Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đánh giá hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật tại bộ tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.04 KB, 22 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP

TÊN ĐỀ TÀI THỰC TẬP: Đánh giá hoạt động thẩm định văn bản quy
phạm pháp luật tại địa phương nơi sinh viên thực tập.
(MÔN: Xây dựng văn bản pháp luật)

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Hoàng Hiệp
Lớp

: QT31A

Mã số sinh viên

: QT31E0001

Địa điểm thực tập : Bộ tư pháp – Vụ Pháp luật hình sự - hành chính

NĂM 2010


Mục lục
Phần 1: Giới thiệu về Chuyên đề
Phần 2: Trình bày quá trình tìm hiểu thu thập thông tin nơi thực tập
1, Quá trình thu thập thông tin
1.1 Phương pháp thu thập thông tin
1.2 Nguồn thu thập thông tin
2, Kết quả thu thập thông tin
2.1 Khái niệm và vai trò của hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp


luật
2.2 Phạm vi nội dung của hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật
2.3 Trách nhiệm của Bộ tư pháp trong hoạt động thẩm định dự thảo, dự án
văn bản quy phạm pháp luật
Phần ba: Kết quả xử lý thông tin đã thu thập được
1. Tiếp nhận hồ sơ thẩm định
2. Thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp
thành lập hội đồng thẩm định
3 Thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp
không thành lập hội đồng thẩm định
Phần bốn: Nhận xét và kiến nghị
1, Nhận xét về hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Bộ tư pháp
2, Kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo


Phần một: Giới thiệu về Chuyên đề.
Như chúng ta đã biết, văn bản quy phạm pháp luật chiếm một vị trí vô cùng
quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên
thế giới hiện nay. Chính vì lẽ đó, để một văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành cần phải trải qua rất nhiều quá trính, tuân theo những trình tự, thủ tục, quy
định nghiêm ngặt của pháp luật. Trong đó, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật
là một hoạt độnng không thể thiếu, đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc
ban hành bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào. Thông qua hoạt động thẩm định
văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan thẩm định sẽ phát hiện và kiến nghị chỉnh lý
nhiều vấn đề thuộc nội dung của nhiều dự án, dự thảo văn bản chưa bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, không phù
hợp với tình hình thực tế, góp phần xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật đồng bộ, hoàn chỉnh, thống nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, có tính khả
thi phục vụ có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước. Thêm vào đó, trong quá trình

được thực tập tại Vụ Pháp luật hình sự - hành chính; là cơ quan chuyên trách được
Bộ tư pháp giao cho nhiệm vụ thẩm định, tổ chức thẩm định, góp ý dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật về hình sự, hành chính, tổ chức bộ máy nhà nước; em
đã có cơ hội được tiếp xúc với hoạt động này. Chính vì vậy, em xin lựa chọn đề tài
“Đánh giá hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật tại Bộ tư pháp”
làm chuyên đề thực tập.
Trong khuôn khổ một chuyên đề thực tập và với hiểu biết còn tương đối hạn
chế của một sinh viên thực tập sơ suất là không thể tránh khỏi. Xin chân thành cảm
ơn các chuyên viên của Vụ Pháp luật hình sự - hành chính đã tận tình giúp đỡ em
trong suốt quá trình thực tập và thực hiện chuyên đề này. Cảm ơn Ban Giám hiệu
nhà trường và các thầy cô quản lý Đoàn thực tập đã tạo điều kiện cho em có được
địa điểm thực tập phù hợp.


Phần hai: Trình bày quá trình tìm hiểu thu thập
thông tin nơi thực tập.
1.Quá trình thu thập thông tin.
1.1. Phương pháp thu thập thông tin.
Trong khoảng thời gian 16 tuần thực tập tại Vụ pháp luật hình sự - hành
chính, với sự giúp đỡ của các Chuyên viên , em đã thu thập được nhiều thông tin
phục vụ cho đề tài. Đề thu thập và xử lý thông tin, em đã sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp thống kê: Dựa trên những số liệu từ các đề tài nghiên cứu
khoa học, các tờ trình, các báo cáo khác nhau, để thực hiện việc tổng hợp các số
liệu có liên quan đến đề tài, từ đó phân loại các số liệu, các nguồn thông tin có liên
quan đến mỗi tiểu mục để làm dẫn chứng cho luận điểm trong chuyên đề. Trong
một chuyên đề nghiên cứu thực tiễn, các số liệu và thông tin thực tế là rất quan
trọng, do đó phương pháp thống kê là một phương pháp không thể thiếu trong quá
trình thực hiện chuyên đề này.
- Phương pháp so sánh: So sánh quy định của các văn bản pháp luật qua

từng thời kỳ giúp tìm ra những điểm mới, điểm tiến bộ của các quy định pháp luật,
đồng thời cũng thấy được những tồn tại chưa được khắc phục; so sánh số liệu thống
kê qua từng thời kỳ để thấy được nhu cầu thực tế cũng như tốc độ gia tăng của các
nhu cầu đó; từ đó đưa ra những đánh giá khách quan, chính xác về thực tiễn cũng
như các ý kiến đề xuất hợp lý nhằm khắc phục những bất cập hiện tại.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: Qua thực tế tìm hiểu hoạt động công
chứng tại các Phòng công chứng, khảo sát ý kiến phản ánh của những người yêu
cầu công chứng cũng như ý kiến của các Công chứng viên để nhận được luồng
thông tin hai chiều về thực trạng công chứng, chứng thực đảm bảo những thông tin
và ý kiến đưa ra thực sự khách quan.


- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến những chuyên viên, những
người có chuyên môn cũng như kinh nghiệm trực tiếp làm việc cũng như trong
quản lý lĩnh vực công chứng, chứng thực. Vơí hiểu biết hạn chế về cả chuyên môn
và thực tiễn của một sinh viên thực tập, đề có một chuyên đề sâu sát với thực tế thì
ý kiến của những người có chuyên môn và kinh nghiệm là vô cùng quan trọng.
1.2.Nguồn thu thập thông tin.
Các thông tin thu thập được từ các nguồn chủ yếu sau:
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008;
- Nghị định 24/2009/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và biện pháp
thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
- Quy chế hoạt động của Bộ tư pháp;
- Dự thảo Quyết định về thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật năm
2010 của Bộ tư pháp (đang trong quá trình nghiên cứu, chưa được công bố chính
thức);
- Báo cáo tình hình triển khai Nghị quyết Trung Ương 5 khóa X về đẩy mạnh cải
cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý Nhà nước;
- Quyết định 05/2007/QĐ-TTg về quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành;

- Thông tư số 1462/ BTP-PL HSHC về việc thẩm định Dự thảo Nghị định của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khiếu nại, tố cáo;
- Thông tư số 1430/ BTP-PL HSHC về việc thẩm định Dự thảo Nghị định của
Chính phủ quy định cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng;
- Thông tư số 1489/ BTP-PL HSHC về việc thẩm định Dự thảo Nghị định của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.
2.Kết quả thu thập thông tin.
2.1.Khái niệm và vai trò của hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp
luật.


*Khái niệm: Thẩm định văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động thuộc
quy trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm
quyền tiến hành nhằm nhận xét, đánh giá về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn
bản, về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của dự thảo văn bản
trong hệ thống pháp luật hiện hành. Thẩm định văn bản cũng đưa ra những nhận xét
về chất lượng của dự thảo văn bản thông qua việc đánh giá về nội dung và kỹ thuật
soạn thảo dự thảo văn bản. Đồng thời, cơ quan tiến hành thẩm định dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật cũng đưa ra những ý kiến và đề xuất biện pháp giải quyết đối
với những vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa các cơ quan có liên quan trong quá
trình soạn thảo văn bản để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.
*Vai trò: Công tác thẩm định là một khâu không thể thiếu được của quy trình
soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Mục đích của thẩm định văn
bản là "thẩm tra" và "giám định" những vấn đề cơ bản, quan trọng trực tiếp liên
quan đến chất lượng và kỹ thuật của dự thảo văn bản được thẩm định. Hoạt động
thẩm định là khâu cuối cùng trước khi cơ quan, người có thẩm quyền chính thức
xem xét, ban hành văn bản (đối với dự thảo nghị định, nghị quyết của Chính phủ,
quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và quyết định, thông tư, chỉ thị của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ) hoặc trước khi Chính phủ xem xét, thông
qua để trình Quốc hội (đối với dự án luật, nghị quyết của Quốc hội) hoặc Uỷ ban

thường vụ Quốc hội (đối với dự án pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội) xem xét, ban hành.
2.2.Phạm vi nội dung của hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật.
Phạm vi nội dung thẩm định đối với dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật chủ yếu liên quan đến các khía cạnh pháp lý của dự án, dự thảo. Việc xác định
đúng nội dung phạm vi thẩm định có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, bảo đảm tính khả thi của văn bản, qua
đó góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật.


Cụ thể, phạm vi nội dung thẩm định văn bản quy phạm pháp luật gồm những vấn
đề sau đây:
*Sự cần thiết ban hành văn bản: Xác định xem văn bản đã thật sự cần thiết ban
hành hay chưa là vấn đề đầu tiên phải thẩm định bởi nó ảnh hưởng đến sự tồn tại
của văn bản. Những tiêu chí được dùng để đánh giá sự cần thiết này là:
- Yêu cầu quản lý nhà nước: công tác quản lý nhà nước đã thật sự đòi hỏi phải có
văn bản để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý chưa. Ví dụ, cần thiết ban
hành Nghị định của Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra chuyên
ngành du lịch để đáp ứng yêu cầu thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực du lịch.
- Yêu cầu đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoặc đối với
vấn đề mà văn bản đó điều chỉnh.
- Cũng có khi, văn bản cần được ban hành để quy định chi tiết thi hành hoặc hướng
dẫn thi hành những văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên đã ban hành. Ví dụ,
Chính phủ ban hành nghị định để quy định chi tiết thi hành luật hoặc Bộ trưởng ban
hành thông tư để hướng dẫn thi hành nghị định của Chính phủ. Văn bản thẩm định
phải thể hiện sự tán thành hoặc không tán thành về việc soạn thảo, ban hành văn
bản tại thời điểm đó với lý do hợp pháp và hợp lý
*Về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản: Xem xét đối tượng, phạm vi điều
chỉnh của văn bản nghĩa là xác định văn bản điều chỉnh đối với đối tượng nào?

Phạm vi điều chỉnh của văn bản giới hạn ở những quan hệ xã hội nào? Đây là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng vì nó ảnh hưởng đến chất lượng của dự thảo văn bản.
Tiêu chí để xem xét đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản có phù hợp với dự
thảo văn bản hay không cần dựa trên các yếu tố sau đây:
- Vấn đề, lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh;
- Hình thức văn bản được soạn thảo.


Trên cơ sở cân nhắc, đánh giá về sự rộng, hẹp, về tính đa dạng hay phức tạp của
vấn đề, lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh để kết luận đối tượng, phạm vi điều chỉnh
của dự thảo đã hợp lý chưa.
*Về sự phù hợp với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng: Đây là một
trong những nội dung quan rọng nhất của báo cáo thẩm định bởi nó bảo đảm cho
hoạt động thể chế hoá đường lối của Đảng được đúng hướng và đúng với tinh thần
các chủ trương chính sách của Đảng. Tiêu chí để đánh giá dự án, dự thảo văn bản
có phù hợp với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng hay không cần căn cứ
vào các văn kiện của Đảng (ví dụ Văn kiện Đại hội Đảng, Nghị quyết của Ban chấp
hành Trung ương Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo ý kiến kết luận của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng,
v.v.), tập trung vào những nội dung mà văn kiện đề cập có liên quan trực tiếp đến
vấn đề mà dự án, dự thảo điều chỉnh. Từ đó có sự đối chiếu, so sánh để kết luận nội
dung dự án, dự thảo có phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng hay không.
*Về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp
luật: Để thẩm định về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của nội
dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thông pháp luật hiện hành cần
xem xét, kiểm tra xem nội dung của dự thảo văn bản được thẩm định có bảo đảm
các yêu cầu sau hay không:
Một là, đối chiếu xem xét các quy định thuộc nội dung dự thảo văn bản cần thẩm
định có phù hợp với các quy định của Hiến pháp hiện hành hay không. Trong
trường hợp Hiến pháp không có quy định trực tiếp về vấn đề mà văn bản quy định

thì cần xem xét, cân nhắc xem nội dung Dự thảo văn bản có phù hợp với tinh thần
của Hiến pháp hay không. Ví dụ, khi thẩm định Dự thảo Nghị định quy định về
trình tự, thủ tục và chế độ cai nghịên bắt buộc đối với người nghiện ma tuý thì cần
khẳng định nội dung cuả văn bản phù hợp với Điều 61 Hiến pháp năm 1992 là
"Nhà nước quy định chế dộ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy
hiểm".


Hai là, cần kiểm tra, xem xét nội dung của dự thảo văn bản có bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn
hoặc ngang bằng có liên quan đến dự thảo văn bản cần thẩm định hay không. Ví
dụ, khi thẩm định Dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải thì cần kiểm tra, xem xét nội
dung của Dự thảo có phù hợp với quy định của Pháp lệnh Thanh tra ngày 1/4/1990;
Nghị định số 224/HĐBT ngày 30/6/1990 về tổ chức của hệ thống thanh tra nhà
nước và biện pháp bảo đảm hoạt động thanh tra; Nghị định số 191/HĐBT ngày
18/6/1991 của Hội đồng bộ trưởng ban hành Quy chế thanh tra viên và sử dụng
cộng tác viên thanh tra; Luật khiếu nại, tố cáo ngày 1/12/1998, Luật Giao thông
đường bộ ngày 29/6/2001, v.v.
Bảo đảm tính thống nhất của nội dung dự thảo văn bản quy phạm pháp luật với hệ
thống pháp luật hiện hành là bảo đảm sự phù hợp của các quy định hiện hành với
quy định trong dự thảo, không có tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa nội dung
của Dự thảo với các quy định hiện hành. Các quy định của dự thảo và các quy định
trong các văn bản hiện hành có liên quan tạo thành một thể thống nhất. Điều đó
cũng có nghĩa bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Bảo đảm tính đồng bộ của nội dung dự thảo với hệ thống pháp luật hiện hành nghĩa
là các quy định của dự thảo và các quy định hiện hành có sự ăn khớp nhịp nhàng và
phù hợp với nhau, không xẩy ra tình trạng mặc dù giữa các quy định này không
mâu thuẫn, chồng chéo nhưng có sự vênh váo, không ăn khớp giữa các quy định.
*Về tính khả thi của văn bản: Tính khả thi của dự thảo văn bản quy phạm pháp

luật được thẩm định có thể kết luận qua việc xem xét các khía cạnh sau đây của dự
thảo:
Một là, nội dung các quy định của dự thảo phải bảo đảm tính cụ thể, chi tiết để tổ
chức thực hiện hoặc áp dụng được trong thực tiễn;
Hai là, sự phù hợp của nội dung dự thảo với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại, nghĩa
là nội dung các quy định có thể thực hiện được trong điều kiện đời sống sinh hoạt


và ý thức xã hội mà quy phạm pháp luật đó được áp dụng. Ví dụ, quy định xử phạt
vi phạm hành chính đối với người đi xe đạp vi phạm quy định về trật tự, an toàn
giao thông với mức phạt tiền là 10.000 đồng đối với hành vi đi xe đạp trên hè phố,
trong vườn hoa hoặc trong công viên (Điều 8 khoản 1 điểm a Nghị định số 39/NĐCP ngày 13/7/2001) là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại. Một ví dụ
khác: Nghị định số ... /NĐ-CP ngày ... /12/2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 01/CP ngày 03/6/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại đã bổ sung hành vi " buôn bán hàng hoá có nhãn rách nát, không còn
nguyên vẹn hoặc nhãn mờ không đọc được nội dung " hoặc " buôn bán hàng hoá
trình bầy không đúng quy định về kích thước, vị trí, cách ghi, ngôn ngữ ". Những vi
phạm này khá phổ biến trong thực tiễn mà thực tế những người vi phạm lại hoàn
toàn chưa ý thức được đó là hành vi vi phạm pháp luật nên việc xử phạt khó thực
hiện đưọc trong thực tế.
Ba là, sự phù hợp của các quy định trong dự thảo với ý thức pháp luật của đối
tượng áp dụng văn bản;
Bốn là, phù hợp với khả năng tổ chức thực hiện các quy định thuộc nội dung dự
thảo của các cơ quan có trách nhiệm thực thi các quy định đó;
Năm là, việc kế thừa kinh nghiệm thực thi các quy định của pháp luật về những vấn
đề có liên quan đến nội dung điều chỉnh của dự thảo văn bản.
*Về kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp lý : Đây là một trong những nội dung
thẩm định cần được tiến hành cẩn thận, cụ thể, chi tiết, bảo đảm cho việc nghiên
cứu tiếp thu chỉnh lý của các cơ quan hữu quan sau này được chính xác, thoả đáng,
góp phần nâng cao chất lượng văn bản được thẩm định.

Để đánh giá kỹ thuật soạn thảo của một dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có bảo
đảm phù hợp với nội dung văn bản điều chỉnh và yêu cầu theo quy định hay không
cần căn cứ vào quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các quy
định tại Điều 5, Điều 9, Điều 27 quy định cụ thể một số nội dung trực tiếp liên quan


đến kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp lý sử dụng trong văn bản quy phạm pháp
luật.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm thực tiễn của việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá về kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ
pháp lý sử dụng trong dự thảo văn bản. Ví dụ, thông thường, cách hành văn khi
diễn đạt nội dung các quy phạm trong các điều, khoản của các dự án luật, pháp lệnh
bao giờ cũng ngắn gọn, cô đọng, dứt khoát, trong khi đó, đối với các loại văn bản
như nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ thì cách hành văn
ít mang tính mệnh lệnh mà có thêm tính chất diễn giải, hướng dẫn trong đó.
Nội dung thẩm định, đánh giá về kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
bao gồm việc nhận xét, đánh giá về kỹ thuật sắp xếp, bố cục phần, chương, mục,
điều, khoản, điểm ... của dự thảo văn bản; đánh giá về kỹ thuật diễn đạt nội dung
các quy phạm trong dự thảo, việc chuyển tải đầy đủ và toàn diện chính sách pháp
lý, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề mà văn bản điều chỉnh.
Bên cạnh đó, một nội dung đánh giá không thể thiếu là ngôn ngữ mà dự thảo văn
bản sử dụng để chuyển tải nội dung các quy phạm đã bảo đảm tính "chính xác, phổ
thông, cách diễn đạt phải đơn giản, dễ hiểu" như Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật đòi hỏi hay chưa. Thêm nữa, dự thảo văn bản có sử dụng thuật ngữ
chuyên môn hay không. Nếu văn bản có sử dụng thuật ngữ chuyên môn mà những
thuật ngữ này cần xác định rõ về nội dung thì dự thảo đã có định nghĩa trong văn
bản như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định hay chưa ...
* Về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và phương án xử lý (nếu có) : Đây là
một nội dung quan trọng của báo cáo thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật. Đối với dự án luật, pháp lệnh trình Chính phủ xem xét, thông qua để trình

Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành theo thẩm quyền và đối với
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ thì được coi là ý kiến khác nhau nếu vấn đề thuộc nội dung
dự án, dự thảo văn bản mà trong quá trình soạn thảo hoặc lấy ý kiến các Bộ, ngành


hữu quan có ý kiến không thống nhất. Mặc dù cơ quan chủ trì soạn thảo đã tổ chức
trao đổi, tham khảo ý kiến hoặc trực tiếp làm việc với đại diện các cơ quan hữu
quan về các vấn đề còn có ý kiến khác nhau đó nhưng vẫn không đi đến thống nhất.
Bởi vậy, trong Tờ trình Chính phủ cũng như hồ sơ gửi Bộ Tư pháp thẩm định, thì
những vấn đề đó được coi là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Trường hợp dự án luật, pháp lệnh Chính phủ đã thông qua và chính thức trình Uỷ
ban thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội ban hành theo thẩm quyền thì trong Tờ
trình, Chính phủ cũng có thể nêu những vấn đề thuộc nội dung dự án luật, pháp
lệnh mà trong quá trình soạn thảo Chính phủ thấy còn có nhiều ý kiến chưa thống
nhất, cần xin ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội. ở đây, chúng
tôi chỉ đề cập trường hợp dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trình Chính
phủ và gửi Bộ Tư pháp thẩm định mà trong Tờ trình Chính phủ có đề cập đến
những vấn đề thuộc nội dung dự án, dự thảo văn bản còn có ý kiến khác nhau. Đối
với những vấn đề còn có ý kiến khác nhau nêu trong Tờ trình thì cơ quan thẩm định
phải xem xét, cân nhắc và phát biểu quan điểm của mình về những vấn đề đang còn
có ý kiến khác nhau đó trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các quan
điểm, lập luận của cơ quan soạn thảo và của các bên có ý kiến khác, đồng thời cơ
quan thẩm định cũng nêu rõ quan điểm riêng của mình cùng với phương án giải
quyết đối với những vấn đề khác nhau đó.
2.3.Trách nhiệm của Bộ tư pháp trong việc thẩm định dự án, dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật.
-Tổ chức thẩm định dự án, dự thảo đúng thời hạn; đảm bảo chất lượng của báo cáo
thẩm định;
-Tổ chức nghiên cứu các nội dụng liên quan đến dự án, dự thảo;

-Tổ chức các hội thảo về nội dung của văn bản được thẩm định trước khi nhận hồ
sơ thẩm định;
-Tổ chức cuộc họp tư vấn thẩm định có sự tham gia của cơ quan, tổ chức có liên
quan, các chuyên gia, nhà khoa học;


-Tham gia với cơ quan chủ trì soạn thảo khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội
dung của dự án, dự thảo;
-Tham gia các hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập trong quá trình soạn thảo
dự án, dự thảo;
-Đề nghị các bộ, cơ quan cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cử đại diện
phối hợp thẩm định;
-Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo thuyết trình về dự án, dự thảo và cung cấp thông
tin, tài liệu có liên quan đến dự án, dự thảo;
-Mời đại diện các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học có liên quan tham
gia hoạt động thẩm định.


Phần ba: Kết quả xử lý thông tin đã thu thập được
Từ những thông tin thu thập được trong quá trình thực tập, với khuôn khổ
của một bản báo cáo, em xin được phân tích quy trình hoạt động thẩm định văn bản
quy phạm pháp luật của Bộ tư pháp:
1.Tiếp nhận hồ sơ thẩm định.
-Văn phòng Bộ Tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của hồ

sơ thẩm định. Khi nhận được hồ sơ gửi đến, bộ phận Văn thư của Văn phòng phải
ghi rõ số đăng ký, ngày nhận vào hồ sơ và Sổ theo dõi Công văn đến và chuyển cho
bộ phận Tổng hợp để kiểm tra tính hợp lệ, vào "Sổ theo dõi hồ sơ thẩm định" và lập
Phiếu chỉ đạo thẩm định, tham gia ý kiến trình Lãnh đạo Bộ cùng hồ sơ để phân
công thẩm định. Thời gian từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi trình Lãnh đạo Bộ không

được quá 4 giờ làm việc
-Hồ sơ dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ quan ngang Bộ
chủ trì soạn thảo gửi đến Bộ Tư pháp để thẩm định bao gồm:
+Công văn yêu cầu thẩm định;
+Tờ trình Chính phủ về dự án, dự thảo do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ ký và đóng dấu;
+Dự án, dự thảo cuối cùng được cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định trình Chính
phủ xem xét;
+Bản tập hợp ý kiến của các Bộ, ngành về dự án, dự thảo đó;
+Bản thuyết trình chi tiết về dự án, dự thảo và dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành
(nếu có).
2.Thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong trường
hợp thành lập hội đồng thẩm định.
-Hội đồng thẩm định được thành lập trong các trường hợp sau đây:


+Thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị định có nội dung phức tạp và liên quan đến
nhiều ngành, lĩnh vực;
+Thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị định của Chính phủ do Bộ Tư pháp chủ trì soạn
thảo.
- Đơn vị chủ trì tổ chức việc thẩm định đề xuất việc thành lập Hội đồng thẩm
định, dự kiến các thành viên của Hội đồng thẩm định, thời gian tổ chức cuộc họp
Hội đồng thẩm định trình Lãnh đạo Bộ xem xét, quyết định. Số lượng, thành phần
Hội đồng thẩm định thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật và Chương IV Nghị định số 24/2009/NĐ-CP.
Đơn vị chủ trì tổ chức thẩm định có trách nhiệm gửi quyết định thành lập Hội đồng
thẩm định cùng hồ sơ thẩm định tới từng thành viên của Hội đồng; gửi giấy mời
họp tới thành viên Hội đồng thẩm định và cơ quan chủ trì soạn thảo.

- Cuộc họp thẩm định của Hội đồng thẩm định: Cuộc họp thẩm định dự án, dự
thảo do Chủ tịch Hội đồng thẩm định triệu tập và chủ tọa. Cuộc họp thẩm định chỉ
được tiến hành trong trường hợp có mặt ít nhất 1/2 (một phần hai) tổng số thành
viên của Hội đồng thẩm định. Chủ tịch Hội đồng thẩm định chỉ định Thư ký cuộc
họp là chuyên viên của đơn vị chủ trì tổ chức thẩm định.
Trong trường hợp không thể tham gia cuộc họp thẩm định, thành viên Hội đồng
thẩm định phải gửi Chủ tịch Hội đồng thẩm định ý kiến thẩm định của mình bằng
văn bản.
Thư ký Hội đồng thẩm định có trách nhiệm ghi biên bản cuộc họp của Hội đồng
thẩm định. Biên bản phải ghi đầy đủ những vấn đề được thảo luận, các ý kiến phát
biểu tại cuộc họp và kết luận của Chủ tịch Hội đồng thẩm định. Biên bản cuộc họp
phải được Chủ tịch và Thư ký Hội đồng thẩm định ký.
- Chuẩn bị báo cáo thẩm định: Trên cơ sở biên bản cuộc họp của Hội đồng thẩm
định, ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng thẩm định, căn cứ vào nội dung thẩm


định quy định tại khoản 3 Điều 36 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
và tiêu chí thẩm định, đơn vị chủ trì tổ chức thẩm định có trách nhiệm xây dựng dự
thảo báo cáo thẩm định trình Chủ tịch Hội đồng thẩm định.
3. Thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trong trường
hợp không thành lập hội đồng thẩm định.
-Tổ chức thẩm định tại các đơn vị
+Lãnh đạo đơn vị được phân công thẩm định văn bản giao nhóm chuyên viên hoặc
Phòng thuộc đơn vị nghiên cứu, thẩm định văn bản, trong đó chuyên viên, Trưởng
phòng, hoặc Phó trưởng phòng đã trực tiếp tham gia soạn thảo dự án, dự thảo được
cử làm Báo cáo viên.
Cuộc họp trong nội bộ đơn vị thẩm định được tổ chức có sự tham gia của các
chuyên viên được phân công nghiên cứu dự án, dự thảo văn bản được thẩm định.
Tuỳ theo tính chất của dự án, dự thảo được thẩm định, lãnh đạo đơn vị có thể triệu
tập các chuyên viên khác thuộc nhóm nghiên cứu, toàn thể đơn vị tham gia cuộc

họp hoặc thảo luận trong phạm vi lãnh đạo đơn vị.
+Đối với dự án, dự thảo còn có nội dung chưa rõ ràng hoặc còn nhiều vấn đề có ý
kiến khác nhau, thì thủ trưởng đơn vị chủ trì tổ chức thẩm định chủ động liên hệ
với cơ quan chủ trì soạn thảo đề nghị thuyết trình về dự án, dự thảo hoặc cung cấp
thêm thông tin và tài liệu có liên quan đến dự án, dự thảo.
+Thủ trưởng đơn vị phối hợp thẩm định có trách nhiệm cử chuyên viên trực tiếp
tham gia thẩm định hoặc tổ chức nghiên cứu dự thảo trong đơn vị mình và gửi ý
kiến tham gia bằng văn bản đến đơn vị chủ trì tổ chức thẩm định.
-Tổ chức cuộc họp tư vấn thẩm định
+Trong trường hợp không thành lập Hội đồng thẩm định, theo đề xuất của đơn vị
chủ trì tổ chức thẩm định, Thứ trưởng phụ trách quyết định tổ chức cuộc họp tư vấn
thẩm định có sự tham gia của đại diện các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, đại diện cơ
quan chủ trì soạn thảo, các nhà quản lý, nhà khoa học và chuyên gia am hiểu về vấn
đề chuyên môn thuộc nội dung dự án, dự thảo.


+Đối với dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ có nội dung phức tạp, liên
quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thì đơn vị chủ trì tổ chức thẩm định tổ chức
cuộc họp tư vấn thẩm định có sự tham gia của đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo,
các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Tư pháp, đại diện các cơ quan, tổ chức có liên
quan, các chuyên gia, nhà khoa học.
-Chuẩn bị dự thảo báo cáo thẩm định
+Căn cứ vào nội dung thẩm định quy định tại khoản 3 Điều 36 của Luật ban hành
văn bản và tiêu chí thẩm định, ý kiến của các đơn vị phối hợp thẩm định, trên cơ sở
kết luận của chủ toạ cuộc họp tư vấn thẩm định (nếu có), đơn vị chủ trì tổ chức
thẩm định có trách nhiệm chuẩn bị dự thảo báo cáo thẩm định.
+Trong quá trình chuẩn bị dự thảo báo cáo thẩm định, nếu có vấn đề vướng mắc thì
lãnh đạo đơn vị chủ trì tổ chức thẩm định phải kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo
của Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng phụ trách.
+Ý kiến thẩm định của các đơn vị phối hợp thẩm định và biên bản cuộc họp tư vấn

thẩm định phải được đưa vào hồ sơ trình Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng. Khi trình dự
thảo báo cáo thẩm định, lãnh đạo đơn vị chủ trì tổ chức thẩm định phải ký tắt vào
dự thảo báo cáo thẩm định.


Phần bốn: Nhận xét và kiến nghị
1.Nhận xét về hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Bộ
tư pháp.
Xét một cách tổng thể, hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của
Bộ tư pháp đã và đang đạt được những kết quả rất khả quan. Trong hoạt động xây
dựng pháp luật, bên cạnh vai trò là cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản được
giao, Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định các dự án, dự thảo do các bộ, cơ quan
ngang bộ khác chủ trì soạn thảo. Tính từ ngày 1 tháng 1 năm 2008 đến nay, Bộ Tư
pháp đã thẩm định được 397 dự án, dự thảo văn bản; góp ý được 631 dự án, dự
thảo văn bản do các bộ, ngành, địa phương, tổ chức gửi đến. Điều này cho thấy
được năng lực chuyên môn, cũng như những nỗ lực của Bộ tư pháp trong hoạt động
thẩm định, tương xứng với vai trò và trách nhiệm được giao phó.
Với mục đích đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng thẩm định, góp ý văn
bản quy phạm pháp luật, Bộ đã phân công cụ thể nhiệm vụ thẩm định dự thảo các
văn bản quy phạm pháp luật cho các đơn vị chức năng, cải tiến quy trình thẩm định
theo hướng tăng cường sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, giữa cơ
quan thẩm định, cơ quan chủ trì soạn thảo với các cơ quan, tổ chức liên quan; rút
ngắn thời gian thẩm định từ 30 ngày đối với dự án luật, pháp lệnh xuống còn 20
ngày, từ 30 ngày đối với dự thảo nghị định xuống còn 15 ngày; rút ngắn thời gian
tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ góp ý, thẩm định, đề cao trách nhiệm của thủ trưởng
đơn vị chủ trì thực hiện.
Nhìn chung, công tác thẩm định văn bản pháp luật của Bộ đã có những
chuyển biến tích cực, về cơ bản đáp ứng yêu cầu về chất lượng và tiến độ; ý kiến
thẩm định đã bám sát nội dung thẩm định theo quy định; nhiều ý kiến thẩm định đã
chú trọng đến tính phản biện, phát hiện những vấn đề ở tầm chính sách vì thế được

các cơ quan chủ trì soạn thảo đồng tình tiếp thu. Thông qua hoạt động góp ý, thẩm
văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp đã phát hiện và kiến nghị chỉnh lý nhiều
vấn đề thuộc nội dung của nhiều dự án, dự thảo văn bản chưa bảo đảm tính hợp


hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, không phù hợp
với tình hình thực tế, góp phần xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
đồng bộ, hoàn chỉnh, thống nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, có tính khả thi
phục vụ có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
2.Kiến nghị.
Những thành tựu mà hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của
Bộ tư pháp là rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, để giữ vững được cũng như nâng cao
thêm hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, thiết nghĩ Bộ tư pháp cần
lưu ý và giải quyết những vấn đề sau đây:
*Cần coi trọng nội dung đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức vì tất cả các nội
dung thẩm định văn bản quy phạm pháp luật muốn thành công đều cần đến yếu tố
con người. Để làm được tốt điều này cần xác định hệ thống vị trí việc làm cơ sở
cho việc tuyển dụng và bổ nhiệm nguồn nhân lực đúng với khả năng họ được đào
tạo ứng với yêu cầu của công việc; có các tiêu chí rõ ràng về đánh giá cán bộ, công
chức để khuyến khích, động viên họ hăng say công tác; có chính sách khuyến
khích, đãi ngộ thoả đáng với những người có tài, có đức hoạt động trong bộ máy
quản lý hành chính nhà nước, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác. Một trong
những giải pháp quan trọng là phải sửa đổi những định mức, quy định về tiền
lương, chi tiêu nhằm mục đích khuyến khích người lao động và phù hợp với thực
tế.
*Cần cải cách hành chính, thay đổi những thủ tục hành chính chưa hợp lý,
gây ảnh hưởng tới quy trình thẩm định văn bản quy phạm pháp luật. Cần có sự
nghiên cứu tổng kết toàn diện các nội dung Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước Giai đoạn 2001-2010; trên cơ sở đó, xây dựng nội dung Chương
trình, Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn sau 2010 một cách khoa học, hiệu

quả, phù hợp với thực tiễn của từng thời gian cụ thể. Chuẩn bị đầy đủ mọi nguồn
lực một cách tập trung thông qua bộ máy làm công tác cải cách hành chính được tổ
chức thống nhất, đồng bộ, hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở. Tăng cường công tác


tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các nội dung cải cách hành chính đến toàn thể cán
bộ, công chức trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và cả các doanh
nghiệp nhằm đưa chủ trương, chính sách và Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống.


Danh mục tài liệu tham khảo
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008;
- Nghị định 24/2009/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và biện pháp
thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
- Quy chế hoạt động của Bộ tư pháp;
- Dự thảo Quyết định về thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật năm
2010 của Bộ tư pháp (đang trong quá trình nghiên cứu, chưa được công bố chính
thức);
- Báo cáo tình hình triển khai Nghị quyết Trung Ương 5 khóa X về đẩy mạnh cải
cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý Nhà nước;
- Quyết định 05/2007/QĐ-TTg về quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành;
- Thông tư số 1462/ BTP-PL HSHC về việc thẩm định Dự thảo Nghị định của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khiếu nại, tố cáo;
- Thông tư số 1430/ BTP-PL HSHC về việc thẩm định Dự thảo Nghị định của
Chính phủ quy định cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng;
- Thông tư số 1489/ BTP-PL HSHC về việc thẩm định Dự thảo Nghị định của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại;
- Các tạp chí về pháp luật: Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, Đặc san Tuyên truyền pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam;

-Và các thông tin trên website của Bộ tư pháp:




×