Dịch vụ bảo vệ trẻ em trong gia đình (dịch vụ tư vấn,
tham vấn gia đình và trẻ em; các trung tâm, điểm công tác xã hội trẻ em
…); Dịch vụ bảo vệ trẻ em ngoài môi trường gia đình (cơ sở bảo trợ xã
hội, cơ sở trợ giúp trẻ em, trường giáo dưỡng..); Dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp
dành cho trẻ em bị xâm hại, bạo lực.
III.Kết luận