Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Khoi kien thuc I Trung cap ly luan chinh tri

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.44 KB, 100 trang )

Ôn thi Tốt nghiệp - Lớp TCCT-HC Khóa 43

A. KHỐI KIẾN THỨC I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CN MÁC-LÊNIN
I/ Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất (Bài 2, Môn Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin)
Câu 1: Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất? Liên hệ với quá trình phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Câu 2: Cách tiếp cận của Mác về lịch sử nguồn gốc, động lực của sự
phát triển xã hội. Nội dung, ý nghĩa quy luật LLSX-QHSX. Nhận thức
và vận dụng của Đảng ta.
II/ Nội dung 2: Chủ nghĩa duy vật Mác xít về nhà nước (Bài 2,
Môn Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin và Bài 4, Môn
Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa).
Câu 3: Trình bày nguồn gốc, bản chất của nhà nước; đặc điểm của nhà
nước. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
(Bài 2 Môn CN Mác-Lênin).
Câu 4: Đặc trưng và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Liên hệ thực tiễn (Bài 4 Môn NN và PL).
Câu 5: Phân tích Phương hướng phát huy dân chủ bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Liên hệ thực tiễn (Bài 4 Môn NN và PL).
III/ Nội dung 3: Nội dung cơ bản về thời kỳ quá độ (Bài 2, Bài 4,
Bài 6 và Bài 7, Môn Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin).
Câu 6: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Vận
dụng lý luận này vào Việt Nam (Bài 4).
Câu 7: Tính tất yếu của sự lựa chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua


chế độ TBCN ở VN. Nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường
đi lên CNXH trong thời kỳ đổi mới (Bài 4: tính tất yếu, và Bài 6:
nhận thức).

1


Ôn thi Tốt nghiệp - Lớp TCCT-HC Khóa 43

Câu 8a: Liên minh công - nông - trí thức trong TKQĐ lên CNXH ở
VN hiện nay (Bài 7).
Câu 8b: Nội dung cơ bản của liên minh công - nông - trí thức trong
thời kỳ quá độ lên CNXH. Vấn đề liên minh giai cấp ở Việt Nam hiện
nay (Bài 7).
Câu 8c: Vì sao trong TKQĐ lên CNXH phải thực hiện liên minh công
- nông - trí thức? Liên hệ với Việt Nam hiện nay (Bài 7).
Câu 9: Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp? Vấn đề đấu tranh giai
cấp trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay? (Bài 2)
Câu 10: Tại sao nói thời kỳ quá độ lên CNXH là khó khăn, lâu dài,
phức tạp? Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, (tư tưởng
Hồ Chí Minh) vào con đường đi lên CNXH ở nước ta như thế nào?
(Bài 4)
Câu 11: Có ý kiến cho rằng: Phát triển kinh tế tư nhân trong TKQĐ
lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta là từ bỏ con đường, mục
tiêu CNXH ở Việt Nam. Quan điểm của đồng chí như thế nào? (Bài 4)
___________________

2



Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Câu 1: Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất? Liên hệ với quá trình
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
- Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này, đến ngày nay đã
trải qua 5 phương thức sản xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô
lệ, xã hội phong kiến, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội. Tư duy nhận
thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển
hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản
xuất cũng như quan hệ sản xuất. Từ hái lượm săn bắt để duy trì cuộc
sống đến trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, đến ngày nay trình độ
khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản xuất xã hội
chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất, như Mác và Ănghen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Nội dung quan hệ sản xuất phù hợp với sự trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là phép biện chứng cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, thể hiện phương pháp nhận thức khoa học, đối lập với phép
nhận thức siêu hình. Phép biện chứng này nhìn thấy sự tác động qua
lại của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong từng gia đoạn lịch
sử nhất định.
Vậy quan hệ sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất là gì? Nó có quan
hệ phù hợp như thế nào?
- Các khái niệm cơ bản:
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình
sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Hay nói một
cách khác là một nền sản xuất xã hội ở giai giai đoạn lịch sử cụ thể
trong đó lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định thống nhất

với quan hệ sản xuất tương ứng. Phương thức sản xuất bao gồm hai
mặt có quan hệ mật thiết với nhau: lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động
với tư liệu sản xuất tạo ra một sức sản xuất nhất định trong sản xuất
vật chất. Trong toàn bộ tư liệu sản xuất thì công cụ sản xuất giữ vai trò
quyết định đối với trình độ phát triển của xã hội, của lực lượng sản
xuất, là thước đo trình độ làm chủ tự nhiên.
4


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Công cụ lao động là khí quan vật chất "nối dài", "nhân lên" sức
mạnh con người trong quá trình biến đổi giới tự nhiên. Nó là yếu tố
quyết định năng suất lao động, là cầu nối giữa lao động sống và đối
tượng lao động. Là yếu tố nhân lên sức mạnh tư duy con người và
hiện thực hóa sức mạnh tư duy đó. Quyết định thắng lợi của một
phương thức sản xuất. C.Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất
bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào".
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất
vật chất. Quan hệ sản xuất được cấu thành từ quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau,
quan hệ phân phối sản phẩm lao động, trong đó quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất giữ vai trò quết định. Quan hệ sản xuất được hình thành
một cách khách quan trên cơ sở một trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, quan hệ sở hữu

giữ vai trò quyết định đối với quan hệ quản lý, quan hệ phân phối.
Ngược lại, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối cũng tác động trở lại to
lớn đến quan hệ sở hữu.
Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất:
Đây là một quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã
hội loài người. Nội dung của quy luật được thể hiện trên ba điểm chủ
yếu sau:
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối
quan hệ khách quan, vốn có trong mọi quá trình sản xuất vật chất. Nói
cách khác, để tiến hành sản xuất vật chất, con người phải thực hiện
mối quan hệ “đôi”, quan hệ “kép”, quan hệ song trùng này. Thiếu một
trong hai quan hệ đó, quá trình sản xuất vật chất không thực hiện
được.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, ở nhiều
nước, trong đó có cả nước ta, do nóng vội, chủ quan duy ý chí đã sớm
thiết lập một nền kinh tế thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu tư liệu
sản xuất (sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể), nên đã để lãng phí rất
nhiều năng lực sản xuất trong nước và trên thế giới.
5


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
thì lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định. Khuynh hướng của sản
xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều tiến bộ. Sự biến đổi
đó, xét đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu tự sự biến đổi và phát triển của
lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong một phương

thức sản xuất, lực lượng sản xuất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.
Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ làm cho
quan hệ sản xuất phải biến đổi theo phù hợp với nó.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình
thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà
ở đó quan hệ sản xuất, các yếu tố cấu thành của nó “tạo địa bàn đầy
đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất
đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo
điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu
sản xuất. Sự phù hợp đó biểu hiện rõ rệt ra kết quả lực lượng sản xuất
phát triển, kinh tế phát triển, phát huy được mọi năng lực sản xuất và
năng suất lao động cao.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là sự phù hợp biện chứng, sự phù hợp bao hàm mâu
thuẫn. Đây là sự phù hợp giữa một yếu tố động (lực lượng sản xuất
luôn biến đổi) với một yếu tối mang tính ổn định tương đối (quan hệ
sản xuất ổn định hơn, ít biến đổi hơn). Quan hệ sản xuất từ chỗ thích
ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng do lực lượng sản
xuất luôn biến đổi, phát triển, lại trở thành xiềng xích, kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Con người phát hiện những yếu tố
dẫn đến không phù hợp, tức là phát hiện những mâu thuẫn và giải
quyết những mâu thuẫn đó đem lại sự thích ứng mới của quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của sản xuất xã
hội cứ tiếp diễn theo tiến trình đó.
Cho nên sự phù hợp - không phù hợp - phù hợp là biểu hiện
khách quan của quá trình tương tác giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất của mọi phương thức sản xuất trong lịch sử.
Trước đây, trong cải tạo và xây dựng nền kinh tế mới ở các nước

xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã nhận thức về sự phù hợp của quan hệ
6


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

sản xuất với lực lượng sản xuất một cách chủ quan, giản đơn, máy
móc, cứng nhắc. Đó là những quan niệm cho rằng nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa luôn diễn ra sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất, vì ở đó, quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ
sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Còn nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa thường xuyên có sự phù hợp của quan hệ
sản xuất đối với lực lượng sản xuất, vì ở đây, quan hệ sản xuất được
xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Cả hai quan niệm trên đều trái với phép biện chứng khách quan
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa xã hội đều tồn tại khách quan về sự phù hợp này. Nghĩa là trong
chủ nghĩa tư bản hay trong chủ nghĩa xã hội, nền sản xuất vật chất của
xã hội đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn của sự phù hợp - không phù
hợp -phù hợp, ... như là yếu tố nội sinh. Vấn đề là ở chỗ, nhân tố chủ
quan có phát hiện kịp thời và giải quyết một cách có hiệu quả những
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hay không.
Giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
cũng không phải chỉ bằng cách duy nhất là xóa bỏ quan hệ sản xuất
cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới. Giải quyết mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một quá trình, mà biện pháp
thường xuyên là đổi mới, cải cách, điều chỉnh quan hệ sản xuất trước
mỗi sự phát triển của lựa lượng sản xuất. Dĩ nhiên, cải cách, điều
chỉnh quan hệ sản xuất bao giờ cũng có giới hạn của nó. Khi mâu

thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã trở nên gay gắt,
không thể không giải quyết thông qua biện pháp cải cách, điều chỉnh
được nữa thì tất yếu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ
sản xuất mới cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngày nay, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng
sản xuất đồ sộ, tính chất xã hội hóa ngày càng cao, dẫn đến mâu thuẫn
ngày càng gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Biện pháp mà các nước tư
bản đang cố giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là cải cách, điều chỉnh quan hệ sản xuất tạo ra sự thích nghi
nhất định.. Biện pháp đó trước mắt vẫn tạo ra được tiềm năng để phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, biện pháp đó không giải quyết được triệt để
các mâu thuẫn, khủng hoảng chu kỳ vẫn đang tiếp tục diễn ra đang đòi
7


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

hỏi phải có những thay đổi căn bản quan hệ sản xuất, thiết lập quan hệ
sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Dưới chủ nghĩa xã hội, sự phù hợp và không phù hợp, ... của quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất cũng tồn tại khách quan, bên trong
của nền sản xuất vật chất như là yếu nội nội sinh của sự phát triển.
Chính vì thế, chủ nghĩa xã hội cũng phải thường xuyên phát hiện mâu
thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách có hiệu quả, tạo ra sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, kinh tế phát triển.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ cơ trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, do lực lượng sản xuất quyết định. Nhưng sau khi
được xác lập, nó có sự tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, quy
định hình thức tổ chức, quản lý sản xuất, quy định khuynh hướng phát
triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, từ đó hình
thành hệ thống những yếu tố tác động trở lại đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, nó sẽ tạo địa bàn cho sự phát triển lực lượng sản xuất,
trở thành một trong những động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Tác động theo chiều hướng tiêu cực của quan hệ sản xuất đối với
sự phát triển lực lượng sản xuất chỉ có ý nghĩa trương đối. Quan hệ
sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất, sớm muộn gì cũng
được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
mới của lực lượng sản xuất. Đó là xu thế tất yếu của sự phát triển sản
xuất, sự phát triển kinh tế, mà không một gia cấp nào, một chủ thể nào
có thể cưỡng lại được.

8


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Ý nghĩa của quy luật

Phải xuất phát từ LLSX để xác lập QHSX cho phù hợp, phải nắm
vững thực trạng về đặc điểm, tính chất, trình độ của LLSX, của đất
nước, từng ngành, từng địa phương để có hình thức QHSX cho phù
hợp, tránh chủ quan duy ý chí khi xác lập QHSX.
Phải tiến hành CNH, HĐH để phát triển LLSX không ngừng lớn
mạnh kết hợp với củng cố QHSX theo kịp quá trình CNH, HĐH.
Phát triển kinh tế tri thức, không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn cho người lao động kết hợp với trang bị máy móc hiện đại để tri
thức của người lao động kết tinh trong hàng hoá nhiều hơn.
Liên hệ với quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam :
Trước thời kỳ đổi mới, việc nhận thức và vận dụng quy luật này ở
các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và ở những nước mà xuất phát
điểm đi lên chủ nghĩa xã hội thấp như ở nước ta nói riêng đã mắc phải
những lệch lạc, sai lầm, chủ quan.
Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần
nhất với hai hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể
trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không
đồng đều là một chủ trương nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Đó không
phải là sự vận dụng một cách sáng tạo quy luật - như có thời kỳ chúng
ta vẫn lầm tưởng - mà là vi phạm quy luật, làm trái quy luật khách
quan.
Ở nước ta Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI (năm
1986) của Đảng, chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng
vội và bệnh bảo thủ trì trệ do vi phạm các quy luật khách quan, đặc
biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của
một đất nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại
muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại.

Đúng như văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực
tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp
quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không
đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực
9


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

lượng sản xuất”. Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan
hệ sản xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chúng ta đã có những
biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc
doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng ta vừa chủ quan nóng vội,
vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và cản trở bước tiến của
cách mạng.
Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức lý
luận và vận dụng quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành
kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa; coi nhẹ việc
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Cuộc sống dạy cho chúng ta một bài
học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Từ sự trình bày trên đây, có thể rút ra một số sai lầm phổ biến
trong nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tức mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phù hợp thực tiễn:
Không hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với

quan hệ sản xuất, tách rời quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất,
cường điệu quan hệ sản xuất mà coi nhẹ lực lượng sản xuất, coi nhẹ
việc phát triển, giải phóng lực lượng sản xuất, muốn tạo ra quan hệ
sản xuất tiên tiến đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất, muốn
nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện kinh tế còn lạc hậu, mới giành được chính quyền.
Nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh thể, cường điệu
chế độ sở hữu, nhất là muốn nhanh chóng thiết lập chế độ công hữu
với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ
nghĩa xã hội cần phải nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức quản lý và phân phối; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người lao
động.
Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy
luật giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo
thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
10


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau trong những
ngành sản xuất khác nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng
đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa...) với những trình độ lực
lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cào bằng quan hệ sản xuất.
Tóm lại, những sai lầm có tính phổ biến trên đây chính là do nhận
thức không đúng bản chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ
lực lượng sản xuất, những điều kiện tác động của nó, không tính đến
điều kiện thực tiễn khi vận dụng, kết cục không tránh khỏi rơi vào thất
bại.
Từ những sai lầm trong nhận thức đã dẫn tới những chỉ đạo sai

lầm trong chỉ đạo thực tiễn. Cụ thể:
Một là, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách
ồ ạt, trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển lực lượng
sản xuất.
Hai là, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách
tràn lan, trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát
triển không đồng đều; khả năng quản lý còn yếu kém...
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã chủ trương chuyển từ một nền
kinh tế thuần nhất xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu
thuẫn, không thay đổi. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại
dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất định
với trình độ nào đó của Lực lượng sản xuất. Trong thời kì quá độ đi
lên CNXH, nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng cũng
chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo
XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền
kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo Quan hệ sản xuất cũ và xây
dựng Quan hệ sản xuất mới, Đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải
quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sử hữu, chế độ quản lý và chế
độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà
bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Không nên quá đề cao chế độ
công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng Quan hệ sản xuất mới.
Thực tế chỉ rõ, nếu chế độ quản lý và phân phối không được xác lập
11


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin

Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

theo những nguyên tắc của CNXH và trình độ phát triển của Lực
lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà
còn cản trở Lực lượng sản xuất phát triển.
Hiện nay nền kinh tế ở nước ta - như Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI đã chỉ ra các thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết kinh tế, tạo nên môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ
đổi mới đã làm cho nền kinh tế nước ta có những bước phát triển vượt
bậc. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, tạo đà cho sự phát
triển, tốc độ tăng trưởng cao.
Có thể nói quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của LLSX là quy luật cơ bản của mọi nền kinh tế. Việc nhận thức
đúng và vận dụng một cách sáng tạo quy luật này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với các nước đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
- Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào quan hệ sản xuất
cũng phải phù hợp với lực lượng sản xuất . Sự tác động qua lại và mối
quan hệ giữa chúng phải hài hòa và chặt chẽ. Tuy nhiên trong hai yếu
tố đó thì lực lượng sản xuất luôn quyết định quan hệ sản xuất . Một
hình thái kinh tế - xã hội có ổn định và tồn tại vững chắc thì phải có
một phương thức sản xuất hợp lý. Chính bởi lẽ đó mà lực lượng sản

xuất phải tương xứng phù hợp với quan hệ sản xuất bởi vì xét đến
cùng thì quan hệ sản xuất chính là hình thức của lực lượng sản xuất .
Vậy nên nếu lực lượng sản xuất phát triển trong khi đó quan hệ sản
xuất lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất .
Ngược lại quan hệ sản xuất tiến bộ hơn lực lượng sản xuất thì không
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất gây ra sự bất
ổn cho xã hội . Do đó một phương thức sản xuất hiệu quả thì phải có
12


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

một quan hệ sản xuất phù hợp cới tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất.
Liên hệ cá nhân, trách nhiệm bản thân sau khi học trung cấp
chính trị về vấn đề trên (Mỗi học viên tự trình bày theo đơn vị của
mình)
Qua phần lý luận trên được học tại lớp trung cấp chính trị, đã cho
tôi nâng cao thêm một bậc về nhận thức mối quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, có thể thấy việc nghiên cứu mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hết sức cần
thiết. Bản thân đang công tác tại đơn vị sản xuất kinh doanh, sự phát
triển và vận dụng các máy móc thiết bị hiện đại để sản xuất tuy khác
nhau nhưng đều có một số điểm chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản
để xây dựng và phát triển kinh tế, một trong những nguyên tắc cơ bản
trong phát triển kinh tế ở mỗi doanh nghiệp là quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mỗi doanh
nghiệp đều có điều kiện kinh doanh khác nhau và trình độ công nhân
lao động không giống nhau dẫn đến quan hệ sản xuất và trình độ của

lực lượng sản xuất ở mỗi doanh nghiệp cũng khác nhau. Do tính đặc
thù trên, bản thân tôi nhận thấy và có trách nhiệm tham mưu đến lãnh
đạo bố trí trình độ lao động phù hợp với máy móc hiện có, hoặc có thể
đầu tư thêm máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến giảm thiểu lao động
chân tay nếu trình độ lao động có thể đáp ứng sử dụng tốt nhất.
______________________

13


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Câu 2: Cách tiếp cận của Mác về lịch sử nguồn gốc, động lực của
sự phát triển xã hội. Nội dung, ý nghĩa quy luật lực lượng sản xuất
- quan hệ sản xuất. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta.
- Trong lịch sử tư tưởng có nhiều cách tiếp cận khác nhau giải
thích về sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại. Nhưng những
tiếp cận đó về cơ bản chưa giải thích đúng bản chất của sự vận động,
phát triển của lịch sử loại người, chỉ đến khi lý luận hình thái kinh tế
xã hội ra đời mới cho chúng ta phương pháp hoàn bị, sâu sắc giải thích
về sự vận động, phát triển của lịch sử. Học thuyết đó vạch ra những
quy luật chung của sự vận động lịch sử xã hội, vạch ra phương pháp
khoa học nhận thức và cải tạo xã hội. Tư duy nhận thức của con người
không dừng lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Từ
đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như quan
hệ sản xuất.
Cách tiếp cận của Mác về lịch sử nguồn gốc, động lực của sự
phát triển xã hội
Xuất phát từ lập trường thế giới quan của mình mà các nhà triết

học theo các trường phái có những quan điểm khác nhau trong lịch sử
về nguồn gốc, động lực của sự phát triển xã hội. Có thể thấy rằng
trong một chừng mực nào đó, các nhà triết học trước Mác đã có đóng
góp nhất định cho triết học nói chung cũng như đi tìm sự lý giải về
nguồn gốc, động lực của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, các ông đã
không tránh khỏi những khuyết điểm, hạn chế mang tính lịch sử. Họ
đã đứng trên lập trường duy tâm hoặc chưa thoát quan điểm duy tâm
về lịch sử, họ đã dừng lại ở những nguyên nhân tư tưởng để giải thích
lịch sử xã hội.

14


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Kế thừa những thành tựu của các nhà triết học trước đây, Mác và
Ăngghen đã xây dựng một triết học mới với thế giới quan duy vật biện
chứng nhất quán cả trong việc nhận thức đời sống xã hội. Triết học
Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử triết học trước đó, xác lập chủ nghĩa duy vật biện
chứng nhờ một hệ thống khoa học chặt chẽ, thống nhất và hoàn chỉnh.
Cải tạo cả chủ nghĩa duy vật siêu hình lẫn phép biện chứng trong cái
vỏ duy tâm thần bí, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vạch ra những quy
luật chung nhất, những động lực chung nhất của sự phát triển xã hội
với tính cách là một chỉnh thể. Mác đã tìm ra quy luật phát triển của
lịch sử loài người chính là: Con người trước hết cần phải ăn, mặc, ở,
đi lại rồi mới có thể làm chính trị, khoa học và cả tôn giáo và con
người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết cần phải sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt vật chất. Lịch sử xã hội loài người đã chứng

minh rằng xã hội không thể tồn tại và phát triển nếu không có quá
trình thường xuyên sản xuất và tái sản xuất xã hội. Trong sự sản xuất
toàn bộ đời sống xã hội thì sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng. Sở dĩ
như vậy là vì sản xuất vật chất vừa là điều kiện, tiền đề cơ bản, đầu
tiên của đời sống con người và xã hội và trong quá trình đó, nó nảy
sinh ra mọi quan hệ trong xã hội, đồng thời thông qua đó mà con
người tự hoàn thiện bản thân mình.
Để có một nền sản xuất vật chất phải dựa vào hoàn cảnh địa lý,
dân số và phương thức sản xuất. Trong 3 điều kiện đó thì phương thức
sản xuất là điều kiện quyết định.
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình
sản xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi hình thái kinh
tế - xã hội có một phương thức sản xuất riêng, các cuộc cách mạng xã
hội đều gắn với sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương
thức sản xuất mới, tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất là biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, là sự thống nhất hai mặt
đối lập của mâu thuẫn biện chứng trong nền sản xuất vật chất giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Nội dung quy luật lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động
với tư liệu sản xuất tạo ra một sức sản xuất nhất định trong sản xuất
vật chất. Trong toàn bộ tư liệu sản xuất thì công cụ sản xuất giữ vai trò
15


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

quyết định đối với trình độ phát triển của xã hội, của lực lượng sản
xuất, là thước đo trình độ làm chủ tự nhiên.

Lực lượng sản xuất là toàn bộ quan hệ của con người với giới tự
nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất
bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động, trong đó, người lao động
là yếu tố cơ bản của LLSX, là người trực tiếp trong quá trình sản xuất,
đồng thời sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Ngày nay khoa học
đã trở thành LLSX trực tiếp, các thành tựu phát minh ra được áp dụng
vào sản xuất một cách nhanh chóng và tạo ra hiệu quả kinh tế, xã hội
cao.
Công cụ lao động là khí quan vật chất "nối dài", "nhân lên" sức
mạnh con người trong quá trình biến đổi giới tự nhiên. Nó là yếu tố
quyết định năng suất lao động, là cầu nối giữa lao động sống và đối
tượng lao động. Là yếu tố nhân lên sức mạnh tư duy con người và
hiện thực hóa sức mạnh tư duy đó. Quyết định thắng lợi của một
phương thức sản xuất. C.Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất
bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào".
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất
vật chất. Quan hệ sản xuất được cấu thành từ quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau,
quan hệ phân phối sản phẩm lao động, trong đó quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất giữ vai trò quết định. Quan hệ sản xuất được hình thành
một cách khách quan trên cơ sở một trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, quan hệ sở hữu
giữ vai trò quyết định đối với quan hệ quản lý, quan hệ phân phối.
Ngược lại, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối cũng tác động trở lại to
lớn đến quan hệ sở hữu.
Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì thúc
đẩy LLSX và nền sản xuất của xã hội phát triển. Trong sự phù hợp
này, QHSX là hình thức biểu hiện của LLSX, còn LLSX là nội dung

hình thành nên QHSX. Như vậy, LLSX quyết định QHSX và QHSX
không những là hình thức mà còn tác động trở lại đối với LLSX, khi
hình thức phù hợp với nội dung thì thúc đẩy nội dung LLSX, khi
không phù hợp thì nó kìm hãm nội dung LLSX.
16


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Còn QHSX tác động trở lại đối với LLSX thông qua hành động
của con người, nó định hướng cho sự phát triển của LLSX, cho nội
dung và cách thức vận động của LLSX thông qua đường lối phát triển
kinh tế, hiến pháp, chính sách kinh tế và quản lý nền kinh tế. Chính
sách kinh tế đúng thì LLSX phát triển và ngược lại, nó kìm hãm sự
phát triển của LLSX, nhất là người lao động.

17


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Sự phù hợp giữa QHSX và LLSX là biện chứng cho nên trong sự
phù hợp đó có sự khác biệt, đó là mầm mống nảy sinh ra mâu thuẫn
giữa LLSX và QHSX, nếu không kịp thời phát hiện và giải quyết mâu
thuẫn ấy dẫn đến gay gắt thậm chí là đối kháng. Vì vậy, sự phù hợp
bao giờ cũng chứa đựng khuynh hướng mâu thuẫn, nó đòi hỏi phải
năng động sáng tạo trong nhận thức và vận dụng quy luật một cách
khách quan.

Quy luật này là cơ bản, phổ biến của mọi nền sản xuất vật chất, từ
sự tác động của quy luật này, nó sẽ nảy sinh ra các quy luật khác của
xã hội trong lĩnh vực chính trị, khoa học, văn hoá, tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, trong đấu tranh giai cấp, trong hoạt động của Nhà nước.
Sự biến đổi của quy luật này sẽ dẫn đến sự biến đổi các quy luật khác
trong đời sống.
Ý nghĩa của quy luật
Phải xuất phát từ LLSX để xác lập QHSX cho phù hợp, phải nắm
vững thực trạng về đặc điểm, tính chất, trình độ của LLSX, của đất
nước, từng ngành, từng địa phương để có hình thức QHSX cho phù
hợp, tránh chủ quan duy ý chí khi xác lập QHSX.
Phải tiến hành CNH, HĐH để phát triển LLSX không ngừng lớn
mạnh kết hợp với củng cố QHSX theo kịp quá trình CNH, HĐH.
Phát triển kinh tế tri thức, không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn cho người lao động kết hợp với trang bị máy móc hiện đại để tri
thức của người lao động kết tinh trong hàng hoá nhiều hơn.
Nhận thức và vận dụng của Đảng ta
Những lý luận về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là cơ sở
khoa học để vạch ra sách lược cơ bản của con đường đi lên CNXH ở
nước ta và mô hình XHCN trong tương lai.

18


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

Từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội
khác có một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết
cấu và hình thức biểu hiện khác nhau, đó là thời kỳ quá độ. Đối với

nước ta đang trong giai đoạn đầu quá độ lên CNXH. Song để nhận
dạng con đường đi lên ở nước ta trước hết cần phân tích đầy đủ và
chính xác điểm xuất phát, và điều cần thiết là phải xuất phát từ thực
trạng kinh tế, xã hội của đất nước, xuất phát từ đặc điểm LLSX và
QHSX để lựa chọn đúng hình thức kinh tế, xác định trúng những bước
đi cụ thể theo mục đích đã chọn. Từ đó Đảng ta có những quan điểm
vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX ở nước ta trong
giai đoạn đầu quá độ lên CNXH cụ thể như sau:
Đối với LLSX tập trung:
Hiện đại hoá LLSX kết hợp với củng cố hoàn thiện QHSX nhằm
đảm bảo sự phù hợp giữa QHSX với LLSX để phát triển kinh tế. Do
đó, phải xem CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm để vừa có những
bước phát triển tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt về chất. Phát
triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển
đất nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, củng cố các ngành sử dụng
nhiều lao động với các ngành dịch vụ. Từng bước hiện đại hoá khí
tượng thuỷ văn, vật lý địa cầu, tích cực phòng chống thiên tai, sử dụng
hợp lý và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng hoá sinh học.
Đối với QHSX tập trung:
Thực hiện chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng XHCN trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định
hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng chính sách. Kinh tế hợp tác xã
là nòng cốt, kinh tế cá thể tiểu chủ có vị trí lâu dài làm vệ tinh cho các
doanh nghiệp hoặc phát triển lên thành doanh nghiệp. Khuyến khích
kinh tế tư bản tư nhân, phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới hình

thức liên doanh, liên kết. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường, đổi mới, nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Đổi
mới công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng quy hoạch để phát
19


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 1: Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

triển kinh tế phải kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công
bằng trong phân phối tạo động lực phát triển sản xuất và tạo ra nhiều
việc làm.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất được thể hiện thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát
triển xã hội loài người - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật do C.
Mác phát hiện ra và được trình bày trong nhiều tác phẩm của ông. Đây
là quy luật cơ bản, phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại và cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận
động từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái
kinh tế - xã hội khác cao hơn, quy định sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Có thể coi quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, quy luật gốc của
sự phát triển xã hội. Sự biến đổi, phát triển xã hội xét đến cùng là bắt
nguồn từ quy luật này.
Liên hệ cá nhân, trách nhiệm bản thân sau khi học trung cấp
chính trị về vấn đề trên (Mỗi học viên tự trình bày theo đơn vị của
mình)
Qua phần học tập nghiên cứu lý luận trên tại lớp trung cấp chính

trị, đã cho tôi nâng cao thêm một bậc về tư duy phát triển kinh tế xã
hội, nhận thức đúng bản chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, những điều kiện tác động của nó,
điều kiện thực tiễn khi vận dụng. Có thể thấy việc nghiên cứu lý luận
trên đã cho tôi một kiến thức bổ ích trong quá trình công tác tại đơn
vị, từ đó vận dụng đúng đắn hơn trong điều kiện thực tế tại đơn vị,
không thể nóng vội phát triển tại đơn vị mà là trái với quy luật.
_________________________

20


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 2: Chủ nghĩa duy vậy Mác xít về Nhà nước

Câu 3: Trình bày nguồn gốc, bản chất của nhà nước; đặc điểm của nhà
nước. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Chú ý: Tùy câu hỏi có thể chọn trả lời ở từng nội dung phù hợp (Nếu câu hỏi
về nhà nước nhưng ở các dạng khác nhau thì cũng chỉ có bấy nhiêu nội dung này).

- Xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách quan tất
yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quỹ đạo chung đó. Tuy nhiên, xét về cả phương diện lý luận
lẫn thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay vẫn còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết.
Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Đảng ta chính
thức đưa vào văn kiện Đại hội VII của Đảng, nhưng tại Đại hội này Đảng ta
mới chỉ xác định yêu cầu phải xây dựng nhà nước pháp quyền và mới chỉ
định hình được rằng, đó là nhà nước có năng lực định ra một hệ thống luật
pháp đồng bộ để quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Thì đến Đại hội VIII, Đảng

ta lại xác định thêm tính “xã hội chủ nghĩa” cho nhà nước pháp quyền, tức là
chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ Đại hội IX
đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và xác định bản chất của nhà nước, đó là của dân, do dân và vì
dân.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định đặc trưng
thứ bảy trong tám đặc trưng chủ yếu của xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng
là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân”.
- Một số khái niệm:
Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt của quốc gia, một bộ
máy làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiên chức năng quản lý nhằm bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị đồng thời thiết lập, cũng cố, duy trì trật tự và ổn
định xã hội.
Nhà nước pháp quyền theo quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử
nhân loại là Nhà nước bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong đời sống
xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung, lợi ích chung của nhân
dân; thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân; trịu trách nhiệm
trước công dân về những hoạt động của mình và yêu cầu công dân thực hiện
các nghĩa vụ đối với Nhà nước thích hợp bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân
dân, tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; ngặn
22


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 2: Chủ nghĩa duy vậy Mác xít về Nhà nước

chặn được sự tùy tiện, lạm quyền từ phía Nhà nước, xử lý nghiêm minh các
hành vi vi phạm pháp luật, kể cả vi phạm pháp luật của các cơ quan và công
chức nhà nước.

Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước XHCN thực sực của dân, do
dân, vì dân; tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; bảo đảm tính
tối cao của Hiến pháp, quản lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và
hạnh phúc của nhân dân, do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo
đồng thời, chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân.
Như vậy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước gắn với
một giai cấp (nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà
nước XHCN) mà là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm tổ chức
hoạt động của nhà nước tuân thủ theo quy định của pháp luật, thực hiện được
quản lý xã hội theo pháp luật, bảo đảm chủ quyền và quyền tự do, dân chủ
của nhân dân.
(Nguồn gốc) Vấn đề nhà nước là một trong những vấn đề phức tạp nhất và
bị các nhà tư tưởng của giai cấp bóc lột xuyên tạc nhiều nhất. Các nhà tư
tưởng của giai cấp bóc lột thống trị luôn tuyên truyền những tư tưởng xuyên
tạc bản chất của nhà nước nhằm biện hộ cho sự thống trị chính trị của mình.
Trong thời kỳ cổ đại và trung cổ, họ tuyên truyền những quan điểm mang tính
chất thần bí, thần thánh, “siêu tự nhiên” của nhà nước. Còn trong thời kỳ hiện
đại, giai cấp tư sản lại ra sức tuyên truyền cho tính chất “siêu giai cấp” của
nhà nước tư sản.
Lý luận khoa học về nhà nước, về nguồn gốc và bán chất của nhà nước,
chỉ có thể có được trên cơ sở những quan điểm biện chứng duy vật về sự phát
triển xã hội. Theo quan điếm mácxít, xã hội không phải, khi nào cùng có nhà
nước. Nhà nước ra đời và tồn tại khi trong xã hội xuất hiện những mâu thuẫn
giai cấp phát triển đến mức không điều hòa được. Xã hội cộng sản nguyên
thủy không có giai cấp, nhà nước cũng chưa xuất hiện. Đứng đầu các thị tộc,
bộ lạc - những tổ chức xã hội thời kỳ này - là những tộc trưởng, hội đồng các
tộc trưởng. Đó là những cơ quan quản lý xã hội còn rất đơn giản và mang tính
tự quản.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt
không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện. Khẳng định điều đó,

V.I.Lênin viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về
mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà
23


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 2: Chủ nghĩa duy vậy Mác xít về Nhà nước

nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những
mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”.
(Bản chất) Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan
của một cá nhân hay một giai cấp nào. Trái lại, sự xuất hiện nhà nước là một
tất yếu khách quan để “khống chế những đối kháng giai cấp”, để làm “dịu”
xung đột giai cấp, làm cho xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật tự”; trật
tự ấy hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này bóc
lột giai cấp khác. Nhà nước, “đó là sự kiến lập một “trật tự”, trật tự này hợp
pháp hóa và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp”.
Đương nhiên, trên cơ sở tất yếu nói trên, giai cấp lập ra và sử dụng nhà
nước phải là giai cấp mạnh nhất, giai cấp giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế.
Nhờ có nhà nước, giai cấp này trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị.
Nhà nước, do đó về bản chất là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về
mặt kinh tế.
Nhà nước là công cụ thống trị chính trị giai cấp, nhưng trong thực tế, nó lại
tồn tại như một công quyền, một quyền lực công cộng. Vì vậy, nhà nước
không chỉ mang tính giai cấp, mà còn mang tính xã hội; không chỉ có chức
năng thống trị giai cấp mà còn có những chức năng xã hội. Hơn nữa, chức
năng xã hội còn là cơ sở cho sự thống trị chính trị.
Vì vậy, sẽ là mơ hồ nếu không thấy được tính chính trị, tính giai cấp của
các chủ trương, chính sách và sự tác động can thiệp của nhà nước vào các

lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, v.v... Nhưng ngược lại, nếu quy các chức
năng đa dạng của nhà nước về chức năng giai cấp, hoặc tuyệt đối hóa tính giai
cấp, mà không thấy được tính xã hội, vai trò tích cực sáng tạo của chức năng
xã hội của nhà nước trong sự phát triển đất nước thì sẽ là cực đoan, phiến
diện.
Khi nhà nước nằm trong tay giai cấp đại biểu cho toàn thể xã hội trong
thời đại của mình, nghĩa là trong tay giai cấp đang đóng vai trò tiến bộ và
cách mạng, thì tính tích cực của chức năng xã hội của nó biểu hiện càng rõ
rệt.
(Các kiểu NN trong lịch sử) Trong lịch sử xã hội có đối kháng giai cấp đã
xuất hiện ba kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước
tư bản. Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới những hình thức khác nhau.
Nhà nước chủ nô có nhà nước chủ nô dân chủ, có nhà nước chủ nô quý tộc;
nhà nước phong kiến có nhà nước phong kiến quân chủ phân quyền, có nhà
nước quân chủ tập quyền. Dưới chủ nghĩa tư bản hình thức nhà nước phổ biến
24


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 2: Chủ nghĩa duy vậy Mác xít về Nhà nước

là chế độ cộng hòa dân chủ tư sản. Chế độ cộng hòa dân chủ tư sản - như
V.I.Lênin đã chỉ ra: “Xét về phương diện phát triển của xã hội trên toàn thế
giới, đều là một bước tiến rất lớn”. Song, nếu từ đó mà cho rằng, nhà nước
dân chủ tư sản hiện nay không còn là nhà nước giai cấp nữa thì lại là một sai
lầm. Khẳng định về vấn đề này, Ph.Ăngghen viết: “Nhà nước chẳng qua chỉ
là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều
đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ
quân chủ”.
Như vậy, nhà nước có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng

dù tồn tại dưới hình thức nào - độc tài hay dân chủ, quân chủ hay cộng hòa thì về bản chất nhà nước vẫn là quyền lực chính trị của một giai cấp.
(Tính tất yếu của NN vô sản) Học thuyết Mác-Lênin về nhà nước bác bỏ
luận điểm của phái vô chính phủ cho rằng, sau khi lật đổ nhà nước tư sản thì
xã hội không cần phải có nhà nước nữa, vì nhà nước nào cũng là nguyên nhân
gây ra tai họa. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng bác bỏ quan điểm cơ hội, hữu
khuynh khi cho rằng, sau khi lật đổ nhà nước tư sản, sẽ thực hiện một nhà
nước dân chủ phi giai cấp. Khẳng định tính tất yếu của nhà nước vô sản,
C.Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với
thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không
thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Sau khi cách mạng thành công, giai cấp công nhân và nhân dân lao động
vẫn còn cần có nhà nước của mình vì ba lý do sau:
Thứ nhất, xã hội còn phân chia giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn
tiếp tục, vẫn còn các lực lượng mưu toan phục hồi chế độ cũ, vẫn còn âm
mưu xâm lược của các thế lực đế quốc. Giai cấp công nhân, nhân dân lao
động cần có nhà nước của mình để trấn áp lực lượng phản cách mạng, trấn áp
bọn phá hoại trật tự xã hội mới và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xã hội trong thời kỳ quá độ vừa thoát thai từ xã hội cũ, còn mang
rất nhiều dấu vết của xã hội cũ. Để quản lý một xã hội như vậy, vẫn cần có sự
cưỡng chế, cần pháp luật, kỷ cương, nghĩa là cần có nhà nước, công cụ làm
chủ của nhân dân.
Thứ ha, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vĩ đại, khó khăn, phức tạp,
nó đòi hỏi phải có một nhà nước do những người lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản lập ra để tổ chức quản lý công việc xây dựng xã hội mới.
Nhà nước kiểu mới đó chính là nhà nước vô sản.
25


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin

Nội dung 2: Chủ nghĩa duy vậy Mác xít về Nhà nước

(Đặc điểm của NN vô sản) Là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử, nhà
nước vô sản có những đặc trưng cơ bản của nhà nước nói chung - công cụ
trấn áp của một giai cấp với một giai cấp khác. Song, “chuyên chính” không
phải là đặc trưng duy nhất của kiểu nhà nước này. Nhà nước vô sản có các
đặc trưng khác với các nhà nước của giai cấp bóc lột, đó là:
Một là, lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện một nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Nó không còn là nhà nước của thiểu số thống trị đa số như trước
đây, mà là nhà nước của đa số thống trị thiểu số những kẻ chống lại lợi ích
của nhân dân lao động. Cơ sở xã hội và nòng cốt của nhà nước vô sản là liên
minh công nhân, nông dân, trí thức, tức là liên minh giữa các giai cấp, tầng
lớp lao động, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo thông qua đội
tiên phong chính trị của mình. Trong nhà nước vô sản, mọi quyền lực đều
thuộc về nhân dân. Nhân dân lao động không những làm chủ về chính trị mà
còn làm chủ về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đó là bản chất của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Tính chất của dân, do dân, vì dân thể hiện thông qua nguyên
tắc tổ chức, cơ chế hoạt động và pháp luật nhà nước.
Hai là, lần đầu tiên trong lịch sử, đã ra đời một nhà nước mà chức năng
chủ yếu nhất của nó không phải là bạo lực trấn áp mà là tổ chức xã hội.
V.I.Lênin chỉ rõ rằng: “Chuyên chính vô sản... không phải chỉ là bạo lực đối
với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực”, mà chủ yếu là thực
hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Tóm lại, với hai đặc điểm trên, nhà nước vô sản không còn là nhà nước
theo nguyên nghĩa mà là nhà nước “nửa nhà nước”.
(Xây dựng NN pháp quyền ở VN hiện nay hoặc liên hệ) Nhà nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định: “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân
dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân... Tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công,
phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương”. Đó là
26


Khối kiến thức I: Những vấn đề cơ bản của CN Mác-Lênin
Nội dung 2: Chủ nghĩa duy vậy Mác xít về Nhà nước

nhà nước thuộc phạm trù nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó không chỉ bắt nguồn từ đặc điểm
của thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, mà còn xuất phát từ thực tế và đòi hỏi của cách mạng Việt Nam, “muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là
một quá trình, hơn nữa đối với nước ta, đó là một quá trình lâu dài. Nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội không phải từ một nước tư bản phát triển, mà từ
một xã hội tiền tư bản, bỏ qua chế độ tư bản; xây dựng chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa không phải từ chế độ dân chủ tư sản, mà từ chế độ dân chủ nhân
dân, hơn nữa từ một chế độ dân chủ nhân dân chủ yếu thích ứng với nhiệm vụ
đấu tranh giải phóng dân tộc và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Với
xuất phát thấp như vậy, chúng ta không có khả năng tạo lập ngay được cơ sở
kinh tế - xã hội đầy đủ cho chủ nghĩa xã hội, cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Chính vì vậy, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình
lâu dài, gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, áp đặt một chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa đầy đủ là không phù hợp. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là
hiện nay chúng ta chưa nên “phát huy dân chủ đến cùng”. “Phát huy dân chủ
đến cùng” không phải là sự áp đặt một hình thức dân chủ cao trong điều kiện
kinh tế và dân trí còn thấp kém, mà là “tìm kiếm”, “thử nghiệm” và xây dựng
những thiết chế, cơ chế nhà nước phù hợp với điều kiện hiện nay, nhằm thực
hiện một cách hữu hiệu quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.
Trong đổi mới, Đảng ta chủ trương dân chủ hóa xã hội, dân chủ hóa tổ
chức và phương thức hoạt động của Nhà nước. Chủ trương đó không chỉ phản
ánh đòi hỏi tất yếu khách quan của quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa từ một đất nước chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản, mà còn bắt nguồn
từ yêu cầu phải khắc phục tình trạng thiếu dân chủ và dân chủ còn mang nặng
tính hình thức trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta. Một trong những
lý do chủ yếu của tình trạng đó là do Nhà nước chưa thực sự tồn tại dưới hình
thức chế độ dân chủ. Do ảnh hưởng của chiến tranh và những nguyên nhân
khác, thực chất Nhà nước ta còn mang nặng tính chất là một hệ thống quan
liêu, mệnh lệnh hành chính. Vì vậy, dân chủ hóa tổ chức và phương thức hoạt
27


×