Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

đánh giá những quy định trong lĩnh vực dân sự của bộ luật hammurabi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.91 KB, 7 trang )

I. Đặt vấn đề
Lưỡng Hà, đúng như tên gọi của nó, nằm ở lưu vực hai con sông Tigoro
và Ophrat. Vị trí đó gồm chủ yếu lãnh thổ của Iran và Iraq hiện nay. Nếu như Ai
Cập cổ đại gần như bị cô lập giữa biển và sa mạc, chỉ có mỗi con đường Đông
Bắc thông với châu Á thì trái lại Lưỡng Hà là nơi gặp nhau của nhiều con
đường Đông - Tây, Nam - Bắc. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Lưỡng Hà
phát triển về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa và trở thành một trong những
trung tâm văn minh của thế giới cổ đại.
Nền kinh tế hàng hóa Lưỡng Hà xuất hiện sớm và phát triên bậc nhất ở
phương Đông cổ đại nên luật pháp Lưỡng Hà cũng phát triển nổi trội hơn so với
các vùng khác. Ngày nay, các nhà khảo cổ học đã phát hiện tháy một số văn bản
pháp luật Lưỡng Hà - đó là những văn bản về mua bán ruộng đất và một vài bộ
luật. Trong đó, bộ luật Hammurabi có giá trị lớn nhất.
Bộ luật Hammurabi được kết cấu với ba phần mở đầu, nội dung và kết
luận. Nội dung bộ luật bắt nguồn từ sự kế thừa những bộ luật trước đó của
nhiều quốc gia ở Lưỡng Hà, cụ thể là những pháp điển của người Xume (chủ
nhân của những quốc gia đó). Bộ luật còn chứa đựng những luật lệnh của vua
Hammurabi và nhiều quyết định của tòa án cao cấp. Với 282 điều khoản cụ thể,
điều chỉnh hầu hết những quan hệ xã hội thời Babilon cổ, từ quan hệ pháp luật
hình sự, tố tụng... và trong đó, quan hệ pháp luật dân sự chiếm một tỷ lệ tương
đối lớn trong bộ luật Hammurabi. Các quy định này chủ yếu tập trung xử lý
những vấn đề phát sinh từ quan hệ tài sản giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội
Lưỡng Hà cổ đại.

II. Nội dung
1. Khái quát chung về Bộ luật Hammurabi
BỘ LUẬT HAMMURABI - BỘ LUẬT CỔ XƯA NHẤT THẾ GIỚI:
Về nguồn gốc: Bộ luật Hammurabi là văn bản luật cổ nhất còn được bảo
tồn tốt, được tạo ra vào khoảng thập niên 1760 TCN ở Babylon cổ đại. Nó được
vị vua thứ sáu của Babylon là Hammurabi ban hành. Chỉ còn một một phần của
bộ luật này tồn tại cho tới nay, được khắc trên một bia đá bazan cao khoảng


1


2,44 m (8 ft). Nguyên thủy, một lượng bia đá kiểu như vậy có thể đã được đặt
trong các đền miếu tại một số nơi của đế quốc này. Bia đá chứa văn bản của bộ
luật Hammurabi được nhà Ai Cập học người Pháp là Gustave Jéquier, thành
viên của đoàn thám hiểm do Jacques de Morgan chỉ huy, phát hiện tháng 12
năm 1901. Bia đá này được phát hiện tại khu vực ngày nay là tỉnh Khuzestan
(tên gọi cổ đại là Elam) của Iran, nơi nó được vua Elam là Shutruk-Nahhunte
chiếm giữ trong thế kỷ 12 TCN như là của cướp được. Hiện nay nó được đặt
trong viện bảo tàng Louvre ở Paris. Phần trên của bia đá là hình chạm nổi thấp
thượng đế của người Babylon (hoặc là Marduk hoặc là Shamash), với vua
Babylon đang bệ kiến thượng đế và tay phải của ông đưa lên miệng như là dấu
hiệu của lòng tôn kính. Văn bản của bộ luật chiếm phần dưới, được viết bằng
văn tự hình nêm trong tiếng Babylon cổ. Văn bản được các nhà phiên dịch tách
ra thành 282 luật, nhưng sự phân chia này là tùy hứng, do văn bản gốc không có
các dấu hiệu phân chia.
Các điều luật được sắp xếp theo một thứ tự có hệ thống: các điều luật về
toà án, sở hữu; về hôn nhân và gia đình; về các công cụ lao động; về bảo vệ tính
mạng cá nhân… Đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật
hình, bao gồm các qui phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế
tài, chủ yếu điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích của giai cấp
thống trị. Bộ luật này điều chỉnh hầu hết những quan hệ xã hội thời Babilon cổ.
2. Lĩnh vực luật dân sự trong Bộ luật Hammurabi
Bên cạnh các quy định điều chỉnh quan hệ hình sự thì các quy định điều
chỉnh quan hệ dân sự cũng chiếm một tỉ lệ lớn trong Bộ luật Hammurabi.
Những điểm tiến bộ, đặc sắc nhất của Bộ luật này chính là các quy định về dân
sự. Các quy định chủ yếu tập trung xử lý những vấn đề phát sinh từ quan hệ tài
sản giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội Lưỡng Hà cổ đại. Bộ luật Hammurabi
ít có các quy định điều chỉnh quan hệ nhân thân, nếu có cũng chỉ trong lĩnh vực

hôn nhân, gia đình. Các quyền về nhân thân hầu như vắng bóng trong Bộ luật.
Ngoài ra, bộ luật đã đặc biệt chú ý điều chỉnh quan hệ hợp đồng, vì đây là quan
hệ phổ biến ở xã hội Lưỡng Hà cổ đại, có nhiều qui định không những tiến bộ
về nội dung, mà còn chặt chẽ về kĩ thuật lập pháp.
2.1. Chủ thể trong lĩnh vực Luật Dân sự trong Bộ luật Hammurabi
2


Bộ luật Hammurabi chỉ thừa nhận một chủ thể duy nhất là cá nhân. Trong
Bộ luật, không thấy có điều luật nào nhắc đến pháp nhân hay các tổ chức khác
như là chủ thể của các quan hệ pháp luật. Để có thể trở thành chủ thể quan hệ
pháp luật dân sự, các cá nhân phải có năng lực chủ thể. Trong Bộ luật
Hammurabi, năng lực chủ thể của cá nhân phụ thuộc vào độ tuổi và địa vị pháp
lý của cá nhân đó. Bộ luật không quy định rõ người bao nhiêu tuổi thì có thể
độc lập tham gia vào các quan hệ dân sự nhưng có nhiều điều luật quy định
“người chưa trưởng thành” không được quyền trực tiếp quản lý tài sản thuộc sở
hữu của mình, không được tùy ý tham gia các giao dịch dân sự thông dụng...
Có thế nói, trong thời kỳ, để xác định tư cách chủ thể của cá nhân thì phải
dựa vào đặc điểm chế độ gia đình ở Lưỡng Hà – mô hình gia trưởng. Người cha
có quyền hành tuyệt đối, vợ và con là những người phụ thuộc. Chỉ khi người
con trai của gia chủ khi đến tuổi được cha gả vợ thì anh ra sẽ trở thành chủ gia
đình nhỏ của anh ta. Vì vậy có thể thấy hành vi của cá nhân có lẽ sẽ được coi là
đầy đủ khi cá nhân dó trở thành người gia chủ của gia đình, tức là được tính từ
thời điểm anh ta lấy vợ.
Một điểm tiến bộ của Bộ luật Hammurabi so với pháp luật phương Tây
cổ đại là nô lệ đã được coi như một chủ thế pháp luật tuy chỉ là hạn chế (người
nô lệ trong pháp luật phương Tây cổ đại chỉ là khách thể của pháp luật). Trong
xã hội Lưỡng Hà, địa vị pháp lý của nô lệ không quá thấp kém như trong chế độ
nô lệ điển hình ở Hy Lạp và La Mã cổ đại. Theo quy định của Bộ luật
Hammurabi, người nô lệ cũng có quyền được chữa bệnh khi bị ốm và phần nào

cũng được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe.
Tuy vậy, địa vị của người nô lệ so với người tự do còn thua kém hơn rất
nhiều. Về mặt pháp lý, họ có 2 tư cách:
-Tư cách là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, do chủ nô bỏ tiền mua về.
-Tư cách là một chủ thể hạn chế của pháp luật.
2.2. Chế định sở hữu tài sản
- Tài sản của chủ nô và nói chung là của mọi người tự do bao gồm có
người nô lệ và các loại tài sản khác. Mặt khác còn có thể chia tài sản của người
Lưỡng Hà cổ đại thành hai loại: động sản và bất động sản. Nhìn chung, những
người xây dựng Bộ luật Hammurabi đặt rất nhiều mối quan tâm của họ vào loại
3


tài sản là bất động sản. Có thể giải thích được bởi trong xã hội cổ đại bất động
sản chủ yếu là đất đai là loại tư liệu sản xuất quan trọng nhất và cũng là loại tài
sản có giá trị lớn nhất.
- Quan điểm của người Lưỡng Hà cổ đại là đề cao các quyền năng của
chủ sở hữu. Chủ sở hữu được toàn quyền định đoạt số phận thực tế cũng như số
phận pháp lý tài sản của mình. Ví dụ như Điều 9 và Điều 179 của Bộ luật. Bộ
luật này cũng có những quy định về việc quản lý, sử dụng tài sản của những
người không phải là chủ sở hữu đó là trường hợp chủ tài sản vắng nhà. Ví dụ
như Điều 177 của Bộ luật.
2.3. Chế định hợp đồng
a. Hợp đồng mua bán tài sản
Hợp đồng mua bán tài sản là loại giao dịch dân sự phổ biến trong xã hội
Lưỡng Hà cổ đại. Về chế định hợp đồng, Luật qui định ba điều kiện bắt buộc
đối với hợp đồng mua bán:
- Đối tượng của hợp đồng mua bán phải là tài sản hợp pháp. Nếu tài sản
được đem ra mua bán là của ăn cắp thì hợp đồng mua bán vô hiệu (Điều 9, 10
Bộ luật).

- Người tham gia mua bán phải có năng lực chủ thể và phải là chủ sở hữu
hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền (Điều 7, Điều 177 Bộ luật).
- Việc giao kết hợp đồng phải được lập thành văn bản và có người làm
chứng (Điều 9 Bộ luật).
Các điều kiện trên chứng tỏ giá trị thực tiễn của bộ luật và thể hiện trình
độ làm luật của người Lưỡng Hà cổ đại đã khá cao. Các chế tài của hợp đồng
thường là chế tài hình sự. Bộ luật quy định nếu người bán bị người làm chứng
tố cáo vật bán là của người khác thì sẽ vị tử hình. Ngược lại nếu có người nhận
vật bán là của mình bị mất và người nhận đó không có người nhười làm chứng
viết đồ vật đó thì người nhận đó cũng bị tử hình vì tội vu khống (Điều 9 và Điều
11 Bộ luật).
b. Hợp đồng vay mượn
Hợp đồng cho vay tài sản cũng là loại hợp đồng rất phổ biến trong xã hội
Lưỡng Hà cổ đại. Đối với loại hợp đồng này, nhà làm luật Lưỡng Hà cổ đại tập
trung bảo vệ quyền lợi của hai bên vay nợ, trước hết là quyền lợi của chủ nợ.
4


Bộ luật quy định mức lãi tối đa của hợp đồng vay tiền là 1/5, vay thóc là 1/3.
Chủ nợ có quyền giữ người mắc nợ và các thành viên trong gia đình người nợ
để làm con tin, hoặc giữ những bất động sản (Điều 115, Điều 117). Ngoài ra
trong Bộ luật này còn rất nhiều các điều luật nói về vấn đề này nhưng chủ yếu
đều là để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ ví dụ như Điều 48, Điều 49, Điều 51,
Điều 52, Điều 116,…
c. Hợp đồng lĩnh canh ruộng đất
Trong Bộ luật Hammurabi, quan hệ lĩnh canh ruộng đất được điều chỉnh
khá chi tiết. Nhà làm luật phân biệt hai loại hợp đồng lĩnh canh là lĩnh canh thu
tô trước và lĩnh canh thu tô sau. Căn cứ để phân biệt hai loại hợp đồng lĩnh canh
nói trên là thời điểm thu tô diễn ra trước hay sau vụ mùa. Điều 45 quy định:
“Dân tự do đem ruộng đất của mình phát canh cho nông dân, và đã thu tiền thuê

ruộng mà về sau thần A dát làm ngập ruộng hoặc lụt phá hủy mất hoa màu, thì
người nông dân thuê ruộng phải chịu sự thiệt hại đó”. Điều 46: “Nếu người này
không thu tiền thuê ruộng, mà sẽ căn cứ theo thu hoạch để thu tô 1/2 hay 1/3 thì
thu hoạch của ruộng đất sẽ do nông dân và chủ ruộng căn cứ theo tỉ lệ đã định
để chia nhau”. Ngoài ra còn có những Điều luật khác quy định về vấn đề này
như Điều 42, Điều 43, Điều 44, Điều 47. Tất cả những chế định trên đều nhằm
bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị.
2.4. Chế định về thừa kế tài sản
Theo Bộ luật, thừa kế có hai hình thức là thừa kế theo pháp luật và thừa
kế theo di chúc quy định trong Điều 169 và Điều 170 Bộ luật.
Thừa kế theo pháp luật: Nếu người cho thừa kế không để lại di chúc thì
tài sản được chuyển đến cho những người có quyền đối với tài sản đó theo luật
định. Thời gian đầu tài sản tập trung ở dòng họ và dần dần được chuyển về gia
đình có quyền thừa kế và thành tài sản chung của gia đình. Đó là cách thừa kế
theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc: Bộ luật đã hạn chế quyền tự do của người viết di
chúc như qui định người cha không được tước quyền thừa kế của con trai nếu
người con mới phạm lỗi lần đầu và lỗi không nghiêm trọng. Con trai, con gái
đều được hưởng quyền thừa kế ngang nhau.
2.5. Vấn đề đại diện thương mại
5


Vào thời đại Hammurabi, ở Lưỡng Hà cổ đại, hoạt động của các thương
nhân ở trong nước cũng như ở nước ngoài đều được mở rộng. Các
hoạt động của họ đều cần đến sự điều chỉnh của pháp luật với tư cách là sự bảo
hộ cần thiết từ phái nhà nước cho các thương nhân và người đại diện của họ. Vì
vậy trong Bộ luật Hammurabi cũng có những Điều luật quy định về hoạt động
của thương nhân: Điều 102, Điều 103, Điêu 104, Điều 107,… Theo đó thì việc
buôn bán nước ngoài của thương nhân được ủy quyền cho người đại diện là

những người gia nhân của họ, lợi ích của thương nhân thì luôn được bảo vệ,
trong mọi trường hợp bốn của thương nhân đều được bảo tồn; người gia nhân
chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp làm thất thoát số vốn đó nếu thiệt
hại xảy ra có nguyên nhân từ sự kiện bất khả kháng. Các điều luật còn quy định
cụ thể mối quan hệ trách nhiệm giữa thương nhân và người gia nhân trong việc
giao nhận tiền vốn cũng như tiền thu được từ kết quả hoạt động kinh doanh. Ai
nào có hành vi gian dối gây thiệt hại cho bên kia đều bị trừng phạt.
2.6. Những quy định điều chỉnh quan hệ lao động
Các hoạt động thuê mướn lao động được đề cập rất nhiều trong Bộ luật
Hammurabi. Người ta có thể thuê mướn lao động trồng trọt ngoài cánh đồng
(Điều 257 Bộ luật), sửa chữa tàu thuyển (Điều 234 Bộ luật) và làm các nghề thủ
công (Điều 274 Bộ luật)…Đối với quan hệ lao động thì Bộ luật này chủ yếu tập
trung điều chỉnh hai vấn đề là tiền công trả cho người lao động (thông thường là
trả theo ngày công) và vấn đề bồi thường thiệt hại của người lao động cho
người thuê lao động do những bất cẩn trong quá trình làm công gây ra. Từ đó ta
có thể thấy về thực chết quan hệ lao động chỉ được xem như một dạng quan hệ
hợp đồng dịch vụ thông thường.

III. Kết luận
Bộ luật Hammurabi là Bộ luật thành văn cổ nhất trên thế giới, là một
trong những thành tựu có giá trị bậc nhất của lịch sử văn minh cổ đại. Giá trị
của Bộ luật này cho đến nay vẫn tiếp tục được nhiều nhà khoa học tập trung
nghiên cứu, khai thác và kế thừa. Bộ luật đã xây dựng rất công phu, điều chỉnh
và phản ánh một cách sinh động các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá - xã
hội của vương quốc Babylon. Bộ luật không chỉ có giá trị về nghiên cứu pháp lý
mà còn là nguồn cứ liệu lịch sử phong phú, quý giá để nghiên cứu nền văn hoá
6


Babylon - Lưỡng Hà cổ đại. Vượt ra khỏi hạn chế về tính giai cấp, có thể thấy

chứa đựng trong nhiều quy phạm của Bộ luật dù ở dạng thức sơ khai nhất, cổ
xưa nhất vẫn hằng chứa đậm nét những giá trị tiến bộ, nhân văn, đặc biệt là về
kĩ thuật lập pháp trong các qui định từ hình sự, tố tụng và đặc biệt là các quan
hệ pháp luật dân sự.
Lĩnh vực Luật dân sự của bộ luật chiếm một tỉ lệ rất lớn trong bộ luật này,
nó đã chạm đến hầu hết các lĩnh vực trong xã hội, đạt được khá nhiều điểm phát
triển tiến bộ và cho đến ngày nay nó đã trở thành một nguồn tư liệu quý báu và
phong phú để nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế, xã hội cổ Babylon. Gấp bộ
luật lại, nhìn vào cuộc sống và suy ngẫm ta thấy không khỏi ngạc nhiên và trân
trọng những giá trị lịch sử pháp lý của bộ luật, những qui định ra đời cách đây
gần 4000 năm vẫn chứa đựng nhiều giá trị đương đại đáng kế thừa, và phát
triển.

7



×