Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

vận dụng nguyên tắc nhân đạo trong thực tiễn xét xử nước ta trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.73 KB, 40 trang )

Mở đầu
Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, nhà nước và pháp luật ra đời cũng như những
giá trị công bằng bình đẳng, dân chủ… nhân đạo luôn là niềm khát vọng mục tiêu tranh
đấu của con người. Gần đây nhân đạo trở thành vấn đề được đề cập nhiều, nó đang phát
triển và thật sự trở thành vấn đề có tính toàn cầu. Nhân đạo trở thành tiêu chí đánh giá
các vấn đề “phát triển bền vững” và “tiến bộ xã hội”. Nhân đạo luôn được thể hiện
trong đời sống xã hội trong pháp luật cũng như trong toàn bộ đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta.
Trong lĩnh vực Luật Hình sự nhân đạo đã, đang và sẽ là một trong những nguyên tắc cơ
bản của ngành luật này. Một số nhà khoa học pháp lý hình sự tiếp cận nghiên cứu nội
dung của nguyên tắc này từ góc độ xác định tính chất của hình phạt và các biện pháp tác
động của khác của Luật hình sự cũng như góc độ áp dụng chúng trong thực tiễn để
khẳng định nội dung của nguyên tắc nhân đạo chỉ theo một bình diện: nhân đạo đối với
người phạm tội. Một số nhà khoa học pháp lý hình sự khác tiếp cận nội dung của
nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự theo hai bình diện: nhân đạo đối với xã hội, đối
với nhà nước, đối với cá nhân và nhân đạo đối với người phạm tội
Thực tiễn xây dựng pháp luật hình sự nước ta trong vòng 15 năm, từ năm 1985 đến năm
1999 cho thấy dù đã có tới bốn lần sửa đổi, bổ sung và chỉnh lí song một số quy định
của Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta vẫn được coi là sự phản ứng tức thời của Luật
hình sự trước thực trạng và diễn biến phức tạp của tội phạm, chứ chưa được xây dựng
thành hệ thống nền tảng thống nhất trong nhận thức về các nguyên tắc của luật Hình sự,
trong đó có nguyên tắc nhân đạo. Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta mặc dù đã khắc
phục được rất nhiều khiếm khuyết về mặt nội dung lẫn hình thức, song vẫn còn hạn chế
Thực tiễn áp dụng luật hình sự, vì vậy cũng bị chi phối bởi những điểm hạn chế đó.
Tình trạng xử quá nặng hoặc quá nhẹ trách nhiệm hình sự không đúng quy định, áp
dụng án treo tùy tiện…là hậu quả của nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác
nhau trong đó có cả sự nhận thức không thống nhất về nguyên tắc nhân đạo trong luật
hình sự. Có thể thấy nguyên tắc nhân đạo trong luật Hình sự vẫn là vấn đề cần được bàn
luận trên nhiều phương diện: nhận thức cho đến cách thể hiện trong luật cũng như trong
các biện pháp áp dụng. Điều đó xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có sự nhận
thức thống nhất và có cơ sở khoa học về khái niệm, nội hàm cũng như yêu cầu của


nguyên tắc nhân đạo làm cơ sở vận dụng nguyên tắc này trong lập pháp cũng như trong
áp dụng pháp luật Hình sự
Nội dung của vấn đề nghiên cứu:
Thứ nhất: làm sáng tỏ bản chất, nội dung, giới hạn của nguyên tắc nhân đạo trong luật
hình sự
Thứ hai: chỉ ra những khuyết điểm bất cập trong các quy định của bộ luật Hình sự năm
1999 mà chủ yếu trong bốn nhóm quy định về đường lối xử lí hình sự, về trách nhiệm
hình sự, về hình phạt và quyết định về hình phạt - những nhóm quy định thể hiện rõ nét
Nhóm 10 K55LKD

1


nhất bản chất và nội dung của nguyên tắc nhân đạo trong luật Hình sự cần được khắc
phục và chỉnh sửa.
Thứ ba: đánh giá được tình hình vận dụng nguyên tắc nhân đạo trong thực tiễn xét xử
nước ta trong những năm gần đây

Chương I
Những vấn đề chung về nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự việt nam
I.

Nhân đạo và pháp luật

1. Khái niệm nhân đạo
Trong quá trình phát triển của nhân loại, nhân đạo luôn là niềm khát vọng cháy bỏng
của con người. Nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói
chung và của mỗi con người nói riêng. Càng ngày nhân đạo càng được khẳng định đầy
đủ hơn trong các mối quan hệ xã hội ở mọi lĩnh vực. Trong lĩnh vực pháp luật, nhân đạo
được thể hiện đầy đủ nhất, mạnh mẽ nhất, trở thành nền tảng tư tưởng, nguyên tắc của

nó.
Vấn đề nhân đạo là vấn đề con người và được hiểu là “ cái đức yêu thương con người,
trên cở sở tôn trọng phẩm giá, quyền và lợi ích con người”, “ là đạo đức thể hiện tình
thương yêu với ý thức tôn trọng giá trị phẩm chất của con người”.
Nhân đạo là một phạm trù lịch sử cụ thể. Là một giá trị xã hội được sản sinh trong quá
trình đấu tranh chống cái ác của loài người, đặc biệt trong thời kỳ đấu tranh vì tự do,
bình đẳng, nhân đạo chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia giai cấp, Nhà nước và pháp luật
ra đời. Tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội, có một kiểu quan niệm thống trị về
nhân đạo trong xã hội. Nội dung, bản chất và quan niệm thống trị đó do các điều kiện
kinh tế, văn hóa xã hội của các xã hội tương ứng quyết định.
Nhân đạo không chỉ là một phạm trù lịch sử cụ thể mà còn là một phạm trù mang tính
giai cấp. Trong các xã hội khác nhau và thậm chí ngay cả trong một xã hội nhất định đã
không có và không thể có sự nhận thức và quan niệm thống nhất về nhân đạo. Tư
tưởng, tình cảm, thái độ đối xử của con người trong xã hội bao giờ cũng xuất phát từ lợi
ích giai cấp, tầng lớp mà họ làm thành viên.
Nhân đạo còn mang cả tính nhân loại thể hiện ở các quan niệm truyền thống của xã hội
loại người được rút ra từ những quy tắc tối thiểu của đời sống xã hội, những quy tắc từ
bao thế kỉ vẫn được nhắc đi nhắc lại
2. Mối kiên hệ giữa nhân đạo và pháp luật
Cũng là vấn đề con người, nhân đạo và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau được
thể hiện qua những lập luận dưới đây:
Nhóm 10 K55LKD

2


Thứ nhất, đều là những hiện tượng thuộc phạm trù ý thức xã hội bị quy định bởi tồn tại
xã hội mà trong đó quan hệ sản xuất là nhân tố chi phối cơ bản. Điều đó lý giải vì sao
pháp luật ngày nay càng ngày càng có tính nhân đạo sâu sắc. Vấn đề là ở chỗ, pháp luật
trước đây được xây dựng trên nền tảng của cơ sở kinh tế hạ tầng thấp kém, do vậy tính

nhân đạo được thể hiện trong pháp luật cũng thấp hơn ngày nay.
Thứ hai, tồn tại trong một xã hội nhất định với tính cách là những nhân tố quan trọng
điều chỉnh các quan hệ xã hội, cả nhân đạo và pháp luật đều gắn liền với lợi ích mà
trước hết là lợi ích của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị trong xã hội đó.
Thứ ba, bởi là những phương tiện quan trọng điều chỉnh hành vi của con người trong xã
hội có giai cấp, cả nhân đạo lẫn pháp luật tồn tại, hoạt động trong sự tác động, bổ sung
cho nhau nhằm duy trì và củng cố trật tự xã hội.
Thứ tư, pháp luật là phương tiện ghi nhận và thực hiện nhân đạo có hiệu quả nhất. Pháp
luật ra đời còn là nhằm chuyển tải, chuẩn mực hóa quan niệm nhân đạo chung của xã
hội. Qua pháp luật, các quan niệm, quan điểm tư tưởng nhân đạo đi vào đời sống xã hội
một cách đầy đủ và mạnh mẽ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhiều giá trị nhân đạo đã mang tính toàn cầu hóa
bắt buộc chung. Điều này được thể hiện trong các điều ước quốc tế về nhân quyền. Tuy
nhiên hiện nay vẫn còn có những giá trị nhân đạo ở các quốc gia còn khác nhau. Điều
này chúng ta có thể giải thích được khi mà cơ sở kinh tế hạ tầng mà yếu tố cốt lõi quyết
định là lực lượng sản xuất của các quốc gia là rất khác nhau.
II. Nhân đạo – nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam
Với tính cách là một nguyên tắc của pháp luật Việt Nam, nhân đạo đòi hỏi pháp luật
phải thể hiện và bảo vệ được những giá trị nhân đạo của xã hội. Cụ thể là:
Thứ nhất, ghi nhận và đảm bảo thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ, văn minh,…”
Thứ hai, ghi nhận và đảm bảo thực hiện trên thực tế tư tưởng coi nhân dân là chủ thể tối
cao của quyền lực nhà nước, xác định rõ các hình thức nhằm bảo đảm cho nhân dân
được tham gia rộng rãi vào quản lý các công việc của Nhà nước.
Thứ ba, quy định ngày càng nhiều các quyền và lợi ích, đặc biệt là các quyền và tự do
dân chủ của công dân và đảm bảo cho các quyền và lợi ích đó được thực hiện đầy đủ
trên thực tế, đồng thời phải xử lý một cách công minh mọi hành vi xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân
Thứ tư, xác lập phạm vi tối thiểu cần thiết của công quyền trong mối quan hệ giữa Nhà

nước và công dân, đồng thời phải quy định những bảo đảm thực tế để công dân phòng
ngừa được các hành vi lạm dụng quyền lực Nhà nước vi phạm các quyền và lợi ích của
họ.
Thứ năm, quy định phạm vi pháp lý giống nhau của hành vi và trách nhiệm pháp lý
tương ứng với hành vi vi phạm pháp luật, quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau
Nhóm 10 K55LKD
3


đối với mọi thành viên của xã hội, quy định các quy phạm loại bỏ đặc quyền đặc lợi đối
với những cá nhân nhất định.
Thứ sáu, quy định các biện pháp trách nhiệm pháp lý không nhằm gây đau đớn về thể
xác, không nhằm hạ thấp hoặc xúc phạm danh dự nhân phẩm của người vi phạm pháp
luật, kể cả người đó là người phạm tội, mà nhằm đảm bảo công lý, công bằng xã hội,
cải tạo giáo dục người vi phạm pháp luật sửa chữa lỗi lầm để trở thành người lương
thiện, có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ tái vi phạm pháp luật đồng thời giáo dục người
khác ý thức tôn trọng pháp luật và không vi phạm pháp luật
Thứ bảy, quy định ngày càng đầy đủ, có tính khả thi các trình tự thủ tục tố tụng các vụ
án dân sự, kinh tế, lao động, hình sự,… để các vụ án đó được giải quyết một cách nhanh
chóng, công khai có cơ sở pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Là bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật hình sự không thể không
hàm chứa nội dung và các yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật. Nguyên tắc
nhân đạo trong Luật Hình sự là tư tưởng chủ đạo được ghi nhận trong Luật Hình sự chỉ
đạo hoạt động xây dựng và áp dụng Luật Hình sự mà nội dung cơ bản của nó là sự
khoan hồng của Luật Hình sự đối với người phạm tội. Mức độ, phạm vi của sự khoan
hồng của Luật Hình sự đối với người phạm tội được quyết định bởi điều kiện xã hội và
bị ràng buộc bởi các nguyên tắc của Luật Hình sự, mà trước hết là công lý, công bằng
xã hội
Chương II
Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

I.
Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về đường lối xử lý
hình sự
Trong lĩnh vực luật hình sự nguyên tắc nhân đạo xuyên suốt quan hệ giữa hai chủ
thể: Nhà nước và người phạm tội.
Hình thức chủ yếu và phổ biến nhất của trách nhiệm hình sự là hình phạt, là
những hậu quả pháp lí nghiêm khắc nhất mà người phạm tội phải gánh chịu do đã thực
hiện tội phạm và bị Toà án quyết định áp dụng. Việc áp dụng trách nhiệm hình sự tác
động trực tiếp và mạnh mẽ đến quyền và lợi ích của người phạm tội. Do vậy trên bình
diện lập pháp để đưa nguyên tắc nhân đạo vào Luật Hình sự, nhà làm luật cần:
1. Đưa ra những hành vi mà Bộ luật Hình sự đã quy định là tội phạm ra khỏi phạm vi
của Luật Hình sự nếu chúng không còn nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
2. Chỉ đưa vào phạm vi điều chỉnh của Luật Hình sự những hành vi thật sự nguy hiểm
đáng kể cho xã hội và các biện pháp tác động của các ngành luật khác không có hiệu
quả.
3. Hạn chế đến mức thấp nhất các loại hình phạt có tính nghiêm khắc cao.
Nhóm 10 K55LKD

4


4. Đối với những tội phạm nào mà việc quy định hình phạt tù hoặc quy định các hình
phạt khác nhẹ hơn cũng đem lại hiệu quả thì không quy định phạt tù. Hơn thế để không
phải áp dụng trách nhiệm hình sự Nhà nước phải bằng mọi cách để ngăn ngừa tội phạm.
Phương châm chiến lược hàng đầu mà Bộ luật Hình sự 1999 hướng đến là phòng ngừa
tội phạm. Điều 1 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định “…giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm…”. Quan điểm có tính
nguyên tắc về ưu tiên phòng ngừa tội phạm tiếp tục được các nhà làm luật ghi nhận tại
Điều 4 Bộ luật Hình sự năm 1999 “Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp,
Thanh tra và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng,

nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ
chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người
phạm tội tại cộng đồng. Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc
quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp
luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình. Mọi công
dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.
Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng nhân đạo của Hồ Chí Minh: “ Xét xử
đúng là tốt nhưng không phải xét xử thì càng tốt hơn ”. Học thuyết Mác về lập pháp
hình sự cũng đã nhấn mạnh “ Nhà lập pháp khôn ngoan ngăn ngừa sự phạm tội để khỏi
phải trừng trị nó ”.
So với các quy định tương ứng của Bộ luật Hình sự 1985 các quy định của Bộ
luật Hình sự 1999 đã phản ánh tính nhân đạo của Luật Hình sự ở mức độ cao hơn. Tính
nhân đạo mới cao hơn thể hiện ở các quy định tại Điều 1 và Điều 4 Bộ luật Hình sự
1999. Một mặt chúng khẳng định việc đấu tranh tội phạm là một nhiệm vụ quan trọng
và lâu dài của xã hội, của Nhà nước và mọi công dân, mặt khác sự cần thiết phải kết
hợp hài hoà trong một tổng thể các giải pháp phòng ngừa tội phạm và các biện pháp
chống tội phạm bởi có như vậy mới có thể hạn chế, ngăn ngừa, giảm bớt tội phạm, dần
loại trừ nó ra khỏi xã hội. Một khi tội phạm không xảy ra cũng đồng nghĩa với việc
không có ai bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó chính là giá trị nhân đạo của phòng
ngừa tội phạm. Bởi vậy mới có quan điểm cho rằng: “Mức độ cao nhất của tính nhân
đạo trong Luật Hình sự thể hiện ở phòng ngừa tội phạm”.
Chúng ta chỉ sử dụng pháp luật hình sự như giải pháp sau cùng khi tất cả những
giải pháp khác không có hiệu quả hoặc cần đến sự hỗ trợ của một cưỡng chế mạnh hơn.
Phải xác định được và đánh giá đầy đủ các giải pháp trước khi có áp dụng giải pháp
pháp lí hình sự. Vai trò của pháp luật hình sự được phát huy đầy đủ khi những quy định
của nó có đủ nội dung răn đe và trừng trị. Sự răn đe và trừng trị chỉ có thể có được khi
quy định này xuất phát từ hai yếu tố quan trọng: điều kiện kinh tế xã hội hiện thực;
nhận thức và tâm lí chủ quan của chủ thể phạm tội. Trong đó yếu tố nhận thức tâm lí
của chủ thể hành vi phạm tội là yếu tố quan trọng. Bởi ý chí và nhận thức của chủ thể

đó là đối tượng tác động của pháp luật. Nhằm thực hiện triệt để đường lối xử lí hình sự
mang tính nhân đạo đối với người phạm tội, nhà làm luật quy định “Nguyên tắc xử lí”
tại Điều 3 Bộ luật Hình sự 1999, theo đó:
Nhóm 10 K55LKD
5


1. Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh
theo đúng pháp luật.
2. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân
tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.
Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái
phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, người phạm tội dùng thủ
đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập
công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
3. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức xã hội hoặc gia đình giám sát,
giáo dục.
4. Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải
lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội, nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét
để giảm việc chấp hành hình phạt.
5. Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương
thiện, hoà nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
Sự răn đe và trừng trị chỉ có thể có tác dụng khi nó được áp dụng và cân nhắc đến
đặc điểm tâm sinh lí của người phạm tội. Đặc điểm tâm sinh lí lại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố trong đó có độ tuổi. Xuất phát từ đặc điểm của người chưa thành niên phạm tội
(từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi) là chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm
sinh lí, việc xử lí được đặt ra chủ yếu nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật,
nhanh chóng sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh trở thành công dân có ích cho xã

hội; Điều 69 Bộ luật Hình sự 1999 quy định:
1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành
niên, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra
tội phạm.
2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình
phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính
chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng
ngừa tội phạm.

Nhóm 10 K55LKD

6


4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại
Điều 70 của Bộ luật này.
5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
6. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không

tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”.
Nguyên tắc xử lí được quy định tại Điều 3 và Điều 69 Bộ luật Hình sự 1999 cho
thấy rõ tính nhân đạo với người phạm tội, xu hướng đối xử nhân đạo với người phạm
tội phải được thể hiện ngay trong pháp luật thực định: các biện pháp tác động của Luật
Hình sự phải được quy định ngay trong Bộ Luật Hình sự trên cơ sở cân nhắc, kết hợp
với các biện pháp pháp luật khác, đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật
Hình sự coi là tội phạm, cần quy định nhiều biện pháp tác động của Luật Hình sự được
quy định để có thể áp dụng một cách đúng đắn, mọi biện pháp tác động của Luật Hình
sự được quy định để áp dụng đối với người phạm tội không được gây đau đớn về thể
xác, không được hạ thấp nhân phẩm con người và chỉ đến mức cần và đủ để nhân đạo
mà vẫn đảm bảo công lí, công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm.
“Nguyên tắc xử lí” là một trong những quy định của Bộ luật Hình sự 1999 phản
ánh mức độ thứ hai (sau phòng ngừa tội phạm) của tính nhân đạo của Luật Hình sự. Đối
với áp dụng pháp luật hình sự “Nguyên tắc xử lí” đòi hỏi :
1. Chỉ áp dụng các biện pháp pháp lí hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội khi các biện pháp pháp lí khác đã được áp dụng nhưng không có hiệu quả.
2. Đối với hành vi cần tác động bằng biện pháp pháp lí hình sự đã được quy định trong
cùng một chế tài điều luật thì cần lựa chọn biện pháp ít động chạm hơn đến quyền và lợi
ích của cá nhân người phạm tội, song phải đảm bảo công lí, công bằng xã hội, phòng
ngừa tội phạm.
Nguyên tắc xử lí đó thấm nhuần sâu sắc tư tưởng nhân đạo về Luật Hình sự của các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bộ luật Hình sự 1999 còn có nhiều quy định thể hiện sự khoan hồng đối với
người phạm tội. Điều 8 về trường hợp thế nào là tội ít nghiêm trọng: “…Tội phạm ít
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc
Nhóm 10 K55LKD


7


biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Điều 10 về lỗi vô ý: “Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”.
Điều 19 về miễn trách nhiệm hình sự đối với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội
phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có
đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
này”.
Khoản 2 Điều 22 về không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người không tố giác tội
phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em ruột trừ những trường hợp không tố
giác những tội phạm mà Luật Hình sự quy định: “Người không tố giác là ông, bà , cha,
mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc
các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 313 của Bộ luật này”.
Điều 28 về các loại hình phạt trong đó có nhiều hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù: “Hình
phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;

c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
g) Tử hình.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
Nhóm 10 K55LKD

8


d) Tước một số quyền công dân;
đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể
bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung”.
Điều 46 về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
“1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b)Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của
người bị hại hoặc người khác gây ra;
e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;
k) Phạm tội do lạc hậu;
l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
m) Người phạm tội là người già;
n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình;
o) Người phạm tội tự thú;
p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội
phạm;
r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập
hoặc công tác.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm
nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Nhóm 10 K55LKD

9


3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc
định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”.
Điều 60 về án treo:
“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các
tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án
cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
2. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để
giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ

chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được quy định tại Điều 30
và Điều 36 của Bộ luật này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có
nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục,
Tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách.
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa
án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình
phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này”.
Điều 25 về miễn trách nhiệm hình sự:
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố
hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
2. Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú,
khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được miễn trách
nhiệm hình sự.
3. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá.
Điều 57, 58, 59 về các căn cứ giảm và miễn chấp hành hình phạt:
Điều 57. Miễn chấp hành hình phạt
1. Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chưa chấp hành hình
phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết
định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
2. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.
3. Đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn chấp hành hình phạt theo
quy định tại Điều 61 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được hoãn đã lập công, thì
Nhóm 10 K55LKD


10


theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành
hình phạt.
4. Đối với người bị kết án phạt tù về tội ít nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được tạm đình
chỉ mà đã lập công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết
định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
5. Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời
hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó
chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Điều 58. Giảm mức hình phạt đã tuyên
1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời
gian nhất định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính
quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục, Tòa án có thể
quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Người bị kết án phạt tù, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có
nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Tòa án có thể quyết định
giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối
với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mười hai
năm đối với tù chung thân.
2. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị
lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc
ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập
công lớn thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn
việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.
3. Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một
phần hai mức hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm

xuống ba mươi năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế
chấp hành hình phạt là hai mươi năm.
4. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại phạm tội mới nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi
người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi năm nếu
là tù chung thân.
Điều 59. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu
hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với
mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 58 của Bộ luật này.
Điều 65, 66 về xoá án tích:
Nhóm 10 K55LKD

11


Điều 65. Xoá án tích theo quyết định của Tòa án
1. Tòa án quyết định việc xoá án tích đối với những người đã bị kết án về các tội được
quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội
phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của
người bị kết án, trong các trường hợp sau đây:
a) Đã bị phạt tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi
chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
b) Đã bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời
hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
c) Đã bị phạt tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm,
kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
2. Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin
xóa án tích. Nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án
tích.

Điều 66. Xoá án tích trong trường hợp đặc biệt
Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được
cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó
thường trú đề nghị, thì có thể được Tòa án xoá án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít
nhất một phần ba thời hạn quy định.
Chương X về những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội:
Điều 68. áp dụng Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của
Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này.
Điều 69. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành
niên, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra
tội phạm.
2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình
phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính
Nhóm 10 K55LKD

12


chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng
ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành

niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại
Điều 70 của Bộ luật này.
5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
6. án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không
tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Điều 70. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án có thể quyết định áp dụng một trong
các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:
a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
b) Đưa vào trường giáo dưỡng.
2. Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai
năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về
học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã,
phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm.
3. Tòa án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm đến hai năm
đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi
phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một
tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
4. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc người được đưa vào trường
giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn do Tòa án quyết định và có nhiều tiến
bộ, thì theo đề nghị của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách nhiệm giám sát,
giáo dục, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn
hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng.
Điều 71. Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội

Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với
mỗi tội phạm:
1. Cảnh cáo;
Nhóm 10 K55LKD

13


2. Phạt tiền;
3. Cải tạo không giam giữ;
4. Tù có thời hạn.
Điều 72. Phạt tiền
Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.
Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền
phạt mà điều luật quy định.
Điều 73. Cải tạo không giam giữ
Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội
thì không khấu trừ thu nhập của người đó.
Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá
một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
Điều 74. Tù có thời hạn
Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được

áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
Điều 75. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được
thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau :
1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung
không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này.
2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp
dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.
Điều 76. Giảm mức hình phạt đã tuyên
1. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến
bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với
hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất
là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.
Nhóm 10 K55LKD

14


2. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công
hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành
phần hình phạt còn lại.
3. Người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó
khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì
theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn
việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.
Điều 77. Xoá án tích
1. Thời hạn để xoá án tích đối với người chưa thành niên là một phần hai thời hạn quy
định tại Điều 64 của Bộ luật này.
2. Người chưa thành niên phạm tội, nếu được áp dụng những biện pháp tư pháp quy
định tại khoản 1 Điều 70 của Bộ luật này, thì không bị coi là có án tích”.

Khoản 3 Điều 80: “…Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ
được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thì
được miễn trách nhiệm hình sự”.
Khoản 6 Điều 289, khoản 6 Điều 290 về những trường hợp được miễn trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội ngay cả khi phạm các tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng : “Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì
được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.Người đưa
hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có
thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng
để đưa hối lộ”; “Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì
có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.
II.
sự

Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về trách nhiệm hình

1. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về cơ sở của trách nhiệm
hình sự:
Nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình sự đòi hỏi phải quy định cơ sở thống nhất, duy
nhất của trách nhiệm hình sự. Trong lí luận cũng như trong thực tiễn áp dụng Luật Hình
sự đều có những quan điểm khac nhau về cơ sở của trách nhiệm hình sự. Việc lựa chọn
giữa hai yếu tố hành vi hay đặc điểm nhân thân làm căn cứ cơ bản để quy định cơ sở
của trách nhiệm hình sự có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng các quy định của
Luật Hình sự mang tính nhân đạo hay không.
Đòi hỏi quan trọng nhất của nguyên tắc nhân đạo đối với việc quy định cơ sở của trách
nhiệm hình sự là khẳng định vai trò hàng đầu của hành vi. Chỉ bằng hành vi người
phạm tội mới xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà Luật Hình sự ghi nhận và bảo vệ;
gây ra hoặc đe doạ trực tiếp gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó. Hơn nữa chỉ
bằng hành vi của người phạm tội chúng ta mới biết ai là người thực hiện nó có lỗi hay
không có lỗi. Cố nhiên trong Luật Hình sự hành vi đó là hành vi chứa đựng đầy đủ các

Nhóm 10 K55LKD

15


dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể đã được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Mọi suy nghĩ, tư tưởng, âm mưu, dự định… của con người không thể là cơ sở của trách
nhiệm hình sự.
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí hình sự mà một người phải gánh chịu trước Nhà
nước do họ đã thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự coi là
tội phạm. Điều 2 Bộ luật Hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ
luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. trách nhiệm hình sự, theo
Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 1999 có hai nội dung: chỉ một người phạm một tội mới
phải chịu trách nhiệm hình sự và bất cứ ai phạm tội đều phải chịu trách trách nhiệm
hình sự. Cả hai nội dung đó của trách nhiệm hình sự đều thể hiện tính nhân đạo của việc
quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự bởi chúng cho thấy trách nhiệm hình sự là hậu
quả pháp lí tất yếu của việc phạm tội, điểm khởi đầu của trách nhiệm hình sự là thời
điểm xảy ra tội phạm.
Tội phạm cũng là một loại vi phạm pháp luật vì vậy một đòi hỏi quan trọng của nguyên
tắc nhân đạo đối với việc quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự là khi ghi nhận khái
niệm tội phạm ngoài việc đưa ra những dấu hiệu phản ánh được nội dung chính trị- xã
hội của tội phạm còn phải định ra tiêu chí cho phép xác định rõ giới hạn giữa hành vi bị
coi là tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật khác. Nếu không xác định một cách rõ
ràng có thể dẫn đến tình trạng xử không đúng tội mà việc này xét đến cùng là trái với
nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình sự.
Bằng việc khẳng định trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của cá nhân, Luật Hình sự tạo
cơ sở pháp lí cho việc quy định và áp dụng hình phạt cũng như các hình thức khác của
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo.
Vấn đề ở chỗ hình phạt và hình thức khác của trách nhiệm hình sự một khi được quy
định và áp dụng với chính người phạm tội mới có khảnăng tác động trực tiếp vào ý thức

của người đó và cải tạo, giáo dục và phòng ngừa họ phạm tội mới. Với tinh thần đó, Bộ
luật Hình sự Việt Nam năm 1999 tại Điều 8 đã quy định: “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa”… “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm
cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác”. Phân tích các quy định tại khoản 1 và 4 Điều 8 Bộ luật Hình sự 1999 còn thấy
việc khái niệm tội phạm không thể hiện dấu hiệu tính phải chịu hình phạt của tội phạm
cũng phản ánh tính nhân đạo của Luật Hình sự Việt Nam. Ngoài hình phạt Bộ luật
Hình sự còn quy định các biện pháp khác để áp dụng đối với người phạm tội. Vì vậy
những người phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt được khoan
hồng đặc biệt. Khoản 4 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Những hành vi tuy
có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì
Nhóm 10 K55LKD
16


không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác” khẳng định quan điểm
nhân đạo rằng trong hệ thống các biện pháp xử lí đối với hành vi vi phạm lợi ích xã hội
và con người thì biện pháp hình sự là nặng nhất và phải được sử dụng sau cùng. Bộ luật
hình sự năm 1999 thể hiện rõ nét quan điểm chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh
và phòng ngừa tội phạm với phương châm lấy giáo dục, phòng ngừa là chính.
Nguyên tắc nhân đạo của Bộ luật Hình sự 1999 còn được thể hiện trong thái độ đối với
mức độ nguy hỉêm cho xã hội trong hành vi của người chưa thành niên. Cụ thể theo Bộ
luật Hình sự 1985 người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, tức là

phạm vào những khách thể mà do mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi người
thanh niên bị phạt tù từ 5 năm trở lên, còn theo Bộ luật Hình sự 1999 chỉ từ 7 năm tù trở
lên. Tức là phạm tội không phải là nghiêm trọng mà là rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy những
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi thực hiện tương ứng với các tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng do vô ý , từ khi Bộ luật Hình sự 1999 có hiệu lực pháp luật trở đi đều
không phải là tội phạm.
Trong Bộ luật Hình sự 1999 nhà làm luật nước ta còn tiến hành phi tội phạm hoá bằng
cách loại bỏ những hành vi vốn đã được là tội phạm hoá thành tội danh trong Bộ luật
Hình sự 1985 nhưng nay không còn nguy hiểm đáng kể cho xã hội nữa, có thể kể đến
hành vi trốn tránh nghĩa vụ lao động công ích, làm trái hoặc cản trở việc thực hiện nghĩa
vụ lao động công ích, hành vi vắng mặt trái phép… Các nhà làm luật còn tiến hành phi
tội phạm hoá bằng cách bỏ đi một số yếu tố thuộc về hành vi được mô tả trong phần
quy định của điều luật hoặc thên những dấu hiệu điều kiện thuộc về hành vi khách quan
cần và đủ co một cấu thành tội phạm như gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành
chính... Hay như trong Điều 270 Bộ luật Hình sự 1999: “Tội vi pham các quy đinh về
quản lí nhà ở”, nhà làm luật đã bỏ đi dấu hiệu chuyển nhượng trái phép do Nhà nước
hoặc tổ chức xã hội quản lí thu lợi bất chính vốn là dấu hiệu định tội vi phạm các quy
định tại Điều 214 Bộ luật Hình sự 1985. Việc phi tôi phạm hoá theo cách này đã thu hẹp
phạm vi tác động của Luật Hình sự đối với tội phạm và người phạm tội, phù hợp với
cac nguyên tắc trong Luật Hình sự.
Việc xây dựng các nguyên tắc giảm nhẹ cũng là biểu hiện của nguyên tắc nhân đạo
trong Bộ luật Hình sự 1999. Một khi người phạm tội thông qua cấu thành tội phạm
giảm nhẹ được giảm bớt trách nhiệm hình sự, hình phạt se quyết tâm phục thiện, tích
cực cải tạo tốt. Những cấu thành tội phạm giảm nhẹ được quy định trong Bộ luật Hình
sự 1985 đã được nâng lên thành các tội phạm độc lập trong Bộ luật Hình sự 1999.
Chẳng hạn các tình tiết: “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, “giết
con mới đẻ” được quy định trong Điều 101 Bộ luật Hình sự 1985 về tội giết người là
các tình tiết giảm nhẹ, trog Bộ luật Hình sự 1999 được nâng lên thành hai tội độc lập

khác tương ứng được quy định tại hai điều luật độc lập khác nhau. Phần các tội phạm
của Bộ luật Hình sự 1999 khi quy định các cấu thành tội phạm cụ thể và chế tài đối với
các tội phạm nhà làm luật đã xác định những cấu thành giản đơn so với các cấu thành
Nhóm 10 K55LKD
17


tăng nặng, đã quy định các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự ngay cả khi
phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
2. Sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về miễn trách nhiệm hình
sự và hiệu lực hồi tố đối với một số trường hợp cụ thể:
Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm mà người đó đã thực hiện do có những điều kiện và cơ sở mà Bộ luật Hình
sự quy định. Miễn trách nhiệm hình sự là chế định thể hiện một trong những khía cạnh
của chính sách hình sự nhân đạo của nước ta. Trong Bộ luật Hình sự 1999 nguyên tắc
nhân đạo nước ta quy định 7 loại miễn trách nhiệm hình sự:
1. Điều 19: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội
phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có
đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
này.”
2. Khoản 2 Điều 23 quy định miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội đã hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự : “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy
định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng.
d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
3. Khoản 1 Điều 25 quy định miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do sự
chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa:

“Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố
hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.”
4. Khoản 1 Điều 25 quy định miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội mà do
chuyển biến của tình hình bản thân họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
5. Khoản 2 Điều 25 quy định miễn trách nhiệm hình sự do có hành vi tích cực của
người phạm tội: “Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm
tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội
phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được
miễn trách nhiệm hình sự.”
6. Khoản 3 Điều 25 quy định miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá:
“Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá.”
7. Khoản 2 Điều 69 quy định miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên
phạm tội nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ và nếu được gia đình, cơ qua, tổ chức nhận giám sát, giáo dục: “Người chưa
Nhóm 10 K55LKD

18


thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và
được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.”
Ngoài phần chung việc miễn trách nhiệm hình sự còn được Bộ luật Hình sự 1999
quy định ở một số điều luật ở phần các tội phạm. Chẳng hạn tại khoản 3 Điều 80 nhà
làm luật quy định: “Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ
được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thì
được miễn trách nhiệm hình sự.. Các quy định tương tự về miễn trách nhiệm hình sự
cũng được quy định tại khoản 6 Điều 289, khoản 3 Điều 314…
Bên cạnh việc quy định các loại miễn trách nhiệm hình sự mang tính chất bắt

buộc nhà làm luật còn quy định những loại miễn trách nhiệm hình sự tuỳ nghi. Tuy
nhiên khi giải quyết vấn đề miễn trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp áp dụng
có tính chất tuỳ nghi, để đảm bảo các nguyên tắc của Luật Hình sự trong đó có nguyên
tắc nhân đạo Toà án phải cân nhắc kĩ càng các yếu tố cho phép miễn trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội. Nếu áp dụng các biện pháp tác động không mang tính hình
sự mà vẫn đem lại hiệu quả giáo dục cải tạo người phạm tội, phù hợp với dư luận xã hội
và đảm bảo việc phòng ngừa tội phạm thì việc miễn trách nhiệm hình sự là hoàn toàn
hợp lí.
III Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về hình phạt
a. Khái niệm hình phạt:
Hình phạt là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong bộ luật
hình sự, hà nước tăng cuờng vai trò, khả năng, trình độ, kinh nghiệm xét xử của toà án
mà còn phải hoàn thiện cả trình tự thủ tục tố tụng, làm sao để xét xử đúng nguời, đúng
tội, đúng phát luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm
b. Mục đích của hình phạt:
Trong bộ hình sự năm 1999, mục đích của hình phạt đuợc quy định tại diều 27 theo đó”
hình phạt không chỉ nhằm trừng phạt nguời phạm tội mà còn giáo dục khi họ trở thành
nguời có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã
hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. hình phạt còn nhằm giáo dục người giáo dục
người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm ngoài
ra, hình phạt còn có mục đích trừng trị, cải tạo giáo dục người phạm tội
- Bản chất của xã hội ta là nhân đạo, nên việc quy định và áp dụng hình phạt không
nhằm mục đích trừng trị mà trừng trị được coi là phương thức cải tạo người phạm tội.
Song việc quy định và áp dụng hình phạt không chỉ nhằm đảm bảo công lý, công bằng
xãc hội mà còn nhằm phòng ngừa tội phạm
c. Các biểu hiện của nguyên tắc nhân đạo
- Các hình phạt phải phù hợp với độ tuổi và tình hình kinh tế
Nhóm 10 K55LKD


19


- Các quy định của bộ luât hình sự nói chung, các quy định về hình phạt nói riêng, chịu
sự ảnh huởng mạnh mẽ của tất cả các nguyên tắc của luật hình sự, trong đó có nguyên
tắc nhân đạo. Nhằm thực hiện nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự, các loại hình
phạt được nhà làm luật quy định kèm theo những chỉ dẫn phản ánh rõ nét hơn các hình
phạt . Chẳng hạn, khi quy định hình phạt tiền nhà làm luật chỉ ra rằng:
+ Mức phạt tiền quyết định theo mức độ nghiêm khắc của tội phạm, đồng thời xét đến
tình hình của tài sản của nguời phạm tội (khoản 3 điều 30 bộ luật hình sự)
+ Không xử phạt tiền đối với nguời thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
(khoản 5 điều 69 bộ luật hình sự )
+ Khi áp dụng hình phạt cải tại không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội
thì không khấu trừ phần thu nhập của người đó (điều 73 bộ luật hình sự)
+ Không áp dụng tù chung thân hoặc tử hình dối với người thành niên phạm tội (khoản
5 điều 69 bộ luật hình sự)
- Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hay khi bị xét xử (điều 35 bộ luật hình sự)
* Giảm nhẹ hình phạt: bộ luật hình sự 1999 có nhiều hình phạt nhẹ hơn hình phạt 1985
- Có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (điều 46 bộ luật hình sự 1999): người có
công, phạm tội vì quá khó khăn…
- Thời gian thi hành hình phạt được rút ngắn
Ví dụ :
+ Tại điều 28 bộ luật hình sự hiện hành, chúng ta thấy có 4 loại hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù trong tổng số 7 loại hình phạt chính và trong tổng số 12 loại hình phạt bao gồm
cả hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung thì con số hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là 9.
kết quả phân tích, so sánh trên đây cho thấy rõ xu hướng của luật hình sự nước ta ngày
càng sử dụng nhiều hơn hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
+ Việc giảm mức cao nhất của khung hình phạt đuợc nhà làm luật thực hiện trong rất
nhiều chế tài trong các điều luật trong các chương khác nhau của phần tội phạm của bộ

luật hình sự năm 1999. Chẳng hạn, khoản 2 điều 90 tội “chống phá trại giam”có mức
phạt tù từ 3 năm đến 10 năm, trong khi đó khoản 2 điều 84 tương ứng của bộ luật hình
sự năm 1985 trước đây quy định mức phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
+ Điều 90 “tội chống phá trại giam” quy định ai loại hình phạt là phạt tù từ 10 năm đến
20 năm hoặc tù chung thân, trong khi đó chế tài điều 84 tuơng ứng của bộ luật hình sự
năm 1985 quy định 3 loại hình phạt là phạt tù từ 10 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình. Như vậy trong chế tài này nhà làm luật đã loại bỏ hình phạt tử hình. Việc giảm các
điều luật có hình phạt tử hình, truớc hết xuất phát từ nhu cầu đấu tranh, phòng ngừa và
phòng chống tội phạm, đồng thời thể hiện xu huớng của loại hình phạt này là hình phạt
tử hình chỉ đuợc áp dụng trong những truờng hợp thật cần thiết, để đảm bảo công lý,
công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm
Nhóm 10 K55LKD

20


 Việc giảm nhẹ chế tài hình sự khẳng định xu hướng phát triển có triển vọng của luật
hình sự, không tăng nặng trách nhiệm hình sự, hình phạt khi không thật cần thiết. tính
nhân đạo của xu hướng này thể hiện ở chỗ, đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
coi là tội phạm, nếu áp dụng chế tài hình sự ở mức độ nghiêm khắc cao hay mức độ
nghiêm khắc thấp hơn mà vẫn đảm bảo được mục đích của hình phạt thì áp dụng chế tài
hình sự ở mức độ nghiêm khắc thấp hơn. Việc quy định các chế tài lựa chọn có những
hình phạt mới nhẹ hơn so với chế tài tương ứng trước đây càng cho thấy cách xử lý
nhân đạo đối với người phạm tội là xu huớng không thể đảo ngược của luật hình sự
nước ta “luôn tin vào khả năng của con người”
* Có nội dung trừng trị kết hợp với giáo dục, không nhằm mục đích gây đau đớn về thể
xác hoặc hạ thấp danh dự, phẩm giá con nguời
- Vì vậy xuất phát từ tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa, bản chất của chế độ ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh và phòng ngừa và phòng chống tội phạm,
bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định hệ thống hình phạt tại điều 28 hệ thống hình phạt:

cảnh cáo, phạt tiền, cải toạ không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử
hình là những hình phạt chính có tính và cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc cấm hành nghề
hoặc làm một số công việc nhất định; cấm cư trú, quản chế; tước một số quyền công
dân, tịch thu tài sản là những hình phạt bổ sung
Sự hiện diện trong hệ thống hình phạt trong những loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
như cảnh cáo, phạt tiền cải tọa không giam giữ, trục xuất cũng như sự hiện diện của
chúng trong các chế tài lựa chọn cùng với hình phạt tù có thể ngày càng có nhiều người
bị kết án được chấp hành hình phạt trong điều kiện không bị cách ly khỏi xã hội mà vẫn
cải tạo, giáo dục tốt, nhanh chóng trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có ý
nghĩa vô cùng to lớn về mặt tư tưởng cũng như về mặt thực tiễn
* Thay cụm từ này bằng cụm từ khác
- Việc thay cụm từ “ phải bị giam” trong điều 25 bộ luật hình sự năm 1985 bằng cụm từ
“phải chấp hành hình phạt trại giam” thể hiện đúng hơn bản chất của hình phạt tù có
thời hạn là buộc nguời bị kết án phải chấp hành hình phạt gồm một loạt nội dung như
học tập, lao động cải tạo, trong môi trường cách ly với đời sống xã hội trong một
khoảng thời gian nhất định. Với những nội dung đó, hình phạt tù có thời hạn có thể thực
hiện được mục đích của mình là bảo đảm công lý, công bằng xã hội và phòng ngừa tội
phạm. Sự thay đổi đó mặc dù rất nhỏ nhưng giá trị nhân đạo của nó lại rất lớn .Đối với
sự thay đổi liên quan đến tính mạng con nguời thì giá trị nhân đạo lại còn lớn hơn
* Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về miễn hình phạt, giảm thời
hạn chấp hành hình phạt, án treo, xoá án tích
Miễn hình phạt là việc không buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt về tội mà
họ đã thực hiện trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1
điều 46 bộ luật hình sự, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức miễn
trách nhiệm hình sự hoặc do người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội hoặc do
có sự thay đổi trạng thái sức khoẻ của người bị kết án. Tính nhân đạo của miễn hình
Nhóm 10 K55LKD

21



phạt là ở chỗ, khi được miễn hình phạt người phạm tội có điều kiện thích nghi nhanh
chóng với trật tự pháp luật và các quy tắc xử sự của xã hội, tự giáo dục, cải tạo để trở
thành người có lương thiện, có ích cho xã hội
- Án treo là một chế định độc lập, một biện pháp tác động của luật hình sự, thể hiện rõ
nét chính sách hình sự nhân đạo của nhà nước ta theo phương châm nghiêm trị kết hợp
với giáo dục, cải tạo. Đối với người phạm tội, việc trừng tri bằng hình phạt là cần thiết
nhưng phải kết hợp và dựa trên cơ sở giáo dục, phòng ngừa là chủ yếu. Tính chất nhân
đạo của án treo là ở chỗ, người phạm tội không bị cách ly khỏi xã hội và bị giáo dục, cải
tạo ngay trong môi trường xã hội mà người phạm tội sinh sống, học tập và lao động
- Tác dụng của việc áp dụng án treo
+ Tiết kiệm được ngân sách nhà nước
+ Thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào việc cải tạo giáo dục người kết án,
giúp họ nhanh chóng trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội
+ Thể hiện bản chất nhân đạo của chính sách hình sự nhà nước ta
- Điều kiện để được hưởng án treo
+ Phạt tù từ 3 năm trở xuống
+ Có nhân thân tốt
+ Có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
+ Phải có điều kiện đủ là xét thấy không chấp hành hình phạt tù thì toà án cho hưởng án
treo
- Để hạn chế hình phạt tử hình, nhà làm luật đã mở rộng khả năng không áp dụng hình
phạt tử hình đối với phu nữ đang mang thai hoặc đang nuôi con duới 36 tháng tuổi
- Phân tích tính chất, đặc điểm của hệ thống hình phạt được quy định trong bộ luật hình
sự năm 1999, có thể kết luận rằng, hệ thống hình phạt này mang tính nhân đạo, bởi vì:
+ Là hệ thống hình phạt có các thang bậc nghiêm khắc tương ứng với thang bậc nghiêm
trọng của tội phạm
+ Là hệ thống hình phạt có nhiều loaị hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và các hình phạt
được sắp xếp theo một trình tự nhất định theo sự sắp xếp tội phạm đã được phân loại
+ Là hệ thống hình phạt trong đó các hình phạt thể hiện sự tương đối, sự kế tiếp về bản

chất, nội dung hình thức, điều kiện áp dụng không khác biệt nhau khá lớn
+ Là hệ thống hình phạt có quy định có hình phạt nào được áp dụng với loại tội phạm
nào, không được áp dụng đối với loại tội phạm nào, loại người phạm tội nào
+ Là hệ thống hình phạt mà mỗi loại hình phạt được quy định rõ ràng, cụ thể, chính xác
nội dung và điều kiện áp dụng
+ Là hệ thống hình phạt quy định rõ giới hạn tối thiểu và giới hạn tối đa của từng loại
hình phạt cụ thể trong sự tương xứng chung
Nhóm 10 K55LKD

22


+ Là hệ thống hình phạt mà các hình phạt được quy định ở phần chung và ở phần các
hình phạt được quy định ở các chế tài của các điều luật cụ thể trong phần các tội phạm
có sự tương xứng nhất định


Xây dựng trong bộ luật hình sự một hệ thống hình phạt công bằng và nhân đạo.

hệ thống hình phạt là cơ sở xuất phát cho việc quy định các chế tài công bằng , nhân
đạo đối với tội phạm cụ thể ở các phần tội phạm của bộ luật hình sự
Chương III
Hoàn thiện bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 nhằm đảm bảo nguyên tắc nhân
đạo trong luật hình sự
I. Những hạn chế trong bộ luật hình sự cần được khắc phục nhằm đảm bảo
nguyên tắc nhân đạo
Về nguyên tắc, pháp luật được ban hành là để điều chỉnh những quan hệ xã hội đang tồn
tại trên thực tế. Theo logic đó, khi bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, trước đó
trong xã hội đã tồn tại ở mức độ điển hình, phổ biến những quan hệ xã hội vốn là đối
tượng điều chỉnh của Luật Hình sự. Song cuộc sống luôn vận động và phát triển, kéo

theo đó là sự vận động phát triển của các quan hệ xã hội. Sau khi Bộ Luật Hình Sự năm
1999 được ban hành, trong xã hội xuất hiện thêm những quan hệ xã hội cần được điều
chỉnh bằng Pháp luật hình sự. Mặt khác, Bộ Luật Hình sự xét đến cùng là kết quả của
hoạt động lập pháp hình sự mà chất lượng của hoạt động này bị quyết định và bị chi
phối bởi rất nhiều nhân tố cơ bản (bên ngoài) như kinh tế, địa lý tự nhiên môi trường,
nhân chủng học, dân tộc, chính trị - pháp lý, tâm lý pháp luật, ý thức pháp luật… và
những nhân tố thủ tục (bên trong) như thiết chế tổ chức, điều kiện về thủ tục trình tự và
đặc biệt là lợi ích của những người xây dựng và những người tham gia xây dựng Bộ
luật Hình sự, nên các quy phạm pháp luật hình sự có thể phù hợp, cũng thể không phù
hợp với nhu cầu cần điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội. Nói cách khác, trong pháp
luật hình sự luôn tồn tại những “lỗ hổng” nhất định. Những “lỗ hổng” đó có thể là
những mảng quan hệ xã hội quan trọng chưa được Luật Hình sự điều chỉnh mà lẽ ra
chúng đã phải được điều chỉnh và có thể là những mảng quan hệ xã hội quan trọng đã
được Luật Hình sự điều chỉnh, nhưng được điều chỉnh chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ và
đặc biệt là chưa thống nhất, do những nguyên nhân khách quan, khách quan – chủ quan
và chủ quan khác, vì vậy chưa đảm bảo đầy đủ các yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo
trong Luật Hình sự.
Việc phân tích các quy định về trách nhiệm hình sự cho thấy rằng, khái niệm tội phạm
được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành là chưa hoàn toàn chính xác. Vấn đề là
ở chỗ, bản chất chính trị - xã hội của mọi vi phạm pháp luật là ở tính nguy hiểm cho xã
hội của chúng, Như chúng ta đã biết, tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu vật chất
tổng hợp của mọi hành vi vi phạm pháp luật cho phép phân biệt các hành vi vi phạm
Nhóm 10 K55LKD

23


pháp luật thể hiện trong một tổng thể hai phạm trù: “tính chất” – mặt định tính và “mức
độ” – mặt định lượng của nó. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật
được quyết định bởi ý nghĩa, vai trò, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của những quan

hệ xã hội mà hành vi đó xâm phạm, bởi các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan (như
thiệt hại, công cụ, phương tiện, thời gian địa điểm, hoàn cảnh khi thực hiện…), mặt chủ
quan (như hình thức lỗi, động cơ, mục đích…), các dấu hiệu đặc trưng của chủ thể (như
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và bởi những
tình tiết khác có ý nghĩa tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong sự so
sánh các dấu hiệu thuộc khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể vốn quyết
định tính nguy hiểm của các hành vi vi phạm pháp luật, có thể thấy tội phạm có tính
nguy hiểm cho xã hội ở mức độ lớn hơn so với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Vì
vậy, tiêu chí cơ bản để phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác là
mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của chúng. Tính nguy hiểm cho xã hội còn được
coi là dấu hiệu vật chất của mọi vi phạm, còn mức độ nguy hiểm cho xã hội là đặc tính
khách quan tương ứng với từng loại hành vi vi phạm pháp luật. Đó cũng chính là điều
kiện khác nhau cơ bản đưa đến sự phản ứng của Nhà nước đối với từng loại vi phạm
pháp luật cụ thể. Đó cũng chính là lý do lý giải vì sao những hành vi có mức độ khác
nhau của tính nguy hiểm cho xã hội lại được quy định trong các ngành luật khác nhau
và đối với những người có lỗi trong việc thực hiện chúng Nhà nước áp dụng những biện
pháp trách nhiệm khác nhau về mức độ tác động như hình phạt, các chế tài dân sự, lao
động, các biện pháp xử phạt hành chính… Do vậy, việc nhà làm luật sử dụng thuật ngữ
“tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể” tại khoản 4 Điều 8 Bộ luật Hình sự
năm 1999 là chưa chính xác, chưa phản ánh hết bản chất chính trị - xã hội của tội phạm.
Tương tự, trong khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, việc nhà làm luật chưa quy
định dấu hiệu đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự vốn là một trong những dấu hiệu quan
trọng thuộc về chủ thể của tội phạm cũng làm cho thấy có những người có năng lực
trách nhiệm hình sự song chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà họ thực hiện dù có trái pháp Luật Hình sự, có lỗi và phải chịu hình phạt
cũng không phải là tội phạm. Thiết nghĩ, để khái niệm tội phạm có độ chuẩn xác cao,
nhà làm luật không thể không bổ sung dấu hiệu đủ tuổi trách nhiệm hình sự vào khái
niệm tội phạm. Đồng thời, nhà làm luật không thể không thay đổi thuật ngữ “tính chất
nguy hiểm cho xã hội không đáng kể” bằng thuật ngữ “mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể”, vì rằng việc phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật

khác nhau, như đã nhấn mạnh, phải dựa vào mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của
các loại hành vi đó bởi tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều có tính chất nguy hiểm
cho xã hội. Rõ ràng, đây là một trong những điểm hạn chế cần được nghiên cứu và khắc
phục để đảm bảo hơn nữa nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình sự.
Để bảo đảm yêu cầu nhân đạo cũng như các yêu cầu khác của Luật Hình sự như công
lý, công bằng xã hội, phòng ngừa tội phạm… hành vi bao giờ cũng phải được đặt lên
hàng đầu khi quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, trong quy định về
cơ sở của trách nhiệm hình sự được ghi nhận tại Điều 2 Bộ luật Hình sự hiện hành, nhà
làm luật chưa khẳng định được vị trí hàng đầu của hành vi trong số những yếu tố của cơ
Nhóm 10 K55LKD

24


sở của trách nhiệm hình sự. Thiết nghĩ sẽ là rõ ràng và chính xác hơn, nếu trong quy
định về cơ sở của trách nhiệm hình sự, nhà làm luật khẳng định việc thực hiện hành vi
có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể đã được quy định trong Bộ luật Hình sự là cơ
sở của trách nhiệm hình sự và khẳng định việc phải chịu trách nhiệm hình sự của người
phạm tội là không tùy thuộc vào nguồn gốc, tôn giáo, ngôn ngữ, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp, nơi cư trú,… của người đó, đặc biệt là khẳng định việc người phạm tội không
phải chịu hai lần trách nhiệm hình sự về cùng một tội phạm. Có như vậy mới đảm bảo
đòi hỏi của nguyên tắc nhân đạo đối với việc quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự.
Việc nhà làm luật tiến hành phân hóa tội phạm và phân hóa trách nhiệm hình sự tại các
khoản 2 và 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự hiện hành là nhằm thực hiện các nguyên tắc của
Luật Hình sự, trong đó có nguyên tắc nhân đạo, để phân hóa tội phạm và trách nhiêm
hình sự thì ngoài việc lấy hình thức lỗi, khách thể loại… nhà làm luật còn lấy những
dấu hiệu thể hiện được nội dung chính trị - xã hội của các tội phạm và chỉ rõ được mức
độ nghiêm trọng tương quan giữa các tội phạm để phân loại tội phạm. Dấu hiệu đó
chính là mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Trước khi pháp điển hóa,
Luật Hình sự nước ta không phân loại tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội của chúng. Bộ luật Hình sự đầu tiên (1985) tại khoản 2 Điều 8 phân tội danh
thành hai loại: tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Thực tiễn đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm ở nước ta cho thấy sự phân loại tội phạm thành hai loại
như đã nêu trên tỏ ra có nhiều bất cập không đáp ứng được một cách đầy đủ các đòi hỏi
của các nguyên tắc của Luật Hình sự trong đó có nguyên tắc nhân đạo. Vì vậy, Bộ luật
Hình sự năm 1999 của nước ta tại khoản 2 Điều 8 đã chỉ rõ cơ sở của việc phân loại tội
phạm là tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, theo đó tội phạm được phân thành
bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng
và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tại khoản 3 của điều luật này, tương ứng và phù hợp
với bốn mức độ nguy hiểm cho xã hội đã được phân hóa: gây nguy hại không lớn; gây
nguy hại lớn; gây nguy hại rất lớn; gây nguy hại đặc biệt lớn là mức độ cao nhất của
khung hình phạt; đến 3 năm tù, đến 7 năm tù; đến 15 năm tù, trên 15 năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình. Việc chia tội phạm thành bốn loại như vậy đánh dấu một bước phát
triển mới của đường lối đấu tranh với tội phạm có phân hóa tội phạm và phân hóa trách
nhiệm hình sự cao trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Cách phân loại
thành bốn loại tội phạm như trên có ý nghĩa rất lơn đối với việc hoàn thiện nhiều quy
định thuộc Phần chung của Bộ luật Hình sự như quy định về nguyên tắc xử lý, về tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành
bản án, điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp, các quy định về
tái phạm, tái phạm nguy hiểm, xóa án tích… Cách phân loại thành bốn loại tội phạm
như trên còn là một trong những căn cứ để phân hóa tội phạm, phân hóa trách nhiệm
hình sự trong xây dựng các cấu thành tội phạm, các khung hình phạt ở Phần các tội
phạm của Bộ luật Hình sự. Đối với việc xây dựng các chế định của Luật Tố tụng hình
sự, cách phân loại tội phạm thành bốn loại tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 làmột
trong những căn cứ quan trọng để xây dựng các quy định về thẩm quyền điều tra, thời
hạn điều tra, các biện pháp ngăn chặn, thẩm quyền truy tố, thẩm quyền xét xử… Đối
Nhóm 10 K55LKD

25



×