Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh việt nam vpbank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ sau khi
chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO ). Do vậy hội nhập
quốc tế về hoạt động ngân hàng đã trở thành tất yếu và cấp bách hơn bao
giờ hết của nền kinh tế nứơc nhà. Trong bối cảnh đó hệ thống các Ngân
hàng Thương mại bao gồm cả ngân hàng quốc doanh và ngân hàng ngoài
quốc doanh đều đang đầu tư tổng lực để phát triển. Việc không ngừng nỗ
lực để hoàn thiện chính mình, tạo dựng lòng tin vững chắc nơi khách hàng
là mục tiêu chiến lược của các ngân hàng thương mại phần hiện nay.
Trong số các Ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay VPBank là
một trong những ngân hàng tốt nhất và đang phát trển từng bước vững chắc
để khẳng định vị trí của mình trong lòng khách hàng. VPBank tự hào có
một đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ trung, năng động, đoàn kết và gắn
bó với nhau như một đại gia đình cùng phấn đấu vì mục tiêu chung của cả
ngân hàng là: phấn đấu đưa VPBank trở thành Ngân hàng thương mại cổ
phần hàng đầu của Việt Nam.
Để thực hiện được mục tiêu to lớn đó, ban lãnh đạo của VPBank
hiểu rõ tầm quan trọng của việc quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân
hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng vì hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
với ngân hàng đó là hoạt động tín dụng. Trong công tác thực hiện quản lý
rủi ro tín dụng của mình VPBank đã thu được những kết quả đáng khích lệ.
Bên cạnh đó cũng vẫn tồn tại những hạn chế nhất đinh.
Thời gian qua được thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần
ngoài quốc doanh Việt Nam ( VPBank ) là điều hết sức quý giá đối với em.
Được sự giúp đỡ rất nhiệt tình và chân thành của các anh chị trong phòng
tín dụng của VPBank chi nhánh Ngô Quyền giúp đỡ em đã chọn và nghiên
cứu sâu hơn về thực trạng tình hình quản lý rủi ro tín dụng tại VPBank. Em
quyết định chọn đề tài : “ Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại


cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam ( VPBank )” làm đề


tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Để hoàn thiện đề tài này ngoài sự cố gắng của bản thân là sự giúp
đỡ và hướ
ng dẫn rất nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn em đó là TS. Hoàng Xuân
Quế. Em xin cảm ơn thầy rất nhiều, nhờ có những hướng dẫn tỷ mỉ, cặn kẽ
của thầy đã giúp em hoàn thành bài chuyên đề một cách tốt đẹp. Và em
cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị làm việc tại phòng tín dụng của
VPBank chi nhánh Ngô Quyền đã cho em những tư liệu quí giá để em có
thể hoàn thiện bản đề án của mình kịp tiến độ và cho em một thời gian thực
tập vô cùng bổ ích.
Bản đề án của em tuy đã có sự đầu tư về thời gian và công sức tuy
nhiên không thể nào tránh được những thiếu sót và sơ xuất, em xin được sự
góp ý chân thành của thầy để em có thể hoàn thiện hơn nữa.
Một lần nữa em xin được cảm ơn thầy rất nhiều!
Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2008
Sinh viên
Nguyễn Thị Bích Ngọc


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỂ CƠ BẢN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO
TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1, HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1.1, Khái niệm và đặc điểm
Trong quá trình phát triển nền kinh tế và sản xuất hàng hóa đòi hỏi
sự xuất hiện của một tôt chức tài chính trung gian, chính vì lẽ đó NHTM
đã sớm ra đời và phát triển cho tới ngày hôm nay. NHTM là động lực thúc
đẩy sự phát triển nền kinh tế, nó đã trở thành một trung gian tài chính quan
trọng vào bậc nhất trong nền kinh tế.

Ngân hàng được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau có nhiều cách
định nghĩa khác nhau. Theo các nhà kinh tế học: NHTM là một tổ chức
trung gian tài chính với chức năng chính là chuyển vốn từ người không có
cơ hội đầu tư sang người có cơ hội đầu tư, từ ngưởi tiết kiệm sang người
đang có nhu cầu chi tiêu, và được phân biệt vơi các trung gian tài chính
khác ở chức năng thanh toán riêng có của NHTM. Theo luật các tổ chức
gtín dụng ghi : hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Nhưng cách
tiếp cận thận trọng nhất thể xem xét ngân hàng trên phương diện những
loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, NHTM là các tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngày nay, hoạt động ngân hàng đã và đang không ngừng phát triển.
Sự phát triển đó được thể hiện trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời


ngày càng nhiều dịch vụ mới thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của
khách hàng tới sự xuất hiện của các ngân hàng với quy mô toàn cầu , được
tổ chức thành các tập đoàn. Tuy nhiên, một ngân hàng dù lớn hay nhỏ thì
hoạt động cũng bao gồm các hoạt động chính sau:
 Hoạt động huy động vốn: đây là nghiệp vụ xuất hiện từ những
thưở sơ khai của ngân hàng. Các ngân hàng mở các tài khoản nhận giữ hộ
và thanh toán cho khách hàng là dân cư, các doanh nghiệp và các tổ chức
kinh tế khác.
Ngày nay nguồn huy động của các ngân hàng càng phong phú hơn
khi hệ thống liên ngân hàng đang ngày càng phát triển hiện đại. Vốn của
ngân hàng có thể được hình thành từ việc đi vay ngân hàng nhà nước, các
ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, mặc dù vậy thì nguồn vốn từ tiền

gửi của khách hàng vẫn là nguồn trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng vốn của NHTM .
 Hoạt động sử dụng vốn : nếu như huy động vốn là mục đích đầu
tiên của ngân hàng khi nó ra đời thì việc sử dụng nguồn vốn lại thể hiện
chức năng trung gian tài chính thực sự quan trọng của ngân hàng. Nó điều
phối tiền tử chỗ thừa tiền sang chỗ thiếu tiền, từ nơi ít cần tới tiền sang nơi
cần tiền hơn, qua đó nó thúc đẩy tiềm lực kinh tế của xã hội phát triển một
cách tối đa.
 Hoạt động sử dụng vốn đầu tiên nói đến ở đây đó là hoạt động
ngân quĩ tức là các hoạt động mang tính chất dự trữ. Sau khi nhận được
tiền gửi, NHTM phải dành riêng ra những khoản không sử dụng, các
khoản đó được tồn tại dưới hình thức là các khoản dự trữ bắt buộc hay các
khoản dự trữ vượt quá. Các khoản dự trữ này thường không sinh lời hay chỉ
sinh lời một khoản rất nhỏ, mặc dù vậy nhưng không một NHTM nào được
thiếu khoản này do đó là qui định bắt buộc của Ngân hàng trung ương
nhưng quan trọng hơn là để đảm bảo khả năng thanh toán của NHTM bởi


nguồn tiền gửi của khách hàng có thể bị rút ra bất cứ lúc nào và NHTM
ngay lập tức phải thanh toán cả gốc cả lãi cho khách hàng.
 Tiếp đến là hoạt động đầu tư, NHTM thực hiện hoạt động này
dưới các hình thức như : đầu tư vào các chứng khoán (trái phiếu chính phủ,
trái phiếu công ty, tín phiếu kho bạc, cổ phiếu ), góp vốn liên doanh liên
kết với các doanh nghiệp, đầu tư vào các dự án. Thông qua hoạt động đầu
tư NHTM kiếm được lợi nhuận đồng thời cũng phân tán được rủi ro trong
hoạt động của ngân hàng.
 Hoạt động thanh toán, đây là hoạt động phân biệt giữa NHTM với
các trung gian tài chính khác, NHTM tiến hành thanh toán cho khách hàng
dưới các hình thức : thanh toán bù trừ, thanh toán séc, thanh toán bằng L/C,
thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi…

 Các hoạt động khác như : chuyển tiền, môi giới, tư vấn, uỷ thác,
bảo lãnh…
 Hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất và tạo nên danh mục tài
sản phong phú trong bảng cân đối tài sản của NHTM đó chính là hoạt động
tín dụng. Vậy thế nào là hoạt động tín dụng và đặc điểm của hoạt động này
ra sao xin được phép trình bày duới đây:
Tín dụng – credit bắt nguồn từ tiếng latinh “credo” có nghiã là sự tin
tưởng hay nói cách khác tín dụng là việc NHTM tài trợ cho khách hàng dựa
trên cơ sở tin tưởng nhau. Các hoạt động tài trợ cuả ngân hàng thì có nhiều
hình thức như cho khách hàng vay, mua giúp khách hàng hàng hóa, nguyên
vật liêụ, máy móc, chiêt khấu các loại giấy tờ có giá hay là đứng ra là
người bảo lãnh cho khách hàng.
Trên thục tế có rất nhiều cách hiều khác nhau về tín dụng, tuy nhiên
ở đây ta tiếp cận tín dụng là một hoạt động của ngân hàng. Chính vì thế, ta
có thể hiểu: tín dụng là giao dịch giữa bên cho vay (NHTM) và bên đi vay


(các đơn vị kinh tế, dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội). Trong đó, bên đi
vay sử dụng vốn trong khoảng thời gian nhất định và có trách nhệm hoàn
trả vô điều kiện vốn gốc và lãi khi đến hạn vay.
Đối với NHTM thì phần lớn thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm
phần lớn tổng thu nhập, đối với cac NHTM ở Việt Nam thì tỷ lệ này lên tới
70 – 80%. Điều này cho thấy vai trò to lớn của hoạt động tín dụng với hoạt
động ngân hàng nói riêng và với nền kinh tế nói chung. Thông qua sự tăng
trưởng của hoạt động tín dụng phản ánh một phần nào đó sự phát triển triển
cuả ngân hàng vì không những ngân hàng có được doanh thu từ lãi suất mà
khách hàng phải trả mà quan trọng hơn đây là cơ sở để ngân hàng thâm
nhập vào nền kinh tế, khẳng định vị trí của ngân hàng và phát triển sang
nhiều lĩnh vực khác đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam còn
thiếu thốn, nghèo nàn rất nhiều dịch vụ ngân hàng.

Đối với người được vay vốn, ngân hàng là nguồn vốn khổng lồ mà
họ dễ dàng tiếp cận ở mọi lúc, mọi nơi với rất nhiều phương thức tiện lợi
cho họ thông qua thỏa thuận với ngân hàng. Vay vốn ở ngân hàng không
những người vay có được nguồn vốn kịp thời mà còn có được những lời
khuyên bổ ích giúp cho doanh nghiệp đầu tư hiệu quả hơn và ngày càng lớn
mạnh hơn.
Đối với nền kinh tế thì công dụng không thể chối cãi được đố là việc
phân bổ vốn một cách kịp thời, hiệu quả, giúp tối đa hóa hiệu quả cuả các
tiềm lực kinh tế. Các doanh nghiệp sản xuất thuận lợi và có điều kiện tiếp
cận và áp dụng khoa học hiện đại nhiều hơn. Từ đó nâng cao đời sống
người dân, nâng cao chất lượng xã hội, nâng cao dân trí và kinh tế - xã hội
phát triển về mọi mặt.
1.1.2. Phân loại
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng phục vụ được nhiều đối
tượng với các nhu cầu khác nhau thì các NHTM hiện nay áp dụng rất nhiều
các hình thức tín dụng. Và để giúp cho việc quản lý hoạt động tín dụng


được đơn giản, chính xác hơn thì NHTM tiến hành phân loại tín dụng. Dựa
trên những tiêu thức khác nhau mà tín dụng được phân loại như sau:
1.1.2.1, Phân loại theo thời gian ( thời hạn tín dụng ) :
Là cách phân loại có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời
gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và tính sinh lời của tín dụng cũng
như khả năng hoàn trả của khách hàng.
 Tín dụng ngắn hạn có thời hạn dưới 12 tháng. Được sử dụng để bù
đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp cà các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân. Với các NHTM có thể nói rằng tín dụng ngắn hạn
chiếm tỷ trọng cao nhất.
 Tín dụng trung hạn có thời hạn từ NHTM 1 đến 5 năm ( theo qui
định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ) còn với một số nước trên thế

giới thì có thời hạn đến 7 năm. Loại tín dụng này thường được dùng để tài
trợ cho việc mua sắm các tài sản cố định như phương tiện vận tải, cải tiến
thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm một số loại vật
nuôi cây trồng phục vụ cho các dự án nhỏ.
 Tín dụng dài hạn, theo qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (
NHNN ) thời hạn tín dụng là trên 5 năm còn ở một số nước là trên 7 năm.
Loại tín dụng này để cung cấp vốn cho các dự án dài hạn có thời gian thu
hồi vốn chậm để xây dựng nhà xưởng, sân bay, cầu đường và mua sắm các
loại máy móc có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài.
1.1.2.2, Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho
thuê.
 Chiết khấu thương phiếu là việc mà ngân hàng ứng trước cho khách
hàng một khoản tiền tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu
nhập của ngân hàng cho việc sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn thanh
toán, phần thu nhập này được tính theo một tỷ lệ với giá trị của thương
phiếu và tỷ lệ đó được gọi là lãi suất chiết khấu.


 Cho vay là hình thức ngân hàng tài trợ cho khách hàng một số tiền
và nhận lại sự cam kết của khách hàng sẽ trả lại toàn bộ khoản tiền gốc
cộng thêm một phần lãi là chì phí của việc sử dụng vốn, cam kết này được
thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định.
 Bảo lãnh là hình thức ngân hàng cho phép khách hàng dùng uy tín
của ngân hàng để làm cam đoan về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của
khách hàng trong các hợp đồng, và nếu khách hàng không thực hiện được
thì ngân hàng sẽ là người thực hiện các nghĩa vụ tài chính đó.
 Cho thuê là ngân hàng bỏ tiền của mình ra để mua tài sản cho khách
hàng thuê với những thoả thuận về tiền thuê hàng tháng, hàng quí, hàng
năm. Sau một thời gian nhất định, ngân hàng sẽ thu hồi được số vốn bỏ ra
ban đầu và thêm một phần lãi.

1.1.2.3, Phân loại theo tài sản bảo đảm:
Tài sản bảo đảm là nguồn thu hồi nợ thứ hai của ngân hàng khi
nguồn thu nợ theo dự tính ban đầu không có hoặc không đủ để trả cho ngân
hàng. Theo hình thức này thì tín dụng được phân chia thành : tín dụng có
tài sản bảo đảm và tín dụng không có tài sản bảo đảm.
 Tín dụng có tài sản bảo đảm là việc khách hàng dùng tài sản của
mình đang có quyền sở hữu hay đang có quyền sử dụng hay khả năng trả
nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Có thể đảm bảo theo hình
thức cầm cố, hoặc thế chấp hay cam kết trả nợ của người thứ ba.
 Tín dụng không cần tài sản bảo đảm được áp dụng đối với những
khách hàng thường xuyên và có uy tín, khả năng tài chính vững mạnh hoặc
với những món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Đối với những
khoản vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có thể giám sát được việc
thực hiện cũng như tiêu thụ sản phẩm thì ngân hàng cũng có thể chấp nhận
cho vay không cần tài sản bảo đảm.


1.1.2.4, Phân loại tín dụng theo rủi ro :
Các ngân hàng có những cách phân loại tín dụng theo rủi ro khác
nhau để thực hiện tốt việc quản lý rủi ro, kịp thời trích lập dự phòng cho
các khoản tín dụng nâng cao độ an toàn cho ngân hàng. Theo các dấu hiệu
của rủi ro các khoản tín dụng được xếp theo mức độ rủi ro từ thấp tới cao:
 Tín dụng lành mạnh : là các khoản tín dụng có khả năng thanh toán
cao.
 Tín dụng có vấn đề : là các khoản tín dụng có các dấu hiệu như các
rủi ro không ngờ đến xảy ra với khách hàng như thiên tai, cháy nổ khi vận
chuyển, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm…có thể làm cho khách hàng
không có khả năng trả nợ.
 Nợ quá hạn vẫn có khả năng thu hồi
 Nợ quá hạn khó đòi và những khoản không có khả năng thu hồi

1.1.2.5, Phân loại theo mục đích sử dụng
Tuỳ theo mục đích sử dụng có các loại cho vay để kinh doanh sản xuất và
cho vay phục vụ mục đích tiêu dùng.
1.2, Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1, Khái niệm rủi ro
Rủi ro là những tổn thất xảy ra ngoài dự kiến. Bất kỳ một hoạt động
kinh doanh nào cũng chứa đựng những rủi ro nhất định, có những rủi ro mà
con người có khả năng phòng ngừa và hạn chế như rủi ro xuất phát từ các
hành vi chủ quan bất cẩn của con người gây ra, hay những rủi ro do thiên
nhiên gây ra nhưng trong tầm dự đoán và kiểm soát của con người. Bên
cạnh đó thì cũng có những rủi ro bất trắc mà con người không thể ngờ tới,
cũng như không có khả năng dự đoán và làm thay đổi chúng như sự biến
đổi nhanh chóng của thời tiết, thiên tai, chiến tranh… Nhưng có thể kết
luận rằng dù bất cứ loại rủi ro nào khi đã xảy ra thì đều kèm theo những tổn
thất lớn, nhỏ. Vì vậy vấn đề quản lý rủi ro luôn luôn là vấn đề hết sức quan
trọng và cần phải được thực hiện nghiêm túc.


1.2.2, Rủi ro với hoạt động của NHTM
Đối với nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng, trong
thời kỳ kinh tế thị trường phát triển và bùng nổ như ngày hôm nay thì vấn
đề rủi ro lại trở nên hết sức phức tạp bởi chỉ cần những biến động nhỏ cũng
có thể dẫn tới những hậu quả to lớn.
Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá
đặc biệt – hàng hoá tiền tệ. Kinh tế càng phát triển thì lượng tiền tệ được
lưu thông qua ngân hàng cũng càng lớn. Nguồn tiền của các NHTM có
những thay đổi mạnh mẽ do sự phát triển của công nghệ ngân hàng, sự gia
tăng cạnh tranh giữa các NHTM với nhau và với các tổ chức tài chính khác.
Các khoản tiền gửi của cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển
hơn kèm theo đó là sự nhạy cảm với biến động thị trường cũng cao hơn.

Những điều này góp phần giúp cho thị trường vốn trở nên sôi động hơn
song cũng làm tăng tính mong manh, kém ổn định của cả hệ thống.
Có thể tiến hành phân chia rủi ro dựa theo các loại tài sản của ngân
hàng như sau : rủi ro trong quản lý và kinh doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng,
rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán, rủi ro trong cho thuê và
rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng. Phân chia rủi ro theo nguyên
nhân – các nhân tố tác động – bao gồm : rủi ro do người vay không trả nợ
cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do
các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy, giấy tờ giả,...
1.2.2.1, Các loại rủi ro phổ biến thường gặp
1Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến của
ngân hàng về việc khách hàng không thanh toán nợ đúng hạn, không trả
được đầy đủ gốc hay lãi hoặc hoàn toàn mất khả năng thanh toán cả gốc vả
lãi gây ra những tổn thất cho ngân hàng. Mỗi một khoản vay dù có đáng tin
cậy đến đâu cũng hàm chứa trong đó rủi ro tín dụng, vì vậy đối với những
nhà quản lý ngân hàng thì việc luôn luôn dự tính một tỷ lệ rủi ro nhất định


đối với ngân hàng mình và giữ cho tổn thất xảy ra không vuợt quá so với tỷ
lệ dự tính đó cũng đã là một thành công trong quản lý.
1.2.1.2, Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến của ngân
hàng khi mà tỷ giá hối đoái có những thay đổi bất lợi. tỷ giá hối đoái là
thông số thường xuyên thay đổi và phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế,
xã hội, chính trị nói chung trên toàn thế giới chính vì thế mà việc dự đoán
được sự thay đổi của nó là rất khó, tuy nhiên đối với những nhà kinh doanh
ngân hàng thì việc dự đoán tỷ giá là bắt buộc để điều chỉnh một cách hợp lý
và cân đối lượng ngoại tệ của ngân hàng mình. Đương nhiên việc dự đoán
cũng có những sai số nhất định, vì vậy rủi ro hối đoái được xem như là xảy

ra khi mà lượng tổn thất vượt quá so với lượng tổn thất dự tính.
1.2.1.3, Rủi ro lãi suất
Lãi suất của NHTM bao gồm cả lãi suất của các loại tài sản và nguồn
vốn đều biến động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự thay đổi trên thị
trường thế giới, các chính sách của chính phủ và NHNN. Khi các tổ chức
tín dụng lớn trên thế giới, các cơ quan điều hành chính sách tiền tệ của
những nền kinh tế mạnh có những thay đổi về chính sách của họ thì sẽ gây
tác động tới lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và tác động tới lãi suất
của các NHTM. Tương tự như vậy chính phủ thực hiện các chính sách tiền
tệ nới lỏng hay thắt chặt của mình thì công cụ lãi suất là công cụ có tác
dụng nhanh chóng và hiệu quả nhất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ
tới rủi ro tín dụng.
1.2.1.4, Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho
ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế không như dự kiến làm gia tăng
các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay làm cho ngân hàng mất
khả năng thanh khoản.


1.2.2. Các rủi ro khác
Là các khả năng xảy ra cuớp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán,
hoả hoạn, thiên tai, lỗi công nghệ…
1.3, Rủi ro tín dụng
Theo quyết định 493/QĐ/2005 do thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam ban hành ngày 22/04/2005 rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn
thất mà khách hàng không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả được đầy
đủ vốn và lãi.
1.3.1, Sự cần thiết phải hạn chế rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động tín dụng – hoạt động đặc
trưng, quan trọng và có qui mô lớn nhất trong các hoạt động của ngân hàng.

NHTM là một trung gian tài chính, tức là luân chuyển tiền của người chưa
có cơ hội đầu tư đến những người đang có cơ hội đầu tư nên hiệu quả sử
dụng nguồn vốn không chỉ phụ thuộc vào bản thân NHTM mà còn phụ
thuộc nhiều vào các khách hàng của họ. Khi thực hiện một hoạt động tín
dụng cụ thể nào thì ngân hàng đều phải phân tích các yếu tố của người vay
sao cho độ an toàn là cao nhất, và chỉ quyết định cho vay khi khoản vay đó
an toàn. Tuy nhiên do hoạt động tín dụng rất nhạy cảm và liên quan tới hầu
hết các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế nên chịu rất nhiều tác động của môi
trường. Vậy nên có nhiều quan điểm cho rằng rủi ro tín dụng là tất yếu
trong hoạt động của ngân hàng.
Tuy nhiên ngân hàng là một doanh nghiệp và mục đích cuối cùng là
lợi nhuận. Theo qui luật rủi ro đi liền với lợi nhuận, rủi ro càng cao thì lợi
nhuận càng nhiều chính vì vậy nên việc ngân hàng chấp nhận rủi ro tín
dụng là điều tất yếu của việc kinh doanh, điều quan trọng là làm thế nào để
hạn chế được rủi ro đó trong khả năng kiểm soát của ngân hàng mà không
làm ảnh hưởng tới mục tiêu lợi nhuận.
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc biệt. Hàng
hoá ở đây là tiền và nó vô cùng nhạy cảm. Không có bất cứ một ngành kinh


doanh nào mà nếu có một đơn vị hoạt động không tốt ngay lập tức sẽ gây
tác động tới toàn ngành và dẫn tới sự khủng hoảng có hệ thống của toàn bộ
nền kinh tế. Có thể nói rằng ảnh hưởng của ngành ngân hàng trong nền
kinh tế là vô cùng to lớn nên việc hạn chế rủi ro tín dụng là vấn đề đặt ra
với các nhà quản lý của chính mỗi ngân hàng nói riêng và của cả những
nhà quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung.
Đối với ngân hàng :
Ảnh hưởng đầu tiên nhìn thấy khi rủi ro tín dụng xảy ra là ngân hàng
sẽ mất đi hoặc không thu được đúng hạn khoản vốn và lãi, tức là làm sẽ
làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận. Những món vay quá hạn hoặc mất khả

năng thu hồi gây nên tình trạng thiếu tiền trong ngân quỹ, làm giảm khả
năng thanh khoản và dẫn tới rủi ro thanh khoản có thể khiến ngân hàng mất
uy tín với khách hàng. Ngân hàng hoặc phải yêu cầu sự giúp đỡ từ phía
NHNN và các ngân hàng khác hoặc phải tuyên bố phá sản, đây là hậu quả
nghiêm trọng nhất, nó không chỉ ảnh hưởng tới riêng ngân hàng đó mà còn
ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng và có khả năng gây ra một cuộc
khủng hoảng tài chính. Như vậy, rủi ro tín dụng không những gây ra tổn
thất về lợi nhuận về uy tín của NHTM mà nó còn là nguồn gốc của hàng
loạt các rủi ro khác và dẫn tới những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Đối với khách hàng:
Những người đi vay nếu không có kế hoạch hợp lý sẽ không thanh
toán kịp thời hạn và phải chịu lãi suất phạt cho khoản vay đó, tức là chi phí
tăng và làm giảm lợi nhuận. Đồng thời việc chậm trễ thanh toán sẽ làm mất
uy tín của khách hàng đối với ngân hàng, họ sẽ gặp phải khó khăn khi
muốn tiếp tục sử dụng vốn của ngân hàng này hay ngân hàng khác. Đây là
một bất lợi vô cùng lớn với doanh nghiêp vì sử dụng vốn vay mang lại rất
nhiều lợi ích đối với doanh nghiệp, giảm được thuế thu nhập phải nộp của
doanh nghiêp, giảm bớt chi phí vốn so với việc sử dụng vốn của chủ.
Đối với nền kinh tế :


Rủi ro tín dụng tác động tới hệ thống ngân hàng, tới các doanh nghêp
và thông qua đó tác động tới toàn bộ nền kình tế. Nó làm ứ đọng vốn, giảm
hiệu quả luân chuyển vốn của ngân hàng, kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Nghiêm trọng hơn, nó có thể kéo theo hàng loạt các rủi ro khác, một cuộc
khủng hoảng tài chính xảy ra và trường hợp xấu nhất là hệ thống ngân hàng
tài chinh sụp đổ, nền kinh tế rối loạn, khủng hoảng chính trị, xã hội là điều
chắc chắn không thể tránh khỏi.
Tóm lại, rủi ro tín dụng ở qui mô nào cũng có những tác động xấu có
thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Chính vì lẽ đó nên việc hạn chế rủi ro tín

dụng đối với NHTM là vô cùng quan trọng và phải được các nhà quản trị
NHTM đặt lên là nhiệm vụ hàng đầu.
1.3.2, Các chỉ tiêu biểu hiện mức độ hạn chế rủi ro tín dụng
Rủi ro rín dụng chỉ là khả năng xảy ra tổn thất nên không thể nào
được đo lường một cách chính xác được nên người ta dùng một số chỉ tiêu
phản ánh rủi ro tín dụng để đo mức độ hạn chế rủi ro tín dụng của ngân
hàng.


Nợ quá hạn và nợ khó đòi :
Nợ quá hạn là là khoản nợ mà khách hàng không trả khi đã đến hạn

thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Với những món nợ mà không thanh
toán được vào thời điểm hết kỳ hạn nợ thì toàn bộ khoản nợ gốc còn lại sẽ
được chuyển hết thành nợ quá hạn.
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và đã quá một kỳ gia hạn nợ hoặc
không có tài sản bào đảm hoặc không bán được tài sản, công ty phá sản…
Khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng thì tổng dư nợ quá
hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ hiệu quả sử dụng đồng vốn của
ngân hàng. Các chỉ tiêu như tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, nợ khó đòi
trên tổng dư nợ là công cụ hữu hiệu để nhận biết sụ suy giảm chất lượng tín
dụng. Các chỉ tiêu trên chỉ phản ánh chính xác khi không có các yếu tố tác
động làm biến dạng chúng. Tuy nhiên, trên thực tế thì vẫn xảy ra tình trạng


có những khoản nợ bị : dự tính kỳ hạn nợ không đúng, đảo nợ hoặc giãn
nợ, do chính sách của ngân hàng nên làm cho các chỉ tiêu này trở nên
không chính xác.
Những chỉ tiêu trên được dùng để so sánh giữa các thời kỳ với nhau,
so với mặt bằng chung của các ngân hàng khác và của ngành ngân hàng nói

chung sẽ cho thấy một cái nhìn tổng quát về tình hình hạn chế rủi ro tín
dụng của ngân hàng trong các thời kỳ khác nhau và so với các ngân hàng
khác trong hệ thống NHTM .


Nợ có vấn đề :
Các khoản nợ có vấn đề là các khoản có khả năng trở thành nợ quá

hạn. Các khoản nợ này nếu được phát hiện sớm và nắm bắt nguyên nhân để
giải quyết thì sẽ làm giảm bớt tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu. Tuỳ
thuộc vào khả chính sách tín dụng của mỗi ngân hàng mà tiêu chí đánh giá
các khoản nợ có vấn đề là khác nhau. Tỷ lệ nợ có vấn đề có tính chất dự
báo đồng thời cũng cho biết một phần nào đó công tác hạn chế rủi ro tín
dụng của ngân hàng giúp ngân hàng nhanh chóng có biện pháp khắc phục
để giảm bớt tỷ lệ nợ có vấn đề chuyển thành nợ quá hạn.


Điểm của khách hàng:
Chỉ tiêu này phản ánh năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự

án… Ngân hàng lập hồ sơ khách hàng và chấm điểm cho khách hàng.
Thông qua chỉ tiêu này cho thấy khả năng xảy ra rủi ro “ tỉềm ẩn” đối với
ngân hàng.


Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro:
Quĩ dự phòng rủi ro được thành lập nhằm mục đích bù đắp vào tổn

thất của ngân hàng khi rủi ro xảy ra nhằm không làm ảnh hưởng tới kết quả
kinh doanh của ngân hàng. Quĩ dự phòng được trích lập theo qui định của

ngân hàng Trung Ương, tỷ lệ trích lập theo mức độ rủi ro của khoản các
khoản vay. Nhìn vào quĩ dự phòng rủi ro của một ngân hàng và quá trình sử
dụng nó ta có thể đánh giá phần nào về công tác quản lý rủi ro tín dụng của


ngân hàng đó. Ngân hàng mà có quĩ dự phòng rủi ro lớn hơn những ngân
hàng cùng qui mô khác và lượng dự trữ ngày càng lớn qua các năm chứng
tỏ rằng mức độ rủi ro chứa đựng trong các khoản vay ngày càng lớn, đây là
dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng chưa được hạn chế.
Cách sử dụng quĩ dự phòng cũng phần nào cho thấy mức độ hạn
chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Nếu ngân hàng phải dùng tới quĩ này
thường xuyên và thậm chí còn phải bổ sung thì rõ rang việc hạn chế rủi ro
tín dụng của ngân hàng đó chưa được làm tốt.
Tuy nhiên thì chỉ tiêu này cũng chỉ mang tính chất tương đối vì còn phụ
thuộc vào qui mô của các khoản tín dụng. Chẳng hạn như lượng trích lập
dự phòng kỳ sau cao hơn kỳ trước có thể là do số lượng các khoản tín dụng
và qui mô khoản tín dụng tăng hơn nhiều so với kỳ trước.
Tính đa dạng hoá trong hoạt động tín dụng:
Đa dạng hoá là một biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro hữu
hiệu. Nhìn vào bảng tổng kết tài sản của NHTM ta có thể thấy được danh
mục tài sản của ngân hàng đó, tài sản càng đa dạng thì rủi ro càng được
phân tán. Tính đa dạng hoá được thể hiện ở các khía cạnh : ngoài hoạt động
cho vay ngân hàng còn thực hiện nhiều loại hình dịch vụ sinh lời khác, các
khoản cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau với các kỳ hạn khác nhau,
nhiều nhóm khách hàng, nhiều ngành nghề khác nhau…
Như vậy để đánh giá rủi ro của ngân hàng thì có thể căn cứ vào
nhiều tiêu chí khác nhau. Nhưng tiêu chí nào cũng có những mặt hạn chế
nhất định chính vì thế nên các nhà quản trị ngân hàng cần có cái nhìn tổng
quát để đánh giá đúng rủi ro tín dụng với ngân hàng mình và qua đó có
biện pháp hạn chế rủi ro thích hợp.

1.3.3, Những nhân tố tác động tới hạn chế rủi ro tín dụng
Nắm bắt được các nhân tố tác động tới tình hình hạn chế rủi ro tín
dụng của ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng có những biện pháp quản lý có
hiệu quả hơn với các khoản tín dụng.


1.3.3.1, Các nhân tố khách quan
 Nhân tố khách hàng:
Các khoản tín dụng sau khi ra kỏi ngân hàng thì được các doanh
nghiệp, cá nhân đưa vào sản xuất và đầu tư, khi đó chúng nằm ngoài sự
kiểm soát của ngân hàng. Vì vậy hạn chế rủi ro tín dụng không phải chỉ phụ
thuộc vào ngân hàng mà phụ thuộc vào khách hàng của ngân hàng.
Về phía khách hàng cũng có nhiều yếu tố tác động tới năng lực trả nợ
của họ như : trình độ của bản thân, năng lực quản lý, kế hoạch dự toán ngân
quỹ cho trả nợ… Trong trường hợp mà phương án kinh doanh không hiệu
quả thì năng lực tài chính của khách hàng là yếu tố cần được quan tâm, nó
quyết định tới khả năng thu hồi được khoản nợ đó. Bên cạnh đó thì yếu tố
đạo đức, vị trí xã hội của khách hàng cũng rất quan trọng vì không loại trừ
những trường hợp khách hàng cố ý lừa gạt ngân hàng để chiếm dụng những
khoản tín dụng. Vì lẽ đó khi xem xét các khoản tín dụng, trước tiên nhân
viên tín dụng nên nắm rõ về tính cách, đạo đức và những thông tin cá nhân
của khách hàng để hạn chế những rủi ro đáng tiếc từ phía khách hàng.
 Nhân tố bất khả kháng:
Là một doanh nghiệp nên hoạt động của ngân hàng không nằm
ngoài sự tác động của các yếu tố môi trường. kinh tế - xã hội, chính trị nói
chung. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay. hội nhập kinh tế quốc tế là xu
hướng tất yếu thì những tác động đó không hạn chế trong một quốc gia mà
còn là tác động trên toàn thế giới. Vì vậy nên việc hạn chế rủi ro tín dụng
càng trở nên khó khăn hơn.
Ngành ngân hàng lại liên quan đến rất nhiều ngành nghề trong xã

hội, chỉ cần một chính sách của chính phủ đối với một ngành nghề nào đó
thôi thì cũng đều ảnh hưởng tới ngân hàng. Hiện nay trên thế giới có rất
nhiều biến động xảy ra, liên tục xảy ra những cuộc khủng hoảng từ phía
những nền kinh tế lớn, giá cả các mặt hàng nhiên liệu và năng lương tăng


hàng ngày… rất khó để các ngân hàng có thể dự đoán được chính xác tình
hình và do đó cũng dẫn tới rủi ro tín dụng.
Bên cạnh đó là các thảm hoạ do thiên nhiên gây ra cũng là những
nhân tố bất khả kháng tác động tới hạn chế rui ro tín dụng của các ngân
hàng. Thiên tai, bão lũ…khiến nhà đầu tư thiệt hại nhiều tiền, ảnh hưởng
tới phương án kinh doanh đã đặt ra và đương nhiên ảnh hưởng tới khả năng
thanh toán đối với ngân hàng dẫn tới rủi ro tín dụng.
Một nhân tố có tác động lớn đối với hoạt động của ngân hàng đó là
môi trường pháp luật và thể chế. Một môi trường thể chế trong sạch,
nghiêm minh sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển công bằng, lành mạnh. Môi
trường có ổn đinh các nhà đầu tư mới yên tâm làm ăn và nguy cơ xảy ra
rủi ro tín dụng là rất thấp. Ngược lại, nếu môi trường không ổn định sẽ
không thúc đẩy đẩu tư phát triển. Luật pháp không nghiêm minh, công
bằng sẽ tạo điều kiện cho những cái xấu len lỏi và gây tổn hại cho nền kinh
tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng.
1.3.3.4, Nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là nhân tố bắt nguồn từ chính ngân hàng nên
bản thân ngân hàng có thể làm thay đổi chúng theo hướng có lợi cho mình
nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Vì vậy ngân hàng cần nắm được nhóm nhân
tố này để đưa ra những biện pháp hạn chế rủi ro có hiệu quả.
Thứ nhất, chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng của ngân hàng là những qui định của ngân
hàng để phổ biến và thực hiện đồng bộ trong toàn ngân hàng. Nó được xây
dựng dựa trên định hướng phát triển của ngân hàng và những qui định của

Ngân hàng Nhà nước, nó thể hiện năng lực của bản thân ngân hàng và
đường lối kinh tế chung của cả nước,
Chính sách tín dụng bao gồm : các qui định về tiêu chuẩn với danh
mục cho vay của ngân hàng ( loại hình, thời hạn tín dụng, qui mô chất
lượng của khoản vay ). Nó xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với


từng cán bộ tín dụng và phòng thẩm định tín dụng; những thủ tục, hoạt
động cần thiết từ bước chào mời, xem xét, đánh giá và giải quyết đối với
từng đơn xin vay của từng nhóm khách hàng. Những tài liệu cần thiết đi
kèm trong hồ sơ vay vốn và phải lưu lại… Xây dựng chính sách tín dụng
của ngân hàng mình là điều đầu tiên cần làm tại mỗi ngân hàng, nó phải
xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi chủ thể trong qui trình tín
dụng, nhũng thủ tục cần thiết, những bước tiến hành từ chào mời cho tới
quyết định một khoản tín dụng. Có thể nói, chính sách tín dụng như một
văn bản luật lưu thông trong mỗi ngân hàng, trong đó bao gồm những quy
định chung và cả những qui định riêng của ngân hàng.
Có một chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý và khoa học quyết
định một phần thành công của ngân hàng. Vì vậy nên, chính sách tín dụng
là nhân tố quan trọng nhất, ảnh hưởng nhiều nhất tới hạn chế rủi ro tín dụng
của ngân hàng,
Thứ hai, qui trình tín dụng
Quy trình tín dụng là các bước mà nhân viên tín dụng cần làm. Nó
bao gồm tất cả bước thực hiện từ khi món vay được xem xét giải ngân cho
đến khi ngân hàng thu hồi được cả vốn lẫn lãi của khoản vay đó. Xây dựng
một qui trình tín dụng hợp lý, chặt chẽ chính xác sẽ giúp các nhân viên tín
dụng dựa vào đó thực hiện chính xác, không nhầm lẫn, không sai sót trong
từng khoản tín dụng.
Thứ ba, cách thức quản lý tiền cho vay của NHTM
Cách thức quản lý tiền cho vay của mỗi ngân hàng khác nhau

nhưng đều dựa trên những nguyên tắc chung sau:
 Sàng lọc và giám sát:
Ngân hàng tiến hành sàng lọc để lựa chọn khách hàng có ít rủi ro
nhất. Sàng lọc khách hàng là bước cơ bản diễn ra trước nhất trong qui trình
tín dụng. Ngân hàng cần xác định được những chuẩn mực khách hàng của
mình để lựa chọn ra các khách hàng mục tiêu, từ đó lại tiếp tục qua các


bước lựa chọn đối nghịch để chọn ra khách hàng có ít rủi ro nhất hạn chế
rủi ro tín dụng có thể gặp
 Quan hệ khách hàng lâu dài:
Việc thiết lập quan hệ lâu dài với khách hàng sẽ giúp ngân hàng có
được các thông tín chính xác về khách hàng : về đạo đức, khả năng tài
chính… mặt khác làm giảm các chi phí giám sát, tìm hiểu khách hàng qua
các kênh thông tin khác. Việc có được mối quan hệ tốt với khách hàng là
một nhân tố quyết định tới thành công của ngân hàng vì hiện nay số lượng
các ngân hàng rất nhiều, muốn thành công các ngân hàng luôn phải xây
dựng cho mình một lực lượng khách hàng quen thuộc, thường xuyên và
trung thành với ngân hàng mình.
 Vật thế chấp và số dư bù:
Khi rủi ro xảy ra, thì vật thế chấp và số dư bù là những công cụ
quan trọng để giảm bớt tổn thất cho ngân hàng. Cũng là một dạng đặc biệt
của vật thế chấp, số dư bù giúp cho ngân hàng giám sát được tình hình tài
chính của khách hàng . hạn chế rủi ro bắt nguồn từ khách hàng.
 Hạn chế tín dụng:
Hạn chế tín dụng cũng là một trong những nguyên tắc quản lý tác
động tới việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Nó góp phần hạn chế
những rủi ro tín dụng đến do ngân hàng chấp nhận rủi ro cao để mong chờ
những khoản lợ nhuận cao, và do nguyên nhân đạo đức. Ngân hàng thực
hiện hạn chế tín dụng bằng hai cách: ngân hàng từ chối yêu cầu vay vốn

của khách hàng; cách thứ hai là đồng ý cho vay nhưng theo một định mức
nhất định.
 Tính tương hợp ý muốn:
Nguyên tắc quản lý này có nghĩa là : ngân hàng muốn huy động
đựoc nhiều vốn hơn để sử dụng vốn đó thực hiện các khoản tín dụng thu
được lợi nhuận cao thì ngân hàng cũng phải thoả mãn được các ý muốn của


người đem gửi tiền. Ngân hàng phải có một lượng vốn tự có đủ lớn để gây
dựng lòng tin đối vói người gửi tiền và phải có một mức lãi suất tiền gửi
phù hợp với tình hình thị trường.
Các nguyên tắc quản lý tiền vay phải được đảm bảo từ khi xét duyệt
khoản tiền vay cho đến khi nó được hoàn trả cả vốn lẫn lãi. Những nguyên
tắc này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hạn chế rủi ro tín dụng tại các
NHTM.
Thứ tư, chất lượng của đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng:
Có thể nói đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến hạn chế rủi ro tín dụng. Vì cán bộ, nhân viên là những
người trực tiếp áp dụng các chính sách tín dụng, qui trình tín dụng của ngân
hàng. Đội ngũ cán bộ nhân viên có nhận thức tốt, có trách nhiệm cao sẽ
thực hiện những chính sách của ngân hàng một cách tốt nhất, đưa ngân
hàng đi theo định hướng phát triển đã đề ra. Những ngân hàng hiện nay đã
nhận ra điều này và họ rất chú trọng vào nhân tố con người. Họ cố gắng lựa
chọn ra những cá nhân suất sắc để đào tạo họ thành những cán bộ có chất
lượng cao của ngân hàng. Cán bộ có chất lượng cao sẽ thực hiện các qui
trình một cách chính xác không có những sai xót như thế giảm thiểu khả
năng xảy ra tổn thất từ nguyên nhân do ngân hàng. Ngoài mặt kỹ năng và
chuyên môn, cán bộ ngân hàng còn phải có đạo đức tốt vì họ làm việc trong
môi trường rất nhạy cảm và đầy cám dỗ. chính vì thế nếu ý chí không vững
vàng sẽ dễ mắc phải những sai lầm đáng tiếc.

Thứ năm là hệ thống thông tin nội bộ ngân hàng và cách thu thập thông tin
từ bên ngoài của ngân hàng:
Mọi quyết định đúng đắn đều xuất phát từ những nguồn thông tin
đúng đắn và đáng tin cậy. Việc có được nguồn thông tin tốt đối vói ngân
hàng đóng vai trò quyết định với trong việc hạn chế rủi ro. Trong một qui
trình tín dụng không khi nào là không cần tới thông tin. Khi bắt đầu một
khoản vay ngân hàng cần tới thông tin chính xác về khách hàng, về lịch sử


tín dụng của khách hàng; khi thực hiện khoản tín dụng cần thông tin về
việc thực hiện kế hoạch của khách hàng tiện cho việc giám sát của ngân
hàng. Và khi kết thúc khoản tín dụng cũng vẫn cần tiếp nhận thêm thông tín
về khách hàng để bổ sung vào quĩ thông tin của ngân hàng, phục vụ cho
những lần giao dịch tiếp theo… Hệ thống thông tin nội bộ của một ngân
hàng tác động tới hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng đó thông qua việc
các thông tin đầy đủ và chính xác, luôn được cập nhật giúp cho việc ra
quyết định tín dụng đúng đắn và kịp thời. Việc ngân hàng tìm nhiều cách để
có được thông tin từ bên ngoài. sử dụng chúng như thế nào và khả năng
đánh giá các luồng thông tín đó cũng ảnh hưởng nhiều tới việc hạn chế rủi
ro tín dụng.
Thứ sáu, tính đa dạng hoá trong hoạt động của ngân hàng
Đây là yếu tố tác động tới hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng
nhưng không phải là tác động trực tiếp , nó chỉ nhằm giảm thiểu tổn thất
xảy ra đối với ngân hang khi rủi ro xảy ra. Đa dạng hoá giúp cho ngân hàng
phân tán được rủi ro, đây cũng là một công cụ hữu hiệu trong việc hạn chế
rủi ro tính dụng của ngân hàng.


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP
NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM ( VPBANK )
2.1, KHÁI QUÁT VỀ VPBANK
2.1.1, Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh
Việt Nam (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số
0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12
tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt
động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐUB ngày 04 tháng 09 năm 1993. Hội sở chính được đặt tại số 18 Lê Thánh
Tông – Hà Nội.
Chiến lược kinh doanh của VPBank là tập trung vào hoạt động ngân
hàng bán lẻ. gồm 2 mảng chủ yếu : một là, ngân hàng phục vụ tiêu dùng
( đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; đa dạng hóa cho vay tiêu dùng,
cho vay trả góp; phát triển các dịch vụ thẻ ngân hàng) và thứ hai là, ngân
hàng phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động
vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho
vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân
cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; chiết khấu
thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Cung cấp các dịch vụ
giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy
định của NHNN Việt Nam.
Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu
cầu phát triển, theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến


tháng 8/2006, vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006,
VPBank nhận được chấp thuận của NHNN cho phép bán 10% vốn cổ phần
cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một Ngân hàng
lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ sẽ được nâng lên trên 750 tỷ đồng.

Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank sẽ tăng lên trên
1.000 tỷ đồng. Và hiện nay vốn điều lệ của VPBank đã tăng lên 1.500 tỷ
đồng vào tháng 7/2007 và đến cuối năm 2007 là 2000 tỷ đồng.
Sứ mệnh phát triển :VPBank sẽ trở thành ngân hàng thương mại đô thị đa
năng, hoạt động theo phương châm: lợi ích của khách hàng là trên hết; lợi
ích của người lao động được chú trọng; đóng góp có hiệu quả vào sự phát
triển của cộng đồng.
• Đối với khách hàng: VPBank cam kết thỏa mãn tối đa lợi ích của
khách hàng trên cơ sở cung cấp cho khách hàng những sản phẩm và dịch
vụ phong phú, đa dạng, đồng bộ, nhiều tiện ích, chi phí cạnh tranh.
• Đối với nhân viên: VPBank quan tâm đến đời sống vật chất lẫn tinh
thần của toàn thể nhân viên và đảm bảo cho nhân viên mức thu nhập ổn
định, mang tính cạnh tranh cao trong thị trường lao động ngành tài chính
ngân hàng.VPBank đảm bảo cán bộ nhân viên thường xuyên được nâng
cao trình độ nghiệp vụ, phát triển đầy đủ các quyền lợi về chính trị và văn
hóa…
• Đối với cổ đông :VPBank quan tâm và cố gắng nâng cao giá trị cổ
phiếu, duy trì mức cổ tức cao hàng năm…
• Đối với cộng đồng :VPBank cam kết thực hiện tốt nghĩa vụ tài
chính đối với ngân sách Nhà nước; quan tâm chăm lo đến công tác xã hội,
từ thiện để chia sẻ khó khăn của cộng đồng.
Tầm nhìn chiến lược:
VPBank phấn đấu đến năm 2010 trở thành ngân hàng dẫn đầu khu vực
miền Bắc, đồng thời là ngân hàng trong top 5 của cả nước, một ngân hàng
có tầm cỡ của khu vực Đông Nam Á về chất lượng hiệu quả và độ tin cậy.


Giá trị cốt lõi:
• VPBank định hướng khách hàng là nền tảng trung tâm cho mọi hoạt động
• Sự kết hợp hài hòa lợi ích khách hàng, nhân viên, cổ đông và cộng

đồng là sợi chỉ xuyên suốt mọi hoạt động;
• Xây dựng văn hóa ngân hàng theo phương châm tạo dựng một tập
thể đoàn kết, tương trợ, văn minh, không ngừng học hỏi để hoàn thiện, luôn
trao đổi thông tin để cùng tiến bộ…
• Công nghệ tiến tiến và quản trị thông tin có khoa học là cơ sở để
tăng tốc và duy trì sức mạnh.
• Đội ngũ nhân viên luôn minh bạch và có tinh thần trách nhiệm, luôn
thể hiện tính chuyên nghiệp và sáng tạo là cơ sở cho thành công của ngân
hàng.
Cơ cấu tổ chức và mạng lưới của VPBank:


×