Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.97 KB, 8 trang )

MỞ ĐẦU
Theo báo cáo năm 2011 của Bộ Tư pháp: Bộ Tư pháp đã phát hiện có khoảng
30% văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Trung ương chưa phù hợp với
quy định của pháp luật, còn ở các địa phương thì số lượng văn bản chưa phù hợp
chiếm 8%. Có thể nói, số lượng này cho thấy một tình trạng đáng báo động. Dù văn
bản quy phạm có một trình tự xây dựng và ban hành chặt chẽ. Sai phạm này xuất
hiện không thể không kể đến trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền trong thẩm
tra và thẩm định dự thảo văn bản. Về bản chất, thẩm định và thẩm tra dự thảo văn
bản pháp luật là một hoạt động pháp lý mang những nét đặc trưng cơ bản của hoạt
động xây dựng pháp luật, phải do cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền
tiến hành và phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục nhất định theo quy định pháp luật.
Với tầm quan trọng đặc trưng đó, bài viết em xin trình bày về đề tài “Trách nhiệm
của các chủ thể trong việc thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật”.
NỘI DUNG
I/ Khái quát về hoạt động thẩm tra, thẩm định:
1. Khái niệm hoạt động thẩm tra, thẩm định:
Dưới góc độ pháp lý, theo Từ điển luật học do Viện khoa học pháp lý Bộ Tư
pháp biên soạn: “ thẩm định có nghĩa là việc xem xét, đánh giá và đưa ra kết luận
mang tính pháp lý bằng văn bản về một vấn đề nào đó. Hoạt động này do tổ chức
hoặc cá nhân có chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện…Việc thẩm định có thể tiến hành
với nhiều đối tượng khác nhau như: thẩm định dự án, thẩm định báo cáo, thẩm
định hồ sơ, thẩm định thiết kế, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật…”
Trên thực tế, xét một cách cụ thể, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật được hiểu là hoạt động nghiên cứu, xem xét, đánh giá về nội dung và hình thức,
kỹ thuật soạn thảo đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo nội
dung, trình tự, thủ tục do luật định nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính
thống nhất và đồng bộ của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.
Theo Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ban hành theo
Quyết định số 05/2007/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ, hoạt
động thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động “xem xét, đánh


giá về nội dung, hình thức của dự án, dự thảo nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp, tính thống nhất, đồng bộ của dự án, dự thảo trong hệ thống pháp luật”. Định
nghĩa đã thể hiện rõ nét bản chất cũng như đặc trưng của hoạt động thẩm định.
Hoạt động thẩm tra, theo Từ điển Luật học định nghĩa: “ thẩm tra là việc xem
xét lại kỹ lưỡng dự án luật, pháp lệnh do Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật hoặc
một Ủy ban hữu quan của Quốc hội hay một Ủy ban lâm thời được Quốc hội chỉ
định tiến hành trước khi trình Ủy ban thường vụ Quốc hội. Cơ quan thẩm tra xem
xét cả về hình thức và nội dung nhưng tập trung chủ yếu vào xem xét sự phù hợp
với chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp; đối tượng, nội
dung, phạm vi và tính khả thi của dự án”. Định nghĩa cho ta cách hiểu tổng quan và
1


chính xác nhất về hoạt động thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Qua đó,
có thể hiểu thẩm tra là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành kiểm tra,
đánh giá dự thảo theo những tiêu chí nhất định, những chuẩn mực của văn bản dưới
góc độ pháp lý.
Từ những khái quát và định nghĩa trên có thể thấy, thẩm định và thẩm tra đều
là những hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xem xét, đánh giá dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật về tính khả thi, tính hợp lý, hợp hiến, hợp pháp, ngôn
ngữ và quy trình soạn thảo… trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hợp lý đối với cơ
quan chủ trì soạn thảo cũng như cơ quan có thẩm quyền thông qua.
2. Vai trò của hoạt động thẩm tra, thẩm định:
Thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm
quyền là một giai đoạn quan trọng, không thể thiếu trong quá trình ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Đây là khâu cuối cùng trước khi cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền chính thức xem xét, ban hành văn bản.
Hoạt động thẩm tra, thẩm định còn là căn cứ, cơ sở, chuẩn mực đánh giá dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật, góp phần đảm bảo tính khả thi của văn bản pháp
luật. Đóng góp cho việc nâng cao trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, kịp thời tham

vấn, hoàn thiện về chất lượng cũng như kỹ năng cho cơ quan chủ trì soạn thảo; đảm
bảo chất lượng, hiệu quả cho hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây
còn là cơ chế duy trì, nâng cao sự phối hợp, giám sát lẫn nhau của các cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật – một khía cạnh
của hoạt động quản lý nhà nước.
Hoạt động thẩm tra, thẩm định có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong hoạt
động xây dựng pháp luật. Điều đó thể hiện rõ nét khi hiện nay số lượng dự án luật,
pháp lệnh do Chính phủ trình chiếm tới hơn 90%. Ủy ban pháp luật cũng giữ vai trò
đặc biệt quan trọng trong công tác thẩm tra. Quốc hội khóa IX đã thông qua 41 Luật
thì Ủy ban pháp luật của Quốc hội chủ trì thẩm tra 18 Luật, chiếm 43% số Luật
được thông qua.
3. Đối tượng và chủ thể của hoạt động thẩm định, thẩm tra:
3.1. Đối tượng và chủ thể của hoạt động thẩm định:
Đối tượng và chủ thể của hoạt động thẩm định ở trung ương được quy định chi
tiết ở Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. Theo đó, dự thảo văn bản
phải thẩm định gồm: dự án luật, pháp lệnh; dự thảo nghị quyết của Quốc hội( Điều
36); dự thảo nghị định của Chính phủ (khoản 1 Điều 63); dự thảo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ (khoản 3 Điều 67); thông tư của Bộ trưởng và Thứ trưởng cơ
quan ngang bộ, các văn bản liên tịch khác; dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, huyện; dự thảo quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
huyện.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chủ thể có thẩm quyền tiến hành
hoạt động thẩm định gồm: Bộ Tư pháp hoặc Hội đồng thẩm định (khoản 1 Điều 36
2


Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008); tổ chức pháp chế của Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan chủ trì soạn thảo; cơ quan tư pháp cấp tỉnh, huyện.
3.2. Đối tượng và chủ thể của hoạt động thẩm tra:
Theo quy định tại Điều 95 Hiến pháp hiện hành, Điều 21 Luật tổ chức Quốc

hội thì Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết và các dự án khác, những báo cáo được Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao. Tại khoản 1 Điều 41 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2008, quy định: “Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có
trách nhiệm chủ trì thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực do mình phụ trách và dự
án, dự thảo khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao, tham gia thẩm tra
dự án, dự thảo do các cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra theo sự phân
công của Ủy ban thường vụ Quốc hội”. Một cách chi tiết hơn, luật này cũng quy
định: “Uỷ ban pháp luật có trách nhiệm tham gia thẩm tra để bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do
các cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra với hệ thống pháp luật trước khi
trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua” (khoản 1 Điều 46);
“Uỷ ban về các vấn đề xã hội có trách nhiệm tham gia thẩm tra việc lồng ghép vấn
đề bình đẳng giới đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan
khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra khi dự án, dự thảo đó có nội dung liên quan đến
bình đẳng giới” (khoản 1 Điều 47).
Ở địa phương, dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện phải
được các Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp thẩm tra trước khi trình Hội đồng
nhân dân. Riêng đối với văn bản quy phạm pháp luật do cấp xã ban hành không
phải qua khâu thẩm tra, thẩm định mà chỉ cần có ý kiến của công chức Tư pháp – hộ
tịch cấp xã về các vấn đề: sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều
chỉnh của văn bản; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ
thống pháp luật; ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.
II/ Trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền trong việc thẩm tra, thẩm
định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật:
1. Nguyên tắc của hoạt động thẩm tra, thẩm định yêu cầu với các chủ thể
có thẩm quyền:
Hiện nay, chưa có quy định cụ thể nào về nguyên tắc thẩm định, thẩm tra; tuy
nhiên căn cứ vào bản chất pháp lý của thẩm định và thẩm tra, có thể thấy nguyên tắc
thẩm định cũng như thẩm tra đều phải dựa vào những điều cơ bản được ghi nhận

trong Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ban hành kèm
theo Quyết định số 05/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/01/2007.
Theo Điều 3 Quy chế này thì việc thẩm định dự án, dự thảo phải đảm bảo các
nguyên tắc:
a. Hoạt động này phải đảm bảo tính khách quan và khoa học. Một văn bản pháp
luật được thông qua phải đảm bảo thể hiện được ý chí của đại đa số người dân
và phải có tính khả thi, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành thẩm tra,
3


thẩm định phải đứng từ góc độ lợi ích của nhân dân và có căn cứ khoa học
cũng như thực tiễn để đánh giá.
b. Phải tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn thẩm tra, thẩm định theo quy định
của pháp luật, đảm bảo chất lượng cũng như hiệu quả công việc, đảm bảo thẩm
tra, thẩm định là một quy trình khoa học, hợp lý.
c. Phải đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan, giữa chủ thể có thẩm
quyền thẩm tra, thẩm định với cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan khác
theo quy định của pháp luật.
2. Nội dung của hoạt động thẩm tra, thẩm định các chủ thể có thẩm quyền
phải tiến hành:
2.1. Nội dung của hoạt động thẩm định:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
2008, hoạt động thẩm định do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành chính là thẩm
định về những nội dụng:
Thẩm định về sự cần thiết ban hành văn bản. Để đánh giá tính cần thiết của
văn bản cần ban hành thường dựa trên những tiêu chí: yêu cầu của hoạt động quản
lý nhà nước; yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoặc
vấn đề mà văn bản đó điều chỉnh; yêu cầu phải quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi
hành những văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Thẩm định về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản: từ sự cân nhắc, đánh

giá hợp lý trên cơ sở về sự rộng hẹp, về tính đa dạng hay phức tạp của vấn đề, lĩnh
vực mà văn bản điều chỉnh.
Thẩm định về sự phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng: cần
đối chiếu dự thảo văn bản với những văn bản của Đảng có liên quan như: Văn kiện
đại hội Đảng, Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết, Chỉ
thị, Thông báo ý kiến kết luận của Bộ Chính trị....
Thẩm định về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ
thống pháp luật và tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà nước Việt
Nam là thành viên.
Thẩm định về tính khả thi của văn bản: chủ thể thẩm định phải dựa vào các yếu
tố như: sự phù hợp của nội dung dự thảo với điều kiện kinh tế - xã hội; sự phù hợp
của các quy định trong dự thảo với ý thức pháp luật của đối tượng áp dụng văn bản
và sự phù hợp trong khả năng tổ chức thực hiện văn bản trên thực tế.
Thẩm định về ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản. Nội dung thẩm định này
bao gồm việc nhận xét, đánh giá về kỹ thuật sắp xếp, bố cục phần chương, mục,
điều, khoản... của dự thảo; đánh giá về kỹ năng diễn đạt nội dung, tính chính xác
của ngôn ngữ, đặc biệt là những thuật ngữ có tính chuyên môn.
Ngoài ra, trong Quy chế thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Bộ
Tư pháp ban hành kèm theo Quyết định 05/2007/QĐ-TTg còn quy định thêm về
việc thẩm định việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo (khoản 6 Điều 4). Tất cả
4


những quy định trên đều nhằm nêu cao trách nhiệm và xác định nội dung mà cơ
quan có thẩm quyền thẩm định phải xem xét, đánh giá, để văn bản được ban hành
đạt hiệu quả và chất lượng cao nhất.
2.2. Nội dung của hoạt động thẩm tra:
Theo quy định tại Điều 43 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008,
nội dung của hoạt động thẩm tra cơ bản giống nội dung của hoạt động thẩm định,
bao gồm một số vấn đề: thẩm tra phạm vi, đối tượng điều chỉnh; thẩm tra nội dung

dự thảo và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; thẩm tra sự phù hợp của văn bản
với chủ trương, chính sách của Đảng; sự hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất với
hệ thống pháp luật; tính khả thi của dự thảo.
Tuy nhiên, nội dung thẩm tra được quy định hẹp hơn thẩm định, có những vấn
đề nghiên cứu, đánh giá chỉ phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp, cơ
quan tư pháp địa phương hoặc chỉ đòi hỏi xem xét một lần ở các cơ quan này mà
thôi.
3.Vai trò của các chủ thể có thẩm quyền trong quy trình thẩm tra, thẩm
định:
Quy trình tiến hành hoạt động thẩm tra được các chủ thể có thẩm quyền tiến
hành theo một chuỗi các hoạt động, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan,
đơn vị, tổ chức khác nhau và được quy định từ Điều 41 đến Điều 45 Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật 2008. Theo đó:
* Trong quy trình thẩm tra:
- Cơ quan soạn thảo chuẩn bị hồ sơ và gửi hồ sơ thẩm tra.
- Phân công thẩm tra: căn cứ vào lĩnh vực phụ trách mà dự thảo có thể được
phân cho Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội, các Ban của Hội đồng nhân
dân chủ trì thẩm tra.
- Chuẩn bị thẩm tra của cơ quan thẩm tra gồm hoạt động: yêu cầu cơ quan
soạn thảo và cơ quan hữu quan phải trình bày những vấn đề liên quan đến dự thảo;
tổ chức lấy ý kiến chuyên gia, tự mình hoặc cùng cơ quan soạn thảo tổ chức khảo
sát tình hình thực tế.
- Tổ chức phiên họp thẩm tra: việc thẩm tra dự án luật sẽ được diễn ra tại
phiên họp toàn thể và những quyết định do quá nửa thành viên đưa ra mới có hiệu
lực pháp lý.
- Báo cáo thẩm tra: thể hiện đầy đủ quan điểm của cơ quan thẩm tra về những
nội dung cần thẩm tra.
* Trong quy trình thẩm định: Quy trình tiến hành thẩm định được quy định tại
Điều 36 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008:
- Cơ quan soạn thảo chuẩn bị hồ sơ và gửi hồ sơ thẩm định: Bộ Tư pháp, Sở tư

pháp địa phương có trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, có quyền yêu cầu bổ
sung nếu hồ sơ không đầy đủ
5


- Phân công nghiên cứu thẩm định: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Giám đốc Sở Tư
pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Ủy ban nhân dân về nội dung thẩm định.
Các đơn vị thuộc Bộ, Sở có trách nhiệm giúp Bộ trưởng, Giám đốc Sở nghiên cứu
thẩm định. Đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, nghị quyết của Chính phủ do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì
Bộ trưởng Bộ Tư pháp lập Hội đồng thẩm định để thẩm định.
- Tổ chức nghiên cứu dự thảo, tiến hành thẩm định.
- Chuẩn bị dự thảo, hoàn thiện và gửi văn bản thẩm định đến cơ quan chủ trì
soạn thảo.
III/ Thực trạng hoạt động thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật – nguyên nhân và giải pháp:
1. Thành tựu:
Số lượng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được cơ quan nhà nước thẩm
tra, thẩm định ngày càng tăng, nhất là với cơ quan nhà nước ở trung ương. Tính
riêng trong năm 2007, Bộ Tư pháp đã thẩm định tổng số 569 dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật( trong đó có 25 dự án luật, 5 pháp lệnh, 3 nghị quyết của Quốc hội,
145 Nghị định của Chính phủ và 302 văn bản khác). Tại Quốc hội khóa XI (20022007), Ủy ban pháp luật đã thẩm tra 18 dự án luật, bộ luật, 14 dự án pháp lệnh và 8
dự thảo nghị quyết.
Chất lượng báo cáo thẩm định, thẩm tra được nâng cao rõ rệt. Việc thẩm định
theo cơ chế Hội đồng của Bộ Tư pháp phát huy được tính khách quan và đảm bảo
chính xác. Báo cáo thẩm tra dần trở thành cơ sở mang tính định hướng để chủ thể có
thẩm quyền ban hành văn bản.
Quy trình thẩm định, thẩm tra đã có nhiều đổi mới khiến thời gian thẩm tra,
thẩm định được rút ngắn đáng kể, một số thủ tục hành chính rườm rà đã được lược
bỏ; thời gian nhận, phân công, thẩm định hồ sơ được rút ngắn.

Đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định, thẩm tra về cơ bản đã đáp ứng được
yêu cầu của hoạt động này.
2. Hạn chế:
Chất lượng báo cáo thẩm định, thẩm tra chưa thực sự đảm bảo, chưa phản ánh
chính xác, cụ thể được tính khả thi của dự thảo.
Giá trị của các báo cáo thẩm định, thẩm tra trên thực tế chưa được coi trọng.
Nhiều cơ quan chủ trì soạn thảo cố tình làm sai và không coi trọng giá trị pháp lý
của báo cáo thẩm tra, thẩm định dẫn tới việc sai sót trong cả nội dung và chất lượng
kỹ thuật soạn thảo. Đặc biệt là với những văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành ở địa phương, việc không coi trọng công tác thẩm tra, thẩm định dự thảo khiến
những văn bản quy phạm được ban hành có rất nhiều lỗi, vi phạm cả về nội dung và
thiếu sót về hình thức. Ví dụ: ở tỉnh Thái Bình, năm 2008, qua kiểm tra rà soát 380
văn bản quy phạm pháp luật do HĐND và UBND tỉnh ban hành, phát hiện 25 văn
6


bản có nội dung trái với văn bản cấp trên và không còn phù hợp tình hình thực tế
địa phương; 46 văn bản sai về thể thức và kỹ thuật trình bày.
Thời gian tiến hành thẩm định, thẩm tra còn kéo dài, chưa đảm bảo tính kịp
thời. Cách tổ chức thực hiện hoạt động thẩm tra, thẩm định trên thực tế còn nhiều
vướng mắc.
3. Nguyên nhân và giải pháp:
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên xuất phát từ những quy định của
pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập và thiếu tính cụ thể, toàn diện khi quy định về
hoạt động thẩm tra, thẩm định Công tác thẩm tra, thẩm định chưa được quan tâm
đúng mức; sự phối hợp trong hoạt động này còn lỏng lẻo; đội ngũ cán bộ làm công
tác thẩm tra, thẩm định còn yếu về năng lực, hoạt động chuyên trách nên chưa đảm
bảo thời gian; kinh phí dành cho hoạt động này còn hạn hẹp.
Từ đó, ta thấy để có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động thẩm tra, thẩm định,
để hoạt động này thực sự phát huy vai trò trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp

luật, để các chủ thể có thẩm quyền thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình:
Pháp luật nên quy định một cách hợp lý, toàn diện về nội dung thẩm
định, thẩm tra, cụ thể hóa trong luật, tạo cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm
cũng như xác định nội dung cho chủ thể thực hiện.
Pháp luật cần quy định cụ thể, rõ nét tiêu chí đánh giá một dự thảo
tạo căn cứ để chủ thể có thẩm quyền thẩm tra, thẩm định đánh giá chính xác.
Pháp luật nên quy định chế tài đối với các chủ thể có liên quan trong
hoạt động thẩm tra, thẩm định nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ
thể này.
Hoàn thiện quy trình thẩm định, thẩm tra trong nội bộ chủ thể có
thẩm quyền và tăng cường phối hợp giữa các chủ thể có thẩm quyền với cơ
quan chủ trì soạn thảo và các bên liên quan.
Bổ sung cán bộ và đào tạo cán bộ làm công tác thẩm tra, thẩm định
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tạo điều kiện tốt hơn về cơ sở vật chất,
kinh phí cho hoạt động này để các chủ thể có thẩm quyền hoàn thành nhiệm
vụ trong điều kiện thuận lợi nhất.
KẾT LUẬN
Thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động đặc
thù nhằm xem xét, đánh giá toàn diện cả về nội dung và hình thức văn bản, là giai
đoạn hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản. Bởi thế nó
đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền phải thực sự có chuyên môn, năng lực, xác định
được vị trí, nhiệm vụ của mình; đóng góp vào quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật Việt Nam.

7


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Xây dựng kỹ thuật văn bản pháp luật, trường ĐH Luật Hà Nội.
2. “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và ban hành văn bản quy

phạm pháp luật ở nước ta hiện nay” – Luận văn thạc sỹ, Đoàn Thị Tố Uyên.
3. “Hoạt động thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của
cơ quan nhà nước ở trung ương” –khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Hương Ly.
4. Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ban hành
theo Quyết định số 05/2007/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng
Chính phủ.
5. Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp.
6. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
7. Luật Tổ chức Quốc hội.
8. “ Nâng cao chất lượng xây dựng và thẩm định văn bản quy phạm pháp
luật”, Nguyễn Quốc Việt, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 9/2009.
9. .
10. .

8



×