Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Thanh tra cấp huyện từ thực tiễn huyện buôn đôn, tỉnh đăk lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.55 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………../………

..…../……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ĐÌNH QUANG

THANH TRA CẤP HUYỆN – TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH ĐĂK LĂK

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐĂK LĂK – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ
..…../……

………../………….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ĐÌNH QUANG



THANH TRA CẤP HUYỆN – TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH ĐĂK LĂK
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
MÃ SỐ: 60 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ TRẦN ĐỨC LƢỢNG

ĐĂK LĂK – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với tiêu đề
huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk” hoàn

“Thanh tra cấp huyện – Từ thực tiễn

toàn là kết quả nghiên cứu của chính bản thân

tôi và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào của
ngƣời khác. Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã thực hiện nghiêm túc
các quy tắc đạo đức nghiên cứu; các kết quả trình bày trong luận văn là sản
phẩm nghiên cứu, khảo sát của riêng cá nhân tôi; tất cả các tài liệu tham khảo
sử dụng trong luận văn đều đƣợc trích dẫn tƣờng minh, theo đúng quy định.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và
các nội dung khác trong luận văn của mình.
Đăk Lăk, ngày 15 tháng 02 năm 2017

Tác giả Luận văn
Nguyễn Đình Quang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA CẤP HUYỆN....................................................................................................... 9
1.1. Thanh tra cấp huyện.......................................................................................................... 9
1.2. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra cấp huyện..............................29
1.3. Mối quan hệ giữa thanh tra cấp huyện với cơ quan, tổ chức khác.........33
1.4. Những yếu tố tác động đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện
Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk........................................................................................................ 37
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
CẤP HUYỆN- TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH ĐĂK LĂK 45
2.1. Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của thanh tra cấp huyện.............................................................................................. 45
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh
Đăk Lăk từ năm 2011 đến nay............................................................................................ 49
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA CẤP
HUYỆN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA THANH

TRA HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH ĐĂK LĂK............................................................. 73
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động
của thanh tra cấp huyện.......................................................................................................... 73
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về tổ chức và hoạt
động của thanh tra cấp huyện.............................................................................................. 78
3.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động của Thanh tra huyện Buôn

Đôn, tỉnh Đăk Lăk..................................................................................................................... 93
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………… 107


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả thanh tra kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm 2016.........56
Bảng 2.2. Tổng số đơn các cơ quan chức năng từ huyện đến xã tiếp nhận từ
năm 2011 đến năm 2016.............................................................................................................. 63
Bảng 2.3. Kết quả tham mƣu giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra huyện
Buôn Đôn từ năm 2011 đến năm 2016................................................................................ 64


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam ghi:
“Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động,
hiệu lực, hiệu quả” [9, tr. 309]. Để xây dựng nền hành chính Nhà nƣớc hiện
đại, chuyên nghiệp, kỷ cƣơng, năng động, có hiệu lực và hiệu quả, đòi hỏi
phải thực hiện tốt nhiều chức năng, nhiệm vụ trong quản lý nhà nƣớc, trong
đó có công tác thanh tra. Vì công tác thanh tra là một trong những nội dung cơ
bản của hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc, là một chức năng thiết yếu
của quản lý nhà nƣớc. Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nƣớc và ở đâu có
quản lý nhà nƣớc thì ở đó có thanh tra. Thực hiện có hiệu lực và hiệu quả
công tác thanh tra sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý hành chính nhà nƣớc; bảo đảm trật tự, kỷ cƣơng trong hoạt động
quản lý nhà nƣớc và trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc.
Tổ chức và hoạt động thanh tra Việt Nam ra đời và hoạt động từ rất
sớm. Sau khi thành lập Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày
23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc

biệt, Ban Thanh tra này là tiền thân của các tổ chức Thanh tra Việt Nam ngày
nay. Đến năm 2004 lần đầu tiên Quốc hội khóa XI thông qua Luật Thanh tra.
Năm 2010 Quốc hội khóa XII thông qua Luật Thanh tra năm 2010 thay thế
Luật Thanh tra năm 2004. Kể từ khi tổ chức và hoạt động thanh tra đƣợc
chính thức quy định trong luật, công tác thanh tra đã góp phần rất quan trọng
trong việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý các sai phạm trong quản lý hành
chính nhà nƣớc; đã kiến nghị xử lý và đề xuất nhiều biện pháp để chấn chỉnh
công tác quản lý nhà nƣớc; đồng thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa
đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm khắc phục những khiếm
1


khuyết, sơ hở trong công tác quản lý, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và
tăng cƣờng trật tự, kỷ cƣơng xã hội.
Luật Thanh tra năm 2010 đã tạo lập khung pháp lý quan trọng trong việc
hoàn thiện tổ chức và hoạt động thanh tra. Hàng năm, các cơ quan thanh tra
đã phát hiện, kiến nghị xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật, kiến nghị sửa
đổi, bổ sung cơ chế, chính sách ph hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc. Song trong những năm qua, tổ chức
và hoạt động thanh tra cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập nhƣ: Tổ chức,
bộ máy các cơ quan thanh tra chƣa đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nƣớc;
quan hệ chỉ đạo, điều hành giữa cơ quan quản lý với cơ quan thanh tra, giữa
cơ quan thanh tra với nhau chƣa thực sự hợp lý; tính chủ động, tự chịu trách
nhiệm của cơ quan thanh tra chƣa đƣợc phát huy; quyền hạn của cơ quan
thanh tra chƣa tƣơng xứng với chức năng, nhiệm vụ đƣợc pháp luật quy
định. Hoạt động thanh tra còn chồng chéo, trùng lặp cả về phạm vi, đối
tƣợng; các kết luận, kiến nghị thanh tra chƣa đƣợc thực thi một cách nghiêm
chỉnh và còn thiếu những biện pháp cứng rắn, chế tài đủ mạnh. Những hạn
chế, yếu kém, bất cập trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng, hiệu quả
công tác thanh tra, làm cho công tác thanh tra chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu

của quản lý nhà nƣớc và mong muốn của nhân dân trong công cuộc đổi mới
đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.
Cùng với tiến trình cải cách bộ máy nhà nƣớc, phục vụ yêu cầu phát
triển kinh tế -xã hội, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh
tra nhà nƣớc nói chung và thanh tra cấp huyện nói riêng là một yêu cầu cấp
thiết đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm chỉ đạo thực hiện. Để làm đƣợc điều
đó cần phải đánh giá đầy đủ tình hình thực tiễn của công tác thanh tra cấp
huyện trong thời gian qua, cũng nhƣ những vấn đề vƣớng mắc đang đặt ra về
tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp huyện hiện nay, để từ đó đề ra các giải
2


pháp thích hợp hoàn thiện pháp luật về thanh tra, góp phần nâng cao hơn nữa
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra cấp huyện trong thời gian tới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên tác giả chọn đề tài: “Thanh tra cấp
huyện - từ thực tiễn huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học, chuyên ngành luật Hiến pháp và Luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học,
nhiều bài viết chuyên khảo trên các Báo thanh tra, Tạp chí thanh tra và các
Báo, Tạp chí chuyên ngành khác đề cập đến tổ chức và hoạt động của thanh
tra nhà nƣớc ở những khía cạnh và mức độ khác nhau, trong đó có đƣa ra
những đánh giá, nhận xét về thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà
nƣớc, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan thanh tra nhà nƣớc.
Thứ nhất, về các đề tài nghiên cứu khoa học:
- “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nƣớc”, đề tài khoa học cấp nhà nƣớc độc lập do tiến sĩ Trần
Đức Lƣợng làm chủ nhiệm. Đề tài đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản, chung
nhất về các thiết chế, khái niệm, đặc điểm, vai trò, mối quan hệ giữa các thiết

chế thanh tra, kiểm tra, giám sát ở Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp
trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài nhằm hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám
sát ở Việt Nam phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội và
tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam [40].
- “Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong cơ
chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa – Luận cứ khoa học phục vụ sửa
đổi Luật thanh tra và hoàn thiện pháp luật về thanh tra”, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, năm 2007 do đồng chí Trần Văn Truyền – Tổng Thanh tra
Chính phủ, làm chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở
3


thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong
điều kiện phát triển cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở phân tích thực trạng và những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của
Ngành, đề tài đã đề xuất những định hƣớng và giải pháp nhằm đổi mới tổ
chức và hoạt động của Ngành trong cơ chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa mang tính toàn diện, khả thi, trong đó có các kiến nghị về sửa
đổi và bổ sung Luật thanh tra [41].
- “Cơ sở xác định trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp
trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham
nhũng” đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm 2010 do đồng chí Nguyễn
Tuấn Khanh - Trƣởng phòng nghiên cứu và đào tạo, Viện khoa học Thanh tra
làm chủ nhiệm. Đề tài nêu lên một số cơ sở lý luận của vấn đề trách nhiệm
pháp lý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng; đánh giá thực trạng thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thực trạng
thanh tra trách nhiệm, đƣa ra định hƣớng giải quyết, hệ thống giải pháp và
một số kiến nghị cụ thể [21].
Thứ hai, về các đề tài luận án, luận văn đã bảo vệ:

- Luận án tiến sỹ “Tổ chức và hoạt động của các tổ chức Thanh tra ở
nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay – thực trạng và giải pháp” của nghiên cứu
sinh Trịnh Xuân Thiện; Luận án tiến sỹ “Hoàn thiện pháp luật thanh tra trong
giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Thƣơng Huyền... Các luận án đã đề cập
đến những vấn đề bất cập trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh
tra, phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật thanh tra.
- Luận văn thạc sỹ “Nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên
ngành” của Nguyễn Thị Kim Ngọc; “Vai trò của thanh tra Nhà nƣớc trong
quản lý việc thực hiện dự án ở nƣớc ta hiện nay” của Nguyễn Thanh
4

Hải;


“Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành giáo dục” của B i
Ngọc Âu; … Các đề tài này chỉ tập trung phân tích thực trạng về hoạt động
thanh tra chuyên ngành hoặc vai trò của thanh tra nhà nƣớc trong lĩnh vực cụ
thể.
Hầu hết các công trình chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động nói
chung của các tổ chức thanh tra, chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách
cơ bản và hệ thống chuyên sâu về tổ chức và hoạt động thanh tra cấp huyện
nói chung và Thanh tra huyện Buôn Đôn nói riêng. Vì vậy, đề tài của luận văn
không tr ng với các công trình đã công bố trƣớc đây.
Trên cơ sở kết quả các nghiên cứu trƣớc đây và các quy định của pháp
luật hiện hành quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra, tác giả cho rằng
việc chọn nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm
những luận cứ khoa học, cũng nhƣ cơ sở thực tiễn cho việc đổi mới tổ chức,
hoạt động thanh tra cấp huyện mà nhu cầu thực tiễn đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu

Luận văn này nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về tổ
chức và hoạt động thanh tra, trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích và đánh
giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt
động của thanh tra cấp huyện; nghiên cứu, đánh giá và phân tích thực trạng về
tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk nhằm
đánh giá đƣợc những ƣu điểm và những hạn chế, bất cập của quy định hiện
hành, từ đó kiến nghị phƣơng hƣớng và giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy
định của pháp luật về thanh tra và các văn bản có liên quan để phù hợp với
tình hình thực tế, nâng cao chất lƣợng hoạt động của thanh tra cấp huyện.
Đồng thời kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và

5


chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan Thanh tra huyện Buôn Đôn,
tỉnh Đăk Lăk.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc
hoạt động và chức năng, nhiệm vụ thanh tra cấp huyện; quy định của pháp
luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp huyện; thực trạng tổ chức và
hoạt động của thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk. Trên cơ sở đó kiến
nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra và các giải pháp nâng cao
chất lƣợng hoạt động của cơ quan Thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
+ Các văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra
cấp huyện.
+ Tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk.
- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra nhà nƣớc

nói chung là vấn đề rất rộng, phức tạp, có tầm bao quát lớn. Trong khuôn khổ
của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp huyện.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động
của Thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk từ năm 2011 đến nay.
- Trên cơ sở những nhận xét về ƣu điểm và hạn chế, những bất cập của
những quy định hiện hành, tác giả đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng
cao chất lƣợng hoạt động của thanh tra cấp huyện.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

6


- Phương pháp luận: Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp
luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và
pháp luật nói chung và công tác thanh tra nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên

cứu cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng
pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh và một số phƣơng pháp khác để làm
sáng tỏ bản chất của vấn đề.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn này nghiên cứu có hệ thống về tổ chức và hoạt động của thanh
tra cấp huyện và từ thực tiễn huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk. Luận văn đề
xuất phƣơng hƣớng và các giải pháp phù hợp góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật về thanh tra, đặc biệt là về tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp
huyện.
- Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và chất lƣợng đội ngũ
cán bộ, công chức cơ quan Thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk.
Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể vận dụng để nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả về tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp huyện.
Luận văn có thể là tài liệu có giá trị để tham khảo, nghiên cứu và vận
dụng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận
văn đƣợc chia làm 3 chƣơng nhƣ sau:

7


Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp
huyện.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật quy định
về tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp huyện – Từ thực tiễn huyện Buôn
Đôn, tỉnh Đăk Lăk.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về
tổ chức và hoạt động của thanh tra cấp huyện nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt
động của Thanh tra huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk.

8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA CẤP HUYỆN

1.1. Thanh tra cấp huyện
1.1.1. Khái niệm thanh tra cấp huyện
1.1.1.1. Khái niệm thanh tra
Thanh tra (tiếng Anh là Inspect) xuất phát từ nguồn gốc La tinh
(Inspectare), có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ
bên ngoài đối với hoạt động của một số đối tƣợng nhất định. Có rất nhiều
khái niệm về thanh tra. Theo Từ điển pháp luật Anh – Việt năm 1994, thanh
tra là “sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra” [ 19, tr.203].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 2008 do Nguyễn Nhƣ Ý làm chủ biên
thì thanh tra có nghĩa là “điều tra, xem xét để làm rõ sự việc” [18, tr.1465].
Với nghĩa này thì thanh tra bao hàm cả nghĩa điều tra.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2016 thì thanh tra
có nghĩa là “kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí
nghiệp” [51, tr.1156]. Với nghĩa này thì thanh tra bao hàm cả nghĩa kiểm soát.
Trong cuốn sách “Thuật ngữ pháp lý phổ thông” do Nhà xuất bản pháp
lý in năm 1986 định nghĩa: “thanh tra được xem là một biện pháp (phương
pháp) của kiểm tra. Nhiệm vụ thanh tra được uỷ quyền cho các cơ quan nhà
nước có trách nhiệm” [20, tr.453]. Theo nghĩa này, thanh tra hẹp hơn kiểm
tra, thanh tra gắn liền với chức năng pháp lý trong quản lý nhà nƣớc. Nhiệm
vụ của thanh tra cũng là kiểm tra, nhƣng chỉ là kiểm tra quyền sở hữu nhà
nƣớc, sở hữu tập thể có đƣợc thực hiện đúng, có đƣợc bảo vệ hay không,
thẩm tra tính hợp pháp của các hoạt động kinh tế, xã hội, tài chính…
Ở nƣớc ta, thuật ngữ “thanh tra” lần đầu tiên xuất hiện tại Sắc lệnh số
64/SL ngày 23/11/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký thành lập Ban thanh tra
9


đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban thanh tra đặc biệt,
có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Uỷ ban
nhân dân và các cơ quan của Chính phủ” [6, tr.1]. Từ Sắc lệnh này, quyền

thanh tra đƣợc xác lập và đƣợc giao cho Chính phủ thực hiện. Sau đó khái
niệm “thanh tra” đƣợc đề cập trong các bản Hiến pháp của nƣớc ta và các văn
bản pháp luật khác, khẳng định thanh tra là một hoạt động đặc biệt không thể
thiếu trong quản lý nhà nƣớc. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thanh
tra toàn miền Bắc năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định thanh tra là
hoạt động “theo dõi, xem xét việc chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Chính phủ” [11, tr.275].
Hiến pháp Việt Nam năm 1946 chƣa sử dụng thuật ngữ “thanh tra”.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra chƣa đƣợc giao cho một cơ quan chuyên trách
nào mà đƣợc giao cho Ban thƣờng vụ của Nghị viện [22]. Hiến pháp năm
1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc thi hành các quyết định
quản lý nhà nƣớc [23]. Hiến pháp năm 1980 thuật ngữ thanh tra đƣợc sử
dụng với nội dung là một chức năng của cơ quan quản lý nhà nƣớc [24].
Khoản 7 Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định Chính phủ có nhiệm vụ “tổ
chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh
tra, kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước;
công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân” [25, tr.63]. Khoản 5 Điều
96 Hiến pháp 2013 quy định Chính phủ “tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu tham nhũng trong bộ
máy nhà nước” [26, tr.51].
Theo kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học cấp nhà nƣớc độc lập “Hoàn
thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nƣớc” do tiến sỹ Trần Đức Lƣợng làm chủ nhiệm thì khái niệm thanh tra đƣợc
xác định: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là

10


hoạt động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân; thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự,

thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu điểm,
khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp
phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
cá nhân” [40].
Tóm lại, thanh tra là hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh giá việc thực
hiện chính sách, pháp luật của nhà nƣớc, việc thực hiện chức năng nhiệm vụ
đƣợc giao của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức và cá nhân do các cơ quan
thanh tra có thẩm quyền thực hiện nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà
nƣớc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nƣớc, của cơ quan, tổ chức
và cá nhân.
Văn bản pháp lý đầu tiên xác lập một cách đầy đủ và toàn diện về tổ
chức và hoạt động thanh tra là Pháp lệnh thanh tra năm 1990. Pháp lệnh đã cụ
thể hoá các quy định của Hiến pháp và khẳng định thanh tra là một chức năng
thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nƣớc. Điều 1 Pháp lệnh Thanh tra quy định:
“Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là
phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước,
thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa” [13, tr.1].
Khái niệm thanh tra lần đầu tiên đƣợc định nghĩa trong Luật Thanh tra
năm 2004 dƣới khái niệm thanh tra nhà nƣớc. Theo đó “Thanh tra nhà nước
là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và
các quy định khác của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành” [27, tr.1].
11


Luật Thanh tra năm 2010 thay thế Luật Thanh tra 2004 tiếp tục khẳng
định vai trò to lớn của công tác thanh tra và có những quy định mới nhằm nâng

cao vị trí và vai trò của các tổ chức thanh tra và tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả
của công tác thanh tra, cũng đƣa ra định nghĩa tƣơng tự về thanh tra đƣợc quy
định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra 2010: “Thanh tra Nhà nước là hoạt
động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao
gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành”[28, tr.8].

Nhƣ vậy, theo Luật Thanh tra năm 2010 thì nội hàm của khái niệm
Thanh tra nhà nƣớc gồm mục đích của hoạt động thanh tra, chủ thể tiến hành
thanh tra, nội dung thanh tra và đối tƣợng thanh tra.
1.1.1.2. Khái niệm thanh tra cấp huyện
Thanh tra cấp huyện là tổ chức cơ sở trong hệ thống các cơ quan Thanh
tra Nhà nƣớc. Thanh tra cấp huyện gồm có Thanh tra huyện, thanh tra quận,
thanh tra thị xã, thanh tra thành phố thuộc tỉnh, gọi chung là thanh tra huyện.
Theo Luật Thanh tra năm 2010 thì Thanh tra cấp huyện là cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân
cấp huyện quản lý nhà nƣớc về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra cấp
huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh
Thanh tra cấp huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra cấp tỉnh. Phó
Chánh Thanh tra cấp huyện giúp Chánh Thanh tra cấp huyện thực hiện nhiệm
vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra cấp huyện [28]. Thanh tra cấp
huyện có tƣ cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo,
12


quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp huyện;

đồng thời chịu sự hƣớng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Thanh
tra cấp tỉnh.
Nhƣ vậy, cơ quan thanh tra nhà nƣớc cấp huyện hiện nay đƣợc xác
định là đơn vị của cơ quan quản lý nhà nƣớc cấp huyện.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò, mục đích và nguyên tắc hoạt động thanh tra
cấp huyện
1.1.2.1. Đặc điểm của hoạt động thanh tra cấp huyện
Thanh tra cấp huyện là tổ chức cơ sở trong hệ thống các cơ quan Thanh
tra Nhà nƣớc. Giống nhƣ đặc điểm chung của thanh tra, hoạt động thanh tra
cấp huyện có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra cấp huyện luôn gắn với hoạt động quản
lý nhà nƣớc ở cấp huyện.
Quản lý nhà nƣớc và thanh tra đều có điểm chung là nhân danh quyền
lực nhà nƣớc để thực hiện sự tác động lên các đối tƣợng quản lý. Với tƣ cách
là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nƣớc, hoạt động thanh tra cấp
huyện gắn liền với hoạt động quản lý nhà nƣớc ở cấp huyện.
Quản lý nhà nƣớc và thanh tra có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nƣớc và ở đâu có quản lý nhà nƣớc thì ở
đó có thanh tra. Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo,
chi phối hoạt động của thanh tra (thể hiện ở việc xác định đƣờng lối, chủ
trƣơng, chính sách, quy định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra; sử dụng
các kết quả, thông tin từ phía cơ quan thanh tra). Hơn nữa, hoạt động chấp
hành của quản lý nhà nƣớc thƣờng bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong
quá trình chấp hành các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm
ngặt của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu,

13


chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là phƣơng tiện, công cụ để quản lý

nhà nƣớc [12].
Ngoài ra, với tƣ cách là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị
ràng buộc, chế ƣớc bởi quản lý nhƣng đồng thời lại tác động trở lại, góp phần
điều chỉnh cách thức, phƣơng pháp quản lý của chủ thể quản lý. Nhờ có thanh
tra mà mục đích của quản lý đƣợc đảm bảo. Thực tế cho thấy, một thể chế
hành chính và cơ chế quản lý nhà nƣớc sẽ không đầy đủ và kém hiệu quả nếu
thiếu thanh tra. Hoạt động có tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn đƣợc
nguy cơ biến dạng, tùy tiện, thiếu kỷ cƣơng trong hoạt động của bộ máy nhà
nƣớc [12].
Thứ hai, hoạt động thanh tra cấp huyện mang tính quyền lực nhà nƣớc
ở cấp huyện.
Thanh tra là một chức năng của quản lý nhà nƣớc, thể hiện quyền lực
nhà nƣớc của chủ thể quản lý đối với đối tƣợng quản lý. Tính quyền lực nhà
nƣớc của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền uy – phục tùng,
một đặc tính quan trọng của quản lý nhà nƣớc.
Tính quyền lực nhà nƣớc trong hoạt động thanh tra đƣợc biểu hiện
thông qua tính chất nhà nƣớc của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải
đƣợc nhà nƣớc sử dụng nhƣ một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý.
Lênin đã viết “Thanh tra mà thiếu quyền lực là thanh tra suông” [50, tr.34].
Tính quyền lực nhà nƣớc của hoạt động thanh tra đƣợc thể hiện ở những mặt:
Có quyền yêu cầu đối tƣợng thanh tra thực hiện những vấn đề thuộc nội dung
thanh tra và những kiến nghị thanh tra; ra các quyết định bắt buộc thực hiện
đối với đối tƣợng thanh tra về những vấn đề đã bị thanh tra; trong quá trình
thanh tra, trực tiếp áp dụng các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc khi cần thiết;
yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra; yêu cầu truy cứu

14


trách nhiệm pháp lý đối với những ngƣời vi phạm pháp luật; kiến nghị cấp có

thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra…
Thứ ba, hoạt động thanh tra cấp huyện có tính khách quan.
Bản chất của thanh tra là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá
nhân nhằm đƣa ra kết luận đúng, sai, đánh giá ƣu điểm, khuyết điểm, “phát
hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát
hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [28, tr.7,8].
Vì thế, hoạt động thanh tra nói chung, hoạt động thanh tra cấp huyện
nói riêng phải mang tính khách quan. Tính khách quan của hoạt động thanh
tra đƣợc biểu hiện ở chỗ mọi hoạt động thanh tra đều dựa trên cơ sở pháp luật
và phải tuân theo pháp luật. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đƣợc
can thiệp trái pháp luật vào hoạt động thanh tra. Mọi nhận xét, đánh giá trong
quá trình thanh tra và đƣa ra kết luận thanh tra phải dựa trên chứng cứ có thật,
khách quan. Tính khách quan đảm bảo hoạt động thanh tra đƣợc minh bạch,
khách quan, đúng pháp luật [12].
Thứ tƣ, hoạt động thanh tra cấp huyện có tính độc lập tƣơng đối.
Đây là đặc điểm vốn có của thanh tra, nó xuất phát từ bản chất của
thanh tra. Khác với hoạt động kiểm tra thƣờng do bản thân các cơ quan quản
lý nhà nƣớc tự tiến hành, hoạt động thanh tra thƣờng đƣợc tiến hành bởi một
cơ quan chuyên trách có nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Vì vậy,
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, ngoài việc đảm bảo sự phối kết
hợp nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nƣớc, hoạt động
15


thanh tra còn có tính độc lập tƣơng đối trong quá trình thực thi nhiệm vụ.

Tính độc lập tƣơng đối của thanh tra cấp huyện đƣợc thể hiện: Các cơ quan
thanh tra cấp huyện đƣợc phép tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trên các
lĩnh vực kinh tế - xã hội theo thẩm quyền đã đƣợc pháp luật quy định; có
quyền chủ động tiến hành thanh tra theo kế hoạch đã đƣợc phê duyệt; Thủ
trƣởng cơ quan thanh tra cấp huyện tự quyết định thanh tra khi phát hiện có
dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trên
cơ sở kết quả thanh tra, ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các
quy định của pháp luật về thanh tra.
1.1.2.2. Vai trò của hoạt động thanh tra cấp huyện
Thanh tra mang tính quyền lực nhà nƣớc, nên thanh tra có vai trò rất
quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nƣớc và kiểm soát quyền lực nhà
nƣớc thông qua việc thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Giống nhƣ vai
trò chung của các cơ quan Thanh tra nhà nƣớc, Thanh tra cấp huyện có vai trò
nhƣ sau:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra cấp huyện là một trong những chức năng
thiết yếu của hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc ở cấp huyện.
Các cơ quan hành chính nhà nƣớc khi tiến hành hoạt động quản lý trên
bất cứ lĩnh vực nào, với bất cứ phạm vi, quy mô nào, chủ thể có thẩm quyền
đều phải thực hiện cả ba chu trình trong công việc, đó là: Đề ra chủ trƣơng,
chính sách, nhiệm vụ, kế hoạch; Tổ chức chỉ đạo thực hiện những chủ trƣơng,
chính sách và biện pháp đã đề ra; Thanh tra, kiểm tra đánh giá việc thực hiện
nhiệm vụ của các đối tƣợng quản lý thuộc quyền.
Điều đó cho thấy rằng, thanh tra, kiểm tra là một trong ba mặt thống
nhất của quản lý nhà nƣớc (hiểu theo nghĩa rộng), là một khâu không thể

16


thiếu của hoạt động quản lý nhà nƣớc nói chung và hoạt động quản lý hành

chính nói riêng.
Thực chất thanh tra là một phƣơng thức của kiểm tra, là chức năng của
quản lý, là công cụ của ngƣời lãnh đạo, ngƣời quản lý. Trong quá trình thực
hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc, các cơ quan quản lý Nhà nƣớc nhất thiết
phải tiến hành hoạt động thanh tra đối với việc thực hiện các quyết định mà
mình đã ban hành. Đó là một khâu không thể thiếu đƣợc trong quá trình hoạt
động quản lý Nhà nƣớc. Chính vì vậy thanh tra đƣợc xác định là chức năng
thiết yếu của quản lý Nhà nƣớc. Do vậy Thanh tra cấp huyện cũng là một
trong những chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc
ở cấp huyện.
Thứ hai, hoạt động thanh tra cấp huyện góp phần đảm bảo pháp chế, kỷ
cƣơng, kỷ luật trong quản lý nhà nƣớc ở cấp huyện.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung cơ
bản trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm lãnh đạo thực hiện. Điều 8,
Hiến pháp 2013 quy định: Nhà nƣớc “quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật” [26, tr.11]. Nội dung của nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp
luật đƣợc tuân thủ một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai có thể đứng trên
pháp luật hay đứng ngoài pháp luật.
Với chức năng của mình cơ quan thanh tra nhà nƣớc xem xét, đánh giá
việc chấp hành chính sách, pháp luật, chức trách, nhiệm vụ của cơ quan hành
chính nhà nƣớc và cán bộ, công chức nhà nƣớc; việc chấp hành chính sách,
pháp luật của các tổ chức, cá nhân và các đối tƣợng khác chịu sự quản lý của
Nhà nƣớc; thanh tra kịp thời phát hiện những sai phạm và kiến nghị biện pháp
xử lý. Bên cạnh đó, với chức năng, nhiệm vụ xem xét, tham mƣu cho thủ trƣởng
cơ quan quản lý nhà nƣớc trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối

17



với các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cán bộ, công chức
nhà nƣớc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, chức trách, nhiệm vụ
đƣợc giao, kết luận và xử lý kịp thời những việc làm trái pháp luật của cơ
quan nhà nƣớc, cán bộ, công chức nhà nƣớc, thanh tra góp phần bảo đảm trật
tự kỷ cƣơng trong quản lý, làm trong sạch bộ máy nhà nƣớc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Ngƣời luôn đề cao vai trò của công tác thanh
tra trong việc bảo đảm pháp chế, giữ gìn kỷ cƣơng, kỷ luật, đấu tranh chống
các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy nhà nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: Lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý mà thiếu sự kiểm tra, thanh tra thì
đó chính là nguyên nhân của bệnh quan liêu, dẫn đến tham ô, lãng phí. Trong
bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thanh tra năm 1960, Ngƣời chỉ rõ: “Nạn
lãng phí, tham ô là do bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp
lãnh đạo ở các cơ quan Nhà nước gây ra”,“ Nếu không kiên quyết chống
bệnh quan liêu, mệnh lệnh, lãng phí, tham ô, thì nó sẽ cản trở, phá hoại ta
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy các cơ quan Thanh tra Nhà nước chẳng
những kiểm tra chống lãng phí, tham ô mà còn chống bệnh quan liêu, mệnh
lệnh để giúp các cơ quan Nhà nước cải tiến công tác, giữ gìn kỷ luật, thực
hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy Nhà nước” [11, tr.81].
Thứ ba, hoạt động thanh tra cấp huyện góp phần đảm bảo việc thực
hiện các quyền, tự do công dân.
Với vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ do pháp luật quy định, thanh
tra là một công cụ quan trọng và hữu hiệu để đảm bảo và thực hiện quyền dân
chủ của nhân dân. Điều đó thể hiện trên các phƣơng diện cơ bản sau:
- Thông qua hoạt động thanh tra nhân dân gián tiếp thực hiện quyền
giám sát công việc của bộ máy nhà nƣớc, cán bộ, công chức, viên chức nhà
nƣớc, tham gia công việc quản lý của Nhà nƣớc. Về việc thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với bộ máy Nhà nƣớc thông qua các tổ
18



chức Thanh tra, Nghị quyết số 26/HĐBT ngày 15/02/1984 của Hội đồng Bộ
trƣởng (nay là Chính phủ) đã xác định: "Tổ chức thanh tra phải là một công
cụ có hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản, đồng thời phải là một hình
thức tổ chức của quần chúng để thực hiện quyền làm chủ của mình trong việc
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước" [14].
- Qua hoạt động thanh tra mới có thể phát hiện kịp thời những sơ hở,
yếu kém trong cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật, những vấn đề liên quan
đến quyền dân chủ của nhân dân. Đây là một trong những cơ sở để Đảng và
Nhà nƣớc có biện pháp chấn chỉnh, hoàn thiện tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho
việc bảo vệ, bảo đảm và thực hiện các quyền của con ngƣời, quyền của công
dân.
- Trong việc thực hiện các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách pháp luật
về quyền dân chủ của nhân dân, nhờ có phạm vi hoạt động rộng khắp trong tất
cả các lĩnh vực quản lý của nhà nƣớc, thanh tra góp phần đấu tranh phòng,
chống các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm bảo vệ các quyền tự do, lợi ích
hợp pháp của con ngƣời, của công dân.
- Thông qua khiếu nại, tố cáo của công dân và việc thẩm tra, xác minh
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan thanh tra thì những hành vi tham
nhũng, tiêu cực, hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân
bị phát hiện và xử lý. Nhờ đó, các quyền dân chủ, lợi ích hợp pháp của nhân dân
đƣợc bảo vệ, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc đƣợc củng cố,
Nhà nƣớc có thêm thông tin về hoạt động của bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức
của mình, từ đó có biện pháp chấn chỉnh về cơ chế chính sách và tổ chức, bộ
máy, hƣớng tới mục tiêu ngày càng phục vụ nhân dân tốt hơn.

Thứ tƣ, hoạt động thanh tra cấp huyện là một biện pháp hạn chế sự lạm
dụng quyền lực, phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp
luật.
19



Mục đích của thanh tra không chỉ phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật
mà quan trọng hơn, thanh tra còn hƣớng tới mục đích phòng ngừa vi phạm
pháp luật. Tính phòng ngừa của hoạt động thanh tra đƣợc thể hiện ở chỗ:
- Thanh tra c ng với các phƣơng thức kiểm tra, giám sát luôn luôn là
hiện thân của kỷ cƣơng pháp luật. Thanh tra không chỉ có chức năng bảo đảm
pháp chế mà còn có chức năng tìm hiểu, giúp đỡ, định hƣớng cho các đối
tƣợng thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
- Hoạt động thanh tra luôn là cách thức phân tích, mổ xẻ một cách sâu
sắc, đầy đủ nhất các nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất, mức độ của
một hành vi vi phạm. Do vậy các giải pháp (các khuyến nghị, kiến nghị, yêu
cầu...) đƣợc đƣa ra từ hoạt động thanh tra không chỉ hƣớng vào việc xử lý
hành vi vi phạm pháp luật mà nó phát hiện đƣợc, mà còn có tác dụng khắc
phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát
sinh những vi phạm pháp luật tƣơng tự xảy ra ở một nơi khác hoặc vào một
thời điểm khác.
- Thanh tra d là loại hình nào cũng luôn luôn có tính định hƣớng và
tính xây dựng. Vai trò phòng ngừa của thanh tra đƣợc đề cập ở đây là vai trò
phòng ngừa mang tính chủ động. Trong rất nhiều trƣờng hợp, qua thanh tra
có thể dự báo đƣợc một hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy ra trong tƣơng lai
nếu không có sự chấn chỉnh, không có sự định hƣớng lại cho các đối tƣợng
một cách kịp thời.
Thứ năm, hoạt động thanh tra cấp huyện góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nƣớc trên địa bàn cấp huyện.
Để quyết định quản lý nhà nƣớc đƣợc các cơ quan, tổ chức và cá nhân
chấp hành một cách chính xác, đầy đủ thì các cơ quan, cá nhân đã ban hành
quyết định phải đề ra quy trình thực hiện quyết định. Trong quy trình đó
không thể thiếu đƣợc hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để
20



×