Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Báo cáo chuyên môn Tự nhiên xã hội lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 28 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Giảng dạy là một quá trình mang tính chất nghệ thuật tạo sự kích thích, định
hướng và hướng dẫn. Dạy không chỉ là sự truyền đạt đơn thuần kiến thức mà là
một quá trình tạo mối tương quan giữa người dạy, người học và tư liệu giảng
dạy. Thông thường con người chỉ nhớ: 10% những gì họ đọc, 20% những gì họ
nghe, 80% những gì họ nói và đến 90% những gì họ nói và làm, tức là khi họ tự
khám phá cho chính họ. Đặc biệt với cấp học Tiểu học, phụ huynh và các em
vẫn xem trọng môn Toán và Tiếng Việt, trong khi đó môn Tự nhiên và Xã hội
cũng không kém phần quan trọng. Chúng ta phải làm sao học sinh vẫn nắm bắt
được những kiến thức về xã hội và thế giới tự nhiên trong tâm thế thoải mái là
vấn đề rất được quan tâm. Trò chơi học tập chính là một chiếc cầu nối hữu hiệu
thân thiện nhất, tự nhiên nhất giữa người dạy và người học trong việc tự giải
quyết nhiệm vụ chung đạt được mục đích đề ra làm thoả mãn nhu cầu của cá
nhân. Áp dụng hình thức dạy học trò chơi học tập là một phương pháp đổi mới
đáp ứng yêu cầu dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cức tự
giác của người học.
2. Lí do chọn đề tài:
Việc vận dụng phương pháp trò chơi trong quá trình dạy học là rất cần thiết,
làm sao cho mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Trò chơi xuất phát từ nội
dung bài học là hoạt động góp phần làm cho học sinh hứng thú, ham thích học
tập tạo không khí phấn khởi tạo tâm thế thoải mái trước giờ học hay củng cố
nắm chắc kiến thức đã được học, kích thích tư duy sáng tạo và rèn kĩ năng. Theo
mục tiêu giáo dục hiện nay, giáo dục học sinh phát triển toàn diện cả đức, trí,
thể, mĩ. Các hoạt động dạy - học ở trường Tiểu học đang đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng: Lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng
tạo, chủ động của học sinh. Đối với học sinh tiểu học, lứa tuổi vừa học vừa chơi,
hiếu động, chóng chán, vấn đề tạo nên hứng thú học tập cho các em là rất quan
trọng. Trò chơi tác động toàn diện đến trẻ em vì nó dễ dàng thâm nhập vào xúc
cảm, tình cảm thúc đẩy mọi hành động của trẻ.
0




Hiện nay, vận dụng trò chơi học tập vào dạy học không phải là vấn đề mới
mẻ. Các công trình nghiên cứu về môn Tự nhiên - xã hội, các nguồn tư liệu: các
sách thiết kế, sách giáo viên hướng dẫn soạn giáo án… đã đưa ra rất nhiều trò
chơi nhưng còn rời rạc từng trò chơi cho từng bài học mà chưa có tính hệ thống.
Một số trò chơi đòi hỏi cao về công tác chuẩn bị không phù hợp với đặc điểm cơ
sở vật chất trường học...
Với chủ đề Tự nhiên, sách giáo viên hay sách thiết kế chỉ đưa ra trò chơi
chưa có tính phong phú chỉ có hai trò chơi. Giáo viên rất khó áp dụng, đối với
học sinh rất dễ gây nhàm chán, làm giảm hiệu quả các tiết học.
Từ những lí do trên tôi chọn đề tài: “Xây dựng hệ thống trò chơi học tập
phục vụ dạy học chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2” hi vọng khi
nghiên cứu đề tài này sẽ mang lại nhiều kinh nghiệm dạy học khi áp dụng
phương pháp sử dụng trò chơi, bổ sung, phát triển vốn trò chơi thêm phong phú
và đa dạng.

B . PHẦN NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Chương 1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu:
1.1. Đặc điểm nội dung chương trình môn Tự nhiên – Xã hội lớp 2:
Môn Tự nhiên và Xã hội là môn học chứa đựng những kiến thức gắn với đời
sống con người, các sự vật hiện tượng trong thực tế cuộc sống rất gần gũi với
học sinh Tiểu học. Môn Tự nhiên và Xã hội là môn học tích hợp kiến thức của
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội trong đó tỉ trọng kiến thức khoa học stự
nhiên nhiều hơn so với kiến thức khoa học xã hội ”.[1, tr 8] Môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 2 được xây dựng theo quan điểm tích hợp xem xét tự nhiên con người và
xã hội trong một thể thống nhất có quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, các kiến
thức trong chương trình là kết quả tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học
sinh học, vật lí, địa lí, lịch sử, môi trường. Nội dung chương trình có cấu trúc
đồng tâm, hợp lí ”.[5, tr 24] Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 sẽ tiếp

tục phát triển, mở rộng các kiến thức các em đã học ở lớp 1 theo 3 chủ đề: Con
người – sức khỏe, Xã hội, Tự nhiên. Sau khi học xong chủ đề Tự nhiên học sinh
1


cần đạt được mục tiêu đề ra: Biết sơ lược về hoạt động của cơ quan vận động và
cơ quan tiêu hóa ở cơ thể người; phòng chống cong vẹo cột sống; giữ vệ sinh ăn
uống, phòng nhiễm giun. Biết về công việc của các thành viên trong gia đình,
nhà trường và một số nghề nghiệp trong xã hội, ở địa phương; giữ sạch nhà ở,
trường học, giữ an toàn khi ở nhà, ở trường và khi đi đường. Biết cây cối và các
con vật có thể sống được ở khắp nơi: trên cạn, dưới nước, trên không; biết quan sát
bầu trời ban ngày, ban đêm; có hiểu biết sơ lược về hình dạng và đặc điểm của Mặt
trời, Mặt trăng và các vì sao[1, tr 4]. Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ
năng: Tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân, ứng xử hợp lí trong đời sống để
phòng chống một số bệnh tật và tai nạn. Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt
câu hỏi, biết cách diễn đạt những hiểu biết của mình về các sự vật, hiện tượng
đơn giản trong tự nhiên và xã hội. Hình thành và phát triển những thái độ và
hành vi: Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia
đình và cộng đồng. Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương. Môn học
Tự nhiên và Xã hội là môn học về môi trường tự nhiên và xã hội gẫn gũi, bao
quanh học sinh, vì vậy có rất nhiều nguồn cung cấp kiến thức cho các em. Do
đó, không chỉ có giáo viên cung cấp trí thức cho các em lĩnh vực này, các em có
thể thu nhận kiến thức từ nhiều nguồn khác. Với chủ đề Tự nhiên học sinh sẽ
được học về thực vật và động vật: một số cây cối và một số con vật sống trên mặt
đất, dưới nước, trên không. Về bầu trời ban ngày và ban đêm các em sẽ được học
về mặt trời cách tìm phương hướng bằng mặt trời, mặt trăng và các vì sao, qua 10
bài học cụ thể.”.[1, tr 6]
Ở trường Tiểu học hiện nay, môn Tự nhiên và Xã hội là một trong những môn
học chiếm vị trí quan trọng cùng với các môn học khác có vai trò tích cực trong
việc phát triển toàn diện cho học sinh. Việc coi trọng thực hành và vận dụng

kiến thức, quan tâm đến năng lực tự học, tự khám phá kiến thức của học sinh rất
được quan tâm.
Việc tự khám phá để hiểu biết và tiếp thu kiến thức mới hay củng cố kiến
thức đã học rất hữu ích so với sự rập khuôn, bắt trước. Thế giới tự nhiên xung
quanh các em rất phong phú, đa dạng. Trò chơi sẽ minh hoạ một cách sinh động
2


nội dung bài học các bài trong chủ đề Tự nhiên. Sau khi chơi, các em biết được
rõ hơn về các cách làm thiết thực hay cách nhìn đẹp, hiểu được và nhận xét về
thế giới thực động vật, làm không khí giờ học thoải mái, hào hứng dễ chịu hơn,
giảm sự căng thẳng, phát triển sự nhanh trí, gây hứng thú học tập cho các em.
Trò chơi làm cho quá trình học tập trở thành một hình thức vui chơi hấp dẫn, học
sinh học mà chơi, chơi mà học nâng cao hiệu quả tiết học .
1.2. Trò chơi học tập và vai trò của trò chơi học tập:
Trò chơi là một loại hình hoạt động rất quen thuộc, gần gũi với mọi người. Ở
nhiều gốc độ khác nhau trò chơi được định nghĩa riêng, có thể trò chơi là một
hoạt động tự nhiên cần thiết thỏa mãn nhu cầu giải trí của con người hay là một
phương pháp thực hành hiệu nghiệm đối với việc hình thành nhân cách và trí lực
của trẻ em... Theo quan điểm của tác giả Hà Nhật Thăng, trong cuốn “Tổ chức
hoạt động vui chơi ở Tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ, thể lực cho học
sinh”, “trò chơi là một hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một nội dung nhất
định và có những quy định mà người tham gia phải tuân thủ”[4, tr 6]
Trò chơi học tập được hiểu một cách đơn giản là các trò chơi có nội dung
gắn với các hoạt động học tập của học sinh nhằm giúp học sinh học tập trên lớp
được hứng thú, vui vẻ hơn[5, tr 49]. Nội dung của trò chơi này là sự thi đấu về
một hoạt động trí tuệ nào đó như sự chú ý, sự nhanh trí, sức tưởng tượng, sáng
tạo...Ví dụ như các câu đố, triển lãm, đố bạn con gì?.
Theo F.l.Frratkina cho rằng: “Hành động chơi luôn là hành động giả
định. Hành động chơi mang tính khái quát, không bị giới hạn bởi cấu tạo của

đồ vật”[8, tr 12]. Vui chơi là hoạt động cần thiết, góp phần phát triển nhân cách
con người ở mọi lứa tuổi, nhất là đối với học sinh mẫu giáo và tiểu học. Đối với
học sinh mẫu giáo vui chơi là hoạt động chủ đạo, bước sang lứa tuổi Tiểu học
hoạt động học là chính. Khoảng cách giữa hai lứa tuổi này là không lớn nhưng
hoạt động chủ đạo có sự thay đổi lớn. Vì vậy, giáo viên phải tạo cho các em sân
chơi học tập: chơi mà học, học mà chơi.
Học sinh Tiểu học là lứa tuổi ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và
chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa, chú ý có chủ định của trẻ còn yếu
3


khả năng ghi nhớ chưa cao. Đối tượng cảm xúc của các em là những sự vật hiện
tượng cụ thể, sinh động[2, tr 36] mà theo quan điểm dạy học, quá trình dạy học
là một quá trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng đến thực tế cuộc sống. Học sinh tiểu học tư duy cụ thể còn chiếm ưu thế,
phương pháp dạy học truyền thống theo hướng một chiều: giáo viên truyền thụ
học sinh tiếp nhận làm cho học sinh dễ mệt mỏi chán nản trong giờ học, khó tiếp
thu bài học. Giờ học diễn ra nặng nề, không duy trì được khả năng chú ý của học
sinh. Học là một hoạt động trong đó học sinh là chủ thể, tổ chức dạy học sao cho
học sinh phải luôn được vận động vừa sức, tiếp thu những kiến thức cần đạt. Trò
chơi là nhu cầu không thể thiếu đối với trẻ và là một trong những hình thức đáp
ứng yêu cầu đó.
Vì vậy, việc sử dụng trò chơi học tập là rất cần thiết, đa dạng hình thức dạy
học thay đổi không khí lớp học, giáo viên vẫn cho học sinh nắm bắt mọi nội
dung bài học trong tâm thế thoải mái, tự giác cao. Trò chơi góp phần đổi mới
phương pháp dạy học. Hoạt động vui chơi là điều kiện, là môi trường, là giải
pháp, là cơ hội thuận lợi nhất góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, tạo điều
kiện để trẻ phát triển tâm lực, thể lực, trí lực một cách tổng hợp. [4, tr 14]. Trò
chơi giúp cho học sinh phát triển thêm những điều mới mà các em đã tiếp cận
trong sách giáo khoa, luyện tập những kĩ năng thao tác mà các em được học tập.

Qua vui chơi các em sẽ được rèn luyện các tình huống khác nhau buộc mình
phải có sự lựa chọn hợp lí, tự mình phát hiện được những điểm mạnh, điểm yếu,
những khả năng hứng thú cũng như nhược điểm của bản thân. Tổ chức trò chơi
khoa học hợp lí giúp học sinh phát triển về mặt thể chất một cách tự nhiên rèn
tính nhanh nhẹn, hoạt bát tự tin hơn trước đám đông. Đặc biệt sự phối hợp nhịp
nhàng giữa các thao tác vận động và sự phát triển tư duy khả năng điều khiển
của thần kinh trung ương sẽ càng phát triển chuẩn xác. Ngoài ra, sân chơi trò
chơi rèn cho học sinh rất nhiều kĩ năng sống cần thiết: kĩ năng tổ chức, kĩ năng
giao tiếp, ứng xử, hợp tác, kiểm tra đánh giá...

4


Việc tổ chức trò chơi học tập trong giờ học đem lại lợi ích thiết thực góp
phần tạo không khí hào hứng thoả tâm sinh lí trẻ, thúc đẩy tính tích cực hoạt
động sáng tạo, giờ học diễn ra nhẹ nhàng.
Chương 2. Nội dung và kết quả nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu.
2.1.1. Thực tế sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong dạy học:
Để biết được thực tế sử dụng trò chơi học tập trong dạy học chủ đề Tự
nhiên môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 2 hiện nay, tôi đã tiến hành điều tra và quan
sát giáo viên ở trường Tiểu học thực tập Vĩnh Lợi.
Giáo viên nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và tác dụng của trò chơi
trong dạy học. Với hơn 90% giáo viên đều cho rằng sử dụng trò chơi trong dạy
học làm cho học sinh không nhàm chán, giờ học nhẹ nhàng thoải mái, nâng cao
hiệu quả giờ dạy.
Trong khi đó một số giáo viên có tuổi vẫn nặng về áp dụng các phương
pháp dạy học truyền thống, kĩ năng tổ chức trò chơi còn hạn chế, giáo viên vẫn
làm việc nhiều còn học sinh thụ động. Thêm vào đó, do tác động của điều kiện
thời gian, cơ sở vật chất, đặc điểm học sinh cho nên việc áp dụng phương pháp

trò chơi trong học tập chưa phổ biến và áp dụng chưa có hiệu quả. Tài liệu tham
khảo về trò chơi học tập rất nhiều nhưng phần lớn các trò chơi có sự lặp lại,
chưa có tính hệ thống cụ thể. Sách giáo viên hướng dẫn soạn bài giảng đưa ra rất
ít, đơn điệu, chưa có tính hệ thống các trò chơi chỉ có 2 trò chơi: Triển lãm, Tìm
phương hướng bằng mặt trời. Một số trò chơi yêu cầu về sự chuẩn bị rất phức
tạp, với đặc điểm hiếu động của học sinh giáo viên rất khó quản lí lớp học. Hơn
2/3 giáo viên đều rất hạn chế trong việc tổ chức trò chơi, khi sử dụng thì các
thầy cô đều áp dụng vào phần củng cố bài cuối giờ học, rất ít thầy cô sử dụng trò
chơi như là một hình thức dạy học bài mới. Vẫn tồn tại số ít giáo viên luôn có sự
rập khuôn từ sách thiết kế bài giảng các trò chơi, lặp đi lặp lại các trò chơi gây ra
sự nhàm chán cho học sinh. Bên cạnh đó một số giáo viên có hướng tìm tòi đổi
tên gọi hay cách chơi phong phú luôn tạo cảm giác mới lạ cho học sinh. Vấn đề
5


sử dụng trò chơi trong học tập là vấn đề rất cần thiết. Giáo viên nhận thức một
cách sâu sắc về việc sử dụng trò chơi học tập trong dạy học.
Vì vậy, để sử dụng trò chơi học tập trong dạy học có hiệu quả việc cung
cấp các tài liệu tham khảo cũng như tổ chức các chuyên đề, hội thảo mở các lớp
tập huấn để không ngừng nâng cao kĩ năng tổ chức cho giáo viên là nhu cầu cấp
thiết. Đồng thời, các cấp quản lí, giáo viên cần đầu tư hơn nữa về trang thiết bị
dạy học. Thiết kế các giờ dạy Tự nhiên và Xã hội hợp lí, áp dụng mọi phương
pháp tối ưu trong dạy, chơi nhưng học, hoạt động vui chơi và học tập có sự cân
đối.
Từ thực tế sử dụng như vậy tôi nghiên cứu đề tài nhằm hoàn thiện hệ thống
trò chơi: sáng tác một số trò chơi dễ áp dụng với hình thức tổ chức dễ dàng vào
các bài học, sự chuẩn bị đơn giản phù hợp với đặc điểm trường học, giáo viên và
đặc điểm tâm lí của học sinh đem lại hiệu quả cao.
2.1.2. Nguyên tắc thiết kế và sử dụng trò chơi học tập:
Sau khi phân tích nội dung chương trình, tôi thấy có hai dạng bài gồm:

Dạng bài về thế giới động thực vật gồm các bài: Cây sống ở đâu?, Một số loài
cây sống trên cạn, Một số loài cây sống dưới nước, Loài vật sống ở đâu?, Một số
loài vật sống trên cạn, Một số loài vật sống dưới nước, Nhận biết cây cối và các
con vật. Dạng bài thứ 2 là: dạng bài về thiên thể gồm các bài: Mặt trời, Mặt trời
và các phương hướng, Mặt trăng và các vì sao.
Khi thiết kế trò chơi cho chủ đề này, tôi cần tuân thủ các nguyên tắc thiết
kế: Thứ nhất là đặt tên trò chơi phải hấp dẫn gây sự chú ý của học sinh ngay từ
đầu, phải thể hiện được nội dung trò chơi, tên không được quá dài. Ví dụ : Ong
đi tìm nhụy, Đố bạn con gì?...Thứ hai là không phải bài học nào cũng có thể áp
dụng trò chơi, đặc biệt là các bài trong nhóm dạng bài về thiên thể áp dụng rất
khó. Khi thiết kế trò chơi cần xác định cụ thể hệ thống trò chơi nào phục vụ cho
dạng bài gì ở hoạt động nào của bài dạy khởi động trước khi học, cung cấp kiến
thức mới hay củng cố, ôn tập kiến thức. Chơi là một nhu cầu tự nhiên mà theo
Xamarucôva- nhà tâm lí học Nga- nói về trò chơi trẻ em như sau: “ Trò chơi trẻ
em không mang tính trách nhiệm. Nó là một biểu hiện mang tính tự do, tự
6


lực, tự hoạt động của chúng. Trong trò chơi, đứa trẻ không phụ thuộc vào
nhu cầu thực hành, đứa trẻ chơi xuất phát từ những nhu cầu và hứng thú
trực tiếp của bản thân”. Nhưng trò chơi học tập luôn phải tuân theo nguyên tắc
thứ ba thể hiện được tính thi đua giữa các cá nhân, giữa các nhóm để tạo ra
không khí thi đua hào hứng đem lại hiệu quả cao giúp phát triển những kĩ năng
cần thiết cho học sinh: tính hợp tác, kiên trì, nổ lực... Chơi dù để học hay chỉ với
mục đích chơi đều phải tuân theo nguyên tắc thứ tư có tính kỉ luật, cách thức
chơi cụ thể riêng biệt của mỗi trò chơi. Người ta gọi đó là luật chơi. Luật chơi
khiến cho trò chơi hấp dẫn tạo ra sự bình đẳng giữa người chơi. Khi thiết kế, tôi
đã chọn lọc và tìm ra các điểm chung của các trò chơi để tạo nên hệ thống. Ví dụ
hệ thống trò chơi: Gọi hình đáp tiếng, Kể nhanh kể đúng, Cây gì sống ở đâu?...
được gọi tắt thành trò nhận biết đối tượng với cách thực hiện chơi là giáo viên sẽ

chia lớp thành hai đội, các đội sẽ nêu tên các đối tượng sao cho phù hợp với
những đặc điểm của đối tượng đó.
Nguyên tắc cuối cùng: Khi chơi học sinh mong đợi nhất đó là kết quả trò
chơi vấn đề đưa ra thang đánh giá trò chơi là rất quan trọng. Trò chơi học tập là
một hoạt động mới mẻ, đầy sáng tạo. Nhiều trò chơi được sử dụng nhiều lần
nhưng vẫn lôi cuốn người tham gia. Bởi lẽ, cả quá trình chơi và kết quả trò chơi
là một ẩn số bất ngờ đối với tất cả người tham gia. Giáo viên cần có hình thức
khen thưởng cho đội thắng, phạt nhẹ nhàng đội thua như thế nào có thể là cho
các em múa theo lời bài hát...
Thiết kế trò chơi học tập dựa vào các nguyên tắc trên và khi sử dụng chúng
cần đảm bảo các yêu cầu cụ thể. Như chúng ta đã biết không nên áp đặt cho học
sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập.
Khi sử dụng bất kì phương pháp dạy học gì cần chú ý các yêu cầu của
phương pháp đó. Khi sử dụng trò chơi trong học tập trong chủ đề Tự nhiên, giáo
viên cần phải đảm bảo các yêu cầu. Với những đặc điểm hiếu động và ghi nhớ
của học sinh Tiểu học
Đầu tiên trò chơi phải dễ chơi có luật chơi rõ ràng, dễ hiểu.

7


Thứ hai, trò chơi phải gắn liền với mục tiêu - nội dung cho từng bài học:
Bất kì bài học nào cũng có mục tiêu đề ra kết hợp với nội dung kiến thức truyền
đạt. Tùy vào mục tiêu, nội dung của từng bài mà giáo viên có sự lựa chọn cho
phù hợp. Ví dụ: Khi dạy bài “Một số loài vật sống trên cạn” thay vì truyền đạt
kiến thức một cách thụ động tôi đã cho học sinh chơi trò chơi học tập: Hoa nào
đẹp nhằm mục đích: giúp học sinh tự nắm bắt và ghi nhớ dễ dàng loài vật nào là vật
nuôi và loài vật nào sống hoang dã, rèn kĩ năng quan sát, tạo không khí học tập. Với
các phương tiện chuẩn bị: hai nhụy hoa: vật nuôi- vật hoang dã, các cánh hoa là hình
ảnh các con vật. Trong thời gian khoảng 7- 8 phút giáo viên sẽ chia lớp thành hai đội.

Mỗi đội gồm 5 bạn, trên tay mỗi bạn sẽ có các cánh hoa. Nhiệm vụ của hai đội là lần
lượt lên gắn các cánh hoa vào nhụy hoa của đội mình. Kết thúc trò chơi: đại diện mỗi
đội trình bày bông hoa của đội mình, lớp và giáo viên nhận xét tuyên dương đội
thắng cuộc.
Thứ ba, trò chơi phải phù hợp với năng lực của học sinh, thu hút được
nhiều học sinh tham gia. Theo Usinxki, trò chơi đối với trẻ em là một hoạt động
tự lực. Trẻ em hứng thú với trò chơi vì trong trò chơi có sự sáng tạo, trẻ là những
người trưởng thành, đang thử sức lực của mình và tự tổ chức công việc của
mình. Giáo viên là người tổ chức học tập cho học sinh. Chúng ta cần tôn trọng ý
kiến các em, cần tìm hiểu hứng thú của các em với trò chơi gì ở mức độ nào, nó
tác động đến việc học ra sao?
Thứ tư, trò chơi phải đảm bảo tính đồng đều, vừa sức học sinh để mọi học
sinh trong lớp đều được tham gia. Ví dụ: Trong tiết ôn tập chủ đề giáo viên tổ
chức cho học sinh chơi trò chơi “Giải câu đố” nhằm giúp học sinh nắm chắc
kiến thức về tự nhiên, rèn năng lực tư duy, phản ứng nhanh. Giáo viên chuẩn bị
hệ thống câu đố về thế giới tự nhiên. Luật chơi: đội nào ghi được nhiều điểm là
đội thắng cuộc. Giáo viên chia lớp thành hai đội. Sau khi giáo viên đọc câu đố
hai đội sẽ đưa tay dành quyền trả lời. Đội nào trả lời đúng sẽ ghi 1 điểm, đội nào
không trả lời được quyền trả lời thuộc về đội còn lại. Tổng kết trò chơi đội nào
ghi điểm nhiều thắng cuộc.

8


Thứ năm, trò chơi phải đảm bảo tính giáo dục thẩm mĩ: Chúng ta dạy học sinh
không chỉ về thế giới tự nhiên mà còn dạy học sinh làm người. Do đó, trò chơi còn phải
gớp phần giúp các em trở thành những người tốt, biết bảo vệ tự nhiên. Do đó khi áp
dụng bất kì trò chơi nào có sử dụng phương tiện trực quan cần chuẩn bị chu đáo,
cẩn thận, rõ ràng, đẹp thu hút học sinh chú ý.
Cuối cùng, trò chơi phải đảm bảo an toàn, tiết kiệm phù hợp

với cơ sở vật chất của trường lớp. Đối với trẻ em, đồ chơi là
phương tiện để chơi, đã chơi là phải có đồ chơi và thời gian một
tiết học có qui định phù hợp với mục tiêu đề ra. Giáo viên phải
xác định rõ mục tiêu, cách tổ chức, các phương tiện trực quan
cần chuẩn bị một cách chu đáo để khi lên lớp không mất thời
gian, hạn chế tốn kém về vật chất. Phương pháp trò chơi cũng
chỉ là một hình thức dạy học nên khi sử dụng phải đảm bảo thời
gian cụ thể, trò chơi gì đáp ứng yêu cầu dạy học nào? Học sinh
Tiểu học rất hiếu động, giáo viên phải có khả năng quản lí lớp, kĩ
năng tổ chức trò chơi đảm bảo an toàn cho học sinh trong khi chơi
là điều tất yếu.
2.1.3. Thực tế sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học:
2.1.4. Nguyên tắc thiết kế và sử dụng phương pháp bàn tay
nặn bột

2.2. THỰC NGHỆM SƯ PHẠM
2.2.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm:
- Tiến hành thực nghiệm sử dụng trò chơi học tập ở các bài thuộc chủ đề
Tự nhiên cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Vĩnh Lợi nhằm đánh giá, kiểm
nghiệm tính hiệu quả của hệ thống trò chơi đã xây dựng được. Qua đó, khẳng
9


định hơn nữa vai trò của trò chơi trong dạy học, tạo hứng thú học tập, nâng cao
hiệu quả giờ dạy.
- Yêu cầu: Tiến hành thực nghiệm việc sử dụng trò chơi trong dạy học
một số bài trong chủ đề Tự nhiên môn Tự nhên và Xã hội tại lớp 2 phải đảm bảo
tính khách quan, chân thực.
- Quan sát kết hợp đứng lớp, điều tra, thống kê và xử lí số liệu rút ra nhận
xét, kết luận.

2.2.2. Nội dung thực nghiệm:
Tôi đã thực nghiệm 3 bài trong chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp
2:
- Một số loài cây sống trên cạn
- Loài vật sống ở đâu?
- Một số loài vật sống trên cạn
Tôi đã phát phiếu thăm dò đối với học sinh, phiếu trưng cầu ý kiến đối với
giáo viên, thu thập xử lí số liệu.
2.2.3. Đối tượng thực nghiệm: Khối lớp 2 trường Tiểu học Vĩnh Lợi.
Học sinh khối lớp hai trường tiểu học Vĩnh Lợi với 295 học sinh. Các em
học bán trú 2 buổi/ ngày. Tôi tiến hành thực nghiệm tại lớp 2/5. Lớp học với
diện tích 45m2 và 44 học sinh trong đó có 23 học sinh nam. 98% học sinh đi học
đúng độ tuổi, các em đều là con cán bộ, nhân viên, làm thợ điều kiện sống đảm
bảo chỉ có 2 học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Thuận lợi của lớp: được Ban giám
hiệu nhà trường quan tâm giúp đỡ 100% học sinh và giáo viên có đủ SGK và đồ
dùng học tập. Lớp học đạt kết quả tốt: 89% học sinh đạt loại giỏi, 100% có hạnh
kiểm đạt. Bên cạnh đó vẫn tồn tại một số khó khăn: một số em tiếp thu bài và
làm bài còn chậm, rất hiếu động. Đối với các môn học như Tự nhiên và xã hội,
Đạo đức... tỉ lệ học sinh đạt loại giỏi hạn chế chỉ chiếm khoảng: 25%, còn lại là
loại khá.
2.2.4 Tiến hành thực nghiệm:
Đối với bài:
- Một số loài cây sống trên cạn
10


2.2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm:
Sau khi tiến hành thực nghiệm ba lần đối với ba bài học tại các lớp khối 2,
tôi nhận thức rằng: Trong giờ học, học sinh rất hăng say phát biểu bài, nắm bắt
bài nhanh, không khí lớp học sôi nổi, thoải mái.

Ở bài: Một số loài cây sống trên cạn, tôi được dự giờ tiết dạy của bạn
không tổ chức trò chơi trong giờ học. Tôi nhận thấy lớp học rất trầm, khả năng
quản lí của giáo viên còn hạn chế. Cũng với các hoạt động như vậy nhưng giáo
viên không tổ chức cho học sinh có tính thi đua, hiệu quả tiết học thấp. Tôi tiến
hành thực nghiệm trò chơi: “Hội thi triển lãm” ở hoạt động thứ hai và nhận thấy
lớp học sôi nổi, sau tiết học các em nắm bắt thêm được rất nhiều loài cây sống
trên cạn mà trong sách không nói đến. 90% giáo viên đồng ý với hình thức tổ
chức trò chơi mà tôi đưa ra.
Sau giờ học, tôi phát phiếu kiểm tra đối với học sinh thì hầu hết các học
sinh đều rất thích chơi trò chơi khi học, hiểu bài hơn so với các tiết học thông
thường. Tiết học diễn ra trôi chảy, đảm bảo mục tiêu, nội dung đề ra.
Bảng 1:
* Phân loại trò chơi theo tính chất bài học:

STT
1.

Loại hoạt động
Khởi động

Tên trò chơi
- Alibaba, nhanh tay lẹ mắt, con công hay
múa, con thỏ ăn cỏ uống nước vào hang,
chanh chua cua kẹp, chim bay- cò bay...

2.

Dạy bài mới

- Ghép 2 đối tượng, xếp hình, nối nhanh vào

hình, ai biết nhiều hơn, kể nhanh kể đúng, gọi
hình đáp tiếng, hoa nào đẹp, .

11


3.
Củng cố kiến thức

- Ghép 2 đối tượng, xếp hình, nối nhanh vào
hình, ai biết nhiều hơn, kể nhanh kể đúng, gọi
hình đáp tiếng, nhìn nhanh nhìn đúng, tiếp
sức, thử tài học sinh,đố bạn con gì?, giải câu
đố, Cây gì sống ở đâu?...

4.

- Giải câu đố, tổ chức triểm lãm, hái hoa dân
Ôn tập chủ đề

chủ, ô chữ kì diệu, chỉ tên những kẻ giấu tên,
đếm nhanh, Ai nhanh ai tài, tiếp sức...

Theo nội dung bài học trò chơi áp dụng với 2 dạng bài: Bài về thế giới
động thực vật ở các bài này các em sẽ được tìm hiểu trực tiếp về các loài cây,
loài vật xung quanh các em, tôi đã hệ thống các dạng trò chơi cho kiểu bài này
gồm: Điền đúng thông tin, Nối nhanh vào hình, Triển lãm, Câu đố về các loài
vật và loài cây, Gọi hình-đáp tiếng, Kể nhanh kể đúng. Dạng bài thứ hai mà tôi thiết
kế các bài về thiên thể với các cách xác định phương hướng, thế giới vũ trụ, hệ thống
trò chơi gồm: Tìm phương hướng bằng mặt trời, Ai thông minh hơn, Du hành vũ trụ.

Bảng 2:
* Phân loại trò chơi theo nội dung bài học:
STT

Nội dung bài học

Tên trò chơi
- Tìm tên các con vật trong ô chữ, Xếp hình,
Nối nhanh vào hình, Ai biết nhiều hơn, Kể
nhanh kể đúng, Gọi hình đáp tiếng, Tiếp sức,

1

2

Thế giới động

Hoa nào đẹp, Hội thi triển lãm, Đố bạn con gì?,

thực vật

Giải câu đố, Nêu đúng tên, Cây gì sống ở đâu?,

Các thiên thể

Thi kể tên, Ai nhanh hơn, Xì điện, Hát nối. . .
Nhà du hành vũ trụ, Tiếp sức, Ai nhanh hơn,
Tìm phương hướng bằng mặt trời...

12



Tuỳ vào từng dạng bài dạy và dựa trên hệ thống trò chơi xây dựng các giáo
viên có thể sử dụng các trò chơi vào các bài dạy một cách có hiệu quả nhất.
2.1.4. Quy trình lựa chọn và thực hiện trò chơi:
Để xây dựng hoàn chỉnh hệ thống trò chơi hoàn chỉnh đáp ứng nội dung các
bài học trong chủ đề Tự nhiên, tôi đã tiến hành theo các bước: Đầu tiên sau khi
chọn phân tích phần Tự nhiên trong chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 2: tôi
nghiên cứu đặc điểm nội dung cấu trúc chương trình và tìm hiểu các trò chơi
trong các sách tham khảo. Thứ hai dựa vào các tiêu chí phân loại trò chơi tôi đã
tập hợp phân tích những ưu cũng như nhược điểm của các trò chơi đó. Thứ ba
đối tượng phục vụ trò chơi là học sinh việc tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của
học sinh, giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất của trường học rất quan trọng. Thứ
tư, tôi nắm bắt các ưu điểm của các trò chơi vốn có tìm cách khắc phục hạn chế
vốn có của nó, sưu tầm mở rộng hệ thống trò chơi. Từ những trò chơi sưu tầm
được kết hợp với trò chơi sáng tác được tôi bước sang bước thứ năm tìm ra các
đặc điểm chung của chúng và nhóm lại tạo thành hệ thống. Từ những hệ thống
trò chơi kết hợp soạn giáo án ứng dụng các trò chơi vào thực tiễn giảng dạy tại
các lớp ở trường phổ thông khảo sát tính thực dụng của đề tài.
Để lựa chọn và thực hiện một trò chơi chúng ta cần thực hiện theo 4 bước. Sau
khi nắm bắt, phân tích yêu cầu của từng bài, tiết học chúng ta đi vào bước 1: Lựa
chọn trò chơi: dựa vào hệ thống trò chơi được xây dựng cần lựa chọn trò chơi phù
hợp. Đi vào bước 2: Chuẩn bị tổ chức trò chơi: để tiết dạy thành công việc xây dựng
giáo án với đầy đủ mục tiêu, ý nghĩa, nội dung các hoạt động tiến hành cụ thể, chuẩn
bị các phương tiện phục vụ trò chơi, thang đánh giá trò chơi là rất quan trọng. Đến
phần mà mọi học sinh hứng thú nhất đó là bước 3: Tổ chức trò chơi: chúng ta cần
nêu rõ tên gọi, qui luật chơi, các yêu cầu về tổ chức kỉ luật, cách phân thắng thua như
thế nào...cho học sinh chơi và theo dõi.
Cuộc chơi nào rồi cũng đến lúc kết thúc đó là bước 4 của quá trình tổ chức
trò chơi. Các thành phần tham gia trò chơi đưa ra kết qủa làm được sau thời gian

chơi, giáo viên đưa ra đánh giá chung về kết quả trò chơi, tuyên dương khen
thưởng đội thắng đưa ra hình phạt với đội thua.
13


2.1.5. Hệ thống trò chơi thiết kế trong chủ đề Tự nhiên:
Dựa vào các tiêu chí và cơ sở phân loại trò chơi kết hợp nghiên cứu hệ
thống bài học ngoài hai trò chơi trong sách thiết kế, tôi đã xây dựng bảng hệ
thống trò chơi tương ứng với bài áp dụng:
Bảng 3
* Hệ thống trò chơi, tên bài áp dụng
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18

19
20

Tên trò chơi
Ghép 2 đối tượng
Xếp hình
Nối nhanh vào hình
Hoa nào đẹp
Tổ chức triển lãm tranh
Ong tìm nhụy
Tìm nhà
Ai biết nhiều hơn
Đố bạn con gì?
Ai nhanh hơn và đúng hơn?
Kể nhanh kể đúng,
Gọi hình đáp tiếng
Xì điện
Hát nối
Thi kể tên
Tìm kẻ dấu tên
Con vật bí mật
Giải câu đố?
Ô chữ kì diệu
Tìm phương hướng bằng

Bài áp dụng
Bài 28, bài 29
Bài 32
Bài 32
Bài 28, bài 29

Bài 25, 26, 27, 28, 29, 30.
Bài 28,29
Bài 28, 29
Bài 27, 30
Bài 27, 28, 29, 30
Bài 27, 30, 34
Bài 25, 26, 27, 28, 29, 30
Bài 25, 26, 27, 28, 29, 30
Bài 29
Bài 27
Bài 27, 30
Bài 34
Bài 34
Bài 27, 34
Bài 34

Thời gian
7-9 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút
8- 10 phút

3- 5 phút
6- 8 phút
10- 12 phút
8- 10 phút
10- 12 phút
10- 12 phút

Bài 32

8- 10 phút

Bài 33

8- 10 phút

21

mặt trời.
Nhà vũ trụ tài ba

22

Nhà du hành vũ trụ

Bài 33

8- 10 phút

23


Hái hoa dân chủ.

Bài 34

10- 12 phút

24

Chọn quà tặng

Bài 34

10- 12 phút

Con thỏ, ăn cỏ, uống nước,

Tất cả các bài: ở phần

vào hang

khởi động

25

14

1- 3 phút


Nói theo những gì tôi nói


Tất cả các bài: ở phần

đừng làm những gì tôi làm

khởi động

27

Phe nào thắng

Bài 27, 34

28

Hát mà nghe

29

Con công hay múa,

Bài 27, 30
Tất cả các bài: ở phần

30

Chim bay- cò bay

26


khởi động
Tất cả các bài: ở phần

1- 3 phút
8- 10 phút
3- 5 phút
1- 3 phút

1- 3 phút
khởi động
Từ các trò chơi đó, tôi dựa vào các đặc điểm giống nhau về mục đích sử

dụng nhóm trò chơi thành 4 nhóm sau: trò chơi ghép hai đối tượng, nhận biết đối
tượng, thử tài học sinh, khởi động giờ học. Cụ thể:

15


PHẦN 3: KẾT LUẬN
3.1 Kết luận:
Trò chơi học tập là một trong những phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ, nó
kích thích hứng thú nhận thức, rèn luyện khả năng độc lập suy nghĩ của học
sinh. Với chủ đề Tự nhiên, tôi đã xây dựng hệ thống trò chơi dựa trên 4 nguyên
tắc kết hợp với 2 cơ sở phân loại trò chơi. Từ đó tôi đã xây dựng được 30 trò
chơi (với 4 trò chơi chính và 26 biến thể của trò chơi). Khóa luận đã đưa ra mục
đích, sự chuẩn bị, cách thức tiến hành 4 hệ thống trò chơi chính, dẫn chứng minh
họa một số trò chơi biến thể cùng với cách thức sử dụng chúng một cách có hiệu
quả nhất. Tôi cũng đã soạn 1 giáo án để tiến hành thực nghiệm một trò chơi và
thấy được vai trò của trò chơi trong dạy học hiện nay. Tôi đã trực tiếp áp dụng
các trò chơi vào các tiết dạy cụ thể để kiểm tra tính thực dụng của trò chơi. Nó

đã hợp lí về mục đích sử dụng, hình thức tổ chức, thời gian tổ chức. Mỗi bài học
có rất nhiều trò chơi và qua thực nghiệm, tôi biết được trò chơi gì hợp lí ở hoạt
động dạy học nào. Bên cạnh những thành công đạt được khoá luận này còn một
số hạn chế nhất định, kính mong quý thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến giúp
tôi có thể khắc phục những hạn chế hoàn thành tốt khoá luận.

1. Đối với giáo viên:

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Sau tiết dạy môn Tự nhiên- Xã hội bài: Một số loài vật sống trên cạn lớp
2, mong Cô giáo khoanh tròn giúp em vào ý kiến mà cô chọn:
Câu 1: Với nội dung bài học này thì việc tổ chức trò chơi có phù hợp không:
a. Có

b. Không.
16


Câu 2: Theo cô trò chơi “ Hội thi triển lãm” tổ chức ở hoạt động nào:
a. Cung cấp kiến thức

b. Củng cố kiến thức

Câu 3: Hình thức tổ chức trò chơi đó:
a. Rất hay

b. Cần có sự thay đổi

b. Phù hợp với tên gọi
Câu 4: Theo cô thời gian tổ chức trò chơi là:

a. 3- 5 phút

b. 5- 7 phút

c. 8- 10 phút

d. 10- 12 phút.

Câu 5: Với hình thức chơi như vậy thì em có thể đổi tên trò chơi khác:
a. Ai nhanh hơn

b.Tôi là nghệ sĩ

c. Tiếp sức

d. Tất cả đều sai.

Ý kiến khác của cô giáo:……………………………………………..........…..
………………………………………………………………………...........….
2. Đối với học sinh:

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Họ và tên học sinh :…………………………
Lớp:………………………
Khoanh tròn vào các câu em chọn.
1. Theo em môn Tự nhiên và Xã hội là một môn học :
a. Rất quan trọng

c. Không quan trọng lắm


b. Quan trọng

d. Không quan trọng

2. Mỗi tiết học Tự nhiên và Xã hội thầy cô tổ chức cho các em chơi bao nhiêu
trò chơi?
a. Không có

b. 2 trò chơi

c. 1 trò chơi

d. Hơn 2 trò chơi

3. Các em đã được chơi những trò chơi nào khi học tiết Tự nhiên và Xã hội:
17


Các trò chơi : ..........
……………………………………………………………………
4. Trong quá trình học các em có được tham gia các trò chơi :
a. Thường xuyên

c. Chưa bao giờ.

b. Thỉnh thoảng

d. Luôn luôn

5. Em có thích chơi trò chơi trong giờ học Tự nhiên và Xã hội không :

a. Rất thích

c. Không thích lắm

b. Thích

d. Không thích

6.Trong giờ học Tự nhiên và Xã hội, thầy cô tổ chức trò chơi khi nào :
a. Đầu giờ học

c. Cuối giờ học

b. Trong giờ học bài mới d. Tiết ôn tập
7. Mỗi tiết dạy Tự nhiên và Xã hội, em thích học ở đâu:
a. Trong lớp

c. Ngoài sân trường

b. Hành lang

d. Vườn trường

PHIẾU KIỂM TRA
Họ và tên:...........................................
Lớp:..............
Thời gian: 7 phút
Các em hãy khoanh tròn vào đáp án mà em cho là đúng nhất:
Câu 1: Loài vật có thể sống được ở đâu:
a. Trên cạn


b. Trên không

c. Dưới nước

d. Tất cả đều đúng.

Câu 2: Con nào dưới đây sống dưới nước:
a, Khỉ
c. Cá ngựa

b. Hổ
d. Ngựa

Câu 3: Con nào dưới đây có đời sống bay lượn trên không:
a. Ruồi

b. Hươu cao cổ

d. Cáo

d. Sóc
18


Câu 4: Con nào dưới đây sống trên cạn:
a. Châu chấu

b. Gấu trúc


c. Cào cào

d. Cá heo

Câu 5: Em hãy kể tên những con vật có đời sống bay lượn trên không mà em
biết:
…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..


…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

…………..

KẾ HOẠCH DẠY HỌC
Lớp 2

MỘT SỐ LOÀI VẬT SỐNG TRÊN CẠN
I.
Mục tiêu:

- Nói tên, nêu lợi ích của 1 số con vật sống trên cạn.
- Hình thành kĩ năng quan sát, nhận xét, mô tả
- Giúp HS có thái độ tự giác, tích cực học tập.
II.
Đồ dùng học tập
- Hình vẽ các con vật trong SGK và 1 số con vật khác.
- Bảng phụ
III. Các hoạt động dạy – học
Hoạt động của giáo viên
 Ổn định lớp

Hoạt động của học sinh
- Hát

-Cho cả lớp hát
 Kiểm tra bài cũ

- HS trả lời

-Gọi HS nêu tên 1 số con vật sống
trên cạn trên không, dưới nước?
- GV nhận xét , ghi điểm

- Lắng nghe
19


 Bài mới
1. Giới thiệu bài
-Tiết học hôm trước các em đã biết

loài vật sống ở đâu. Tiết hôm nay, cô
trò chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ về
- Ghi vào vở

các loài vật sống trên cạn. Đó là
những con vật nào và ích lợi của
chúng ra sao qua bài: Một số loài vật
sống trên cạn.
- Ghi đề bài
2. Dạy bài mới

- Đọc: Chỉ và nói tên các con vật
có trong hình
- Quan sát
- Thảo luận

a/ Hoạt động 1: Quan sát tranh
-Gọi HS đọc yêu cầu trong SGK

- Trình bày

- Treo hình ảnh các con vật lên bảng

- Nhận xét

- Cho HS thảo luận nhóm đôi

- Trả lời

+ Nêu tên các con vật

+ Con nào là vật nuôi, con nào là
sống hoang dã
-Gọi đại diện một số nhóm lên bảng

- Lắng nghe

trình bày.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung ý
kiến
- GV có thể hỏi thêm:
+ Con vật nào sống ở sa mạc?
+ Con vật nào đào hang sống dưới
mặt đất?
+ Con nào ăn cỏ
+ Con nào ăn thịt?

- Lắng nghe

GV kết luận: Có rất nhiều loài vật
20


sống trên cạn, trong đó có các loài
vật chuyên sống trên mặt đất như voi,
hươu, lạc đà,…có loài vật đào hang
sống dưới mặt đất như thỏ rừng,
giun, dế,…
-Chúng ta cần phải bảo vệ các loài
vật trong tự nhiên, đặc biệt là các loài
vật quí hiếm.

b/ Hoạt động 2:

- Chơi
- Trình bày

Trò chơi học tập
- GV nêu tên gọi trò chơi: Hội thi

- Nhận xét

triễn lãm
- Phổ biến luật chơi: Đội nào trình

- Tuyên dương

bày đúng và nhiều tranh con vật theo
yêu cầu thì đội đó sẽ thắng.
- Cách thức chơi: chia lớp thành 4

- HS trả lời

đội, mỗi đội sẽ được phát một tờ giấy
khổ lớn có kẽ sẵn bảng gồm các cột:
Tên con vật, cơ quan di chuyển ( có
chân, vừa có chân vừa có cánh,
không có chân), điều kiện khí hậu
sống: xứ nóng, xứ lạnh, có ích , có
hại…Các đội sẽ dán những bức tranh
về các con vật, dùng bút xạ đánh dấu
các cột theo đặc điểm con vật đó.

- Cho HS chơi : các đội tiến hành
chơi.
- Các đội lên trình bày, sản phẩm của
đội mình.
- Các đội còn lại nhận xét đội bạn.
21


- Tổng kết cuộc chơi: GV nhận xét,
đánh giá, nêu tên đội thắng cuộc.
- Gọi 1 số HS nêu tên, đặc điểm, nơi
sống của 1 số con vật theo yêu cầu.
3. Củng cố, dặn dò:
- Gọi HS kể tên các loài vật sống trên
cạn?
- Dặn dò: HS về nhà sưu tầm tranh
ảnh các con vật sống dưới nước, nắm
đặc điểm 1 số con vật.

22


23


4. Hệ thống trò chơi sưu tầm:
1.1 Ghép hai đối tượng:

 Mục đích của trò chơi nhằm tìm tòi, phát hiện, hình thành kiến thức hoặc
củng cố, khắc sâu kiến thức đã học. Mặt khác, rèn kĩ năng đọc nhanh- điền

nhanh, rèn tính nhanh nhẹn, tạo không khí hoạt động vui tươi, hứng thú học tập.
Trò chơi này áp dụng cho các bài về đặc điểm, nơi sống, lợi ích của thế giớ động
thực vật.
 Chuẩn bị: Các bảng phụ to kẻ sẵn các thông tin về đặc điểm ...của thế
giới động thực vật.
 Luật chơi : Đội nào ghép hoặc điền đúng, nhiều, sẽ thắng.
 Cách tiến hành:
- Tổ chức hai đội chơi: chọn hai đội chơi mỗi đội gồm 5-6 người xếp thành
một hàng dọc.
- Giáo viên gắn 1 đối tượng lên bảng 2 bên của bảng cho 2 đội. Sau khi
phát lệnh lần lượt các thành viên của 2 đội cầm đối tượng còn lại chạy lên bảng
gắn vào đối tượng trên bảng, hoặc dùng viết đánh dấu vào đối tượng trên bảng.
- Sau một khoảng thời gian qui định 2 đội kết thúc trò chơi.
- Giáo viên đánh giá nhận xét, phân đội thắng thua.
24


×