Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quyền của người biểu diễn theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.31 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu............................................................................................................0
NỘI DUNG...........................................................................................................1
1.

Cơ sở lý luận.............................................................................................1
1.1.

Người biểu diễn, cuộc biểu diễn.........................................................1

1.2.

Mục đích và ý nghĩa của việc bảo hộ quyền của người biểu diễn......2

1.3. Pháp luật quốc tế quy định về quyền của người biểu diễn.....................4
2.

Cơ sở pháp lý............................................................................................8
2.1.

Khái niệm về quyền của người biểu diễn...........................................8

2.2.

Đặc điểm quyền của người biểu diễn.................................................9

2.3.

Nội dung quyền của người biểu diễn................................................10

2.4. Thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn........................................15


3.

Thực trạng việc bảo hộ quyền của người biểu diễn và định hướng hoàn

thiện các quy định pháp luật về quyền của người biểu diễn...........................16
3.1. Thực trạng việc bảo hộ quyền của người biểu diễn.............................16
3.2. Định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của người
biểu diễn......................................................................................................18
KẾT LUẬN.........................................................................................................19
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................................20

0


Lời nói đầu
Trong thời đại ngày nay, nhu cầu vật chất càng được đáp ứng thì nhu cầu
tinh thần càng được đề cao. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật được sáng tạo ra
bởi trí tuệ, tâm huyết, sức sáng tạo của mỗi tác giả để đem đến cho cộng đồng
một giá trị nào đó nhằm mục đích chính phục vụ nhu cầu tinh thần của con
người. Đa số các tác phẩm muốn đến được với công chúng thì cần có những
người biểu diễn, thể hiện loại hình tác phẩm đó trong các cuộc biểu diễn. Quyền
của người biểu diễn là một trong những quyền liên quan đến quyền tác giả đã
được pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam thừa nhận và bảo hộ sớm hơn so với các
đối tượng sở hữu trí tuệ khác. Thực tế có không ít hành vi lợi dụng nhằm kiếm
lợi bất chính cho bản thân đồng thời đã xâm phạm tới quyền của người biểu
diễn. Các quy định pháp luật về bảo hộ quyền của người biểu diễn hiện hành có
những ưu điểm, hạn chế và cần có những định hướng hoàn thiện gì đê đảm bảo
quyền lợi cho những người biểu diễn? Bài tiểu luận sau đây xin được đi sâu vào
nghiên cứu đề tài số 07 “Quyền của người biểu diễn theo quy định của Luật
sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và định hướng hoàn

thiện các quy định của pháp luật”. Trong quá trình tìm hiểu, phân tích bài tiểu
luận của em khó tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết nhất định rất mong
nhận được ý kiến đóng góp từ phía thầy cô để bài tiểu luận hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1.

Người biểu diễn, cuộc biểu diễn

Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học có số lượng khổng lồ luôn
luôn đa dạng về cả nội dung và hình thức thể hiện. Mỗi tác phẩm đều có một
cách thức riêng để đến với đông đảo công chúng. Có những tác phẩm được công
bố, phát hành mà cộng đồng có thể trực tiếp tiếp cận nhanh chóng như đọc một
quyển sách, một bài báo, nhìn ngắm một bức tranh, một bức tượng điêu khắc.
Cũng có rất nhiều tác phẩm đến với công đồng thông qua người biểu diễn với sự
cảm thụ và thể hiện sáng tạo của riêng mình và khiến tác phẩm đó trở nên vô
cùng sinh động, có sức truyền thụ mạnh mẽ và lâu dài hơn. Chính vì vậy, dù các
hình thức giải trí ngày càng đa dạng nhưng số lượng người biểu diễn không
ngừng gia tăng và nền công nghiệp biểu diễn vẫn không ngừng phát triển.
Người biểu diễn là cầu nối giữa tác giả và công chúng, góp phần truyền bá,
lưu giữ và phát triển các tác phẩm có giá trị. Mỗi người biểu diễn có phong cách
riêng và sức sáng tạo độc đáo khác biệt vì thế càng làm cho tác phẩm bước lên
một nấc thang giá trị mới tạo nên sự đa dạng, phong phú, hấp dẫn. Có thể hiểu
một cách khái quát người biểu diễn là một cá nhân, một nhóm người hoặc tổ
chức thể hiện một tác phẩm nào đó với cảm xúc, phong cách, sức sáng tạo riêng

để truyền đạt nội dung, giá trị của tác phẩm đến công chúng. Với sự đa dạng của
các loại hình tác phẩm văn học nghệ thuật thì các loại người biểu diễn cũng đa
dạng, phong phú không kém. Họ thường được gọi chung là nghệ sĩ, bao gồm ca
sĩ, vũ công, diễn viên, nhạc công, danh hài,...
Cuộc biểu diễn là nơi mà người biểu diễn thể hiện tác phẩm đó. Cuộc biểu
diễn có thể có quy mô nhỏ là một tiết mục, một phần, một trích đoạn hoặc có
quy mô lớn như một buổi biểu diễn, một liveshow, một concert. Quy mô và tính
chất cuộc biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền của người biểu diễn. Cuộc biểu
diễn có thể chỉ đơn giản có một người chơi một bản nhạc độc tấu, cũng có thể có
rất nhiều người cùng hợp xướng một bài hát, cùng tham gia một bộ phim, một
2


vở kịch hay một buổi biểu diễn ca nhạc lớn. Để thực hiện một cuộc biểu diễn lớn
như vậy thường cần có sự hợp tác của rất nhiều người nhưng chỉ những người
trực tiếp trình diễn, thể hiện tác phẩm mới được coi là người biểu diễn và về
nguyên tắc họ là chủ sở hữu quyền đầu tiên đối với cuộc biểu diễn đó.
1.2.

Mục đích và ý nghĩa của việc bảo hộ quyền của người biểu diễn

Không khó để nhận ra người biểu diễn đã đóng góp không nhỏ sức sáng tạo
trong quá trình biểu diễn các tác phẩm, mang các tác phẩm đến gần công chúng
hơn và tạo cho chúng sức hút riêng biệt, độc đáo. Vì vậy các công ước quốc tế,
cũng như luật pháp các quốc gia đã thừa nhận và bảo hộ quyền của người biểu
diễn.
Quyền của người biểu diễn là một trong số những quyền liên quan được
pháp luật công nhận và bảo hộ. Việc bảo hộ các quyền của người biểu diễn có
mục đích và ý nghĩa quan trọng đối với cá nhân người biểu diễn nói riêng và đối
với xã hội nói chung. Một mặt, việc bảo hộ quyền của người biểu diễn sẽ thúc

đẩy sức sáng tạo, tâm huyết, nỗ lực cho họ không ngừng tạo ra những giá trị cho
cộng đồng, mặt khác ngăn chặn những hành vi xâm hại đến quyền lợi cơ bản của
họ. Bên cạnh đó, có cơ chế pháp lý rõ ràng và hoàn thiện sẽ tạo điều kiện cho xã
hội phát triển văn minh, lành mạnh, phòng ngừa sự bất ổn kinh tế dẫn đến bất ổn
an ninh chính trị.
Sự phát triển của việc ghi âm, ghi hình đã dần trở thành ngành công nghiệp
ghi âm, ghi hình, ngành công nghiệp điện ảnh tiên tiến với mức doanh thu hàng
năm lên tới hàng tỷ đô la. Đặc biệt gần đây với “cơn lốc” Internet quét qua mọi
ngóc ngách của Trái Đất thì đã góp phần lớn giúp người biểu diễn định hình, sao
chép và truyền phát cuộc biểu diễn của mình tới đông đảo công chúng, thậm chí
toàn cầu một cách nhanh chóng hơn. Nhưng, cũng chính những bản sao cuộc
biểu diễn đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng kiểm soát công chúng tiếp
cận với cuộc biểu diễn. Nếu như đối với buổi biểu diễn trực tiếp chỉ cần thông
qua kiểm soát vé vào cửa là có thể khống chế được lượng khán gải và cách thức
họ tiếp cận buổi biểu diễn, thì nay với vô số bản sao băng từ hay bản lưu dưới
3


dạng điện tử, khả năng kiểm soát và khống chế các cá nhân, tổ chức tiếp cận, sử
dụng và khai thác cuộc biểu diễn của người biểu diễn bị thu nhỏ, khả năng thụ
hưởng thù lao, thu hồi chi phí và đầu tư cho cuộc biểu diễn bị đe doạ.
Có thể thấy trên thực tế đã xảy ra không ít những trường hợp như trên. Đơn
cử như ca sĩ A tổ chức một liveshow nhỏ nhằm kỷ niệm 10 năm ca hát. Nhưng
số lượng vé hạn chế đồng thời giá vé cao vì thế mà rất nhiều người muốn xem
buổi liveshow đó đã không có cơ hội trực tiếp xem buổi biểu diễn. Vì vậy, đã có
những người vào được bên trong và quay lại cuộc biểu diễn và phát tán ra bên
ngoài. Nếu ban tổ chức và ca sĩ đó đồng ý thì không có vấn đề gì. Tuy nhiên, đa
phần không đơn vị tổ chức nào muốn xảy ra trường hợp này vì nó ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc kinh phí họ đầu tư và chi phí họ mong muốn thu lại. Vì
vậy yêu cầu bảo hộ quyền của người biểu diễn càng trở nên bức thiết. Trong đó,

ca sĩ người Mỹ Beyonce đã đi tiên phong trong việc yêu cầu người hâm mộ của
mình đến xem buổi biểu diễn không sử dụng bất kỳ phương tiện ghi âm, ghi
hình nào, tắt điện thoại, camera.
Hơn nữa, việc bảo hộ quyền liên quan, trong đó có quyền của người biểu
diễn, góp phần củng cố và hoàn thiện cơ chế bảo hộ quyền tác giả. Khi quyền
của người biểu diễn được bảo hộ, người biểu diễn nhận được thù lao tương xứng
với công sức đã bỏ ra trong quá trình thể hiện, truyền bá tác phẩm sẽ càng nỗ lực
truyền tải các sản phẩm sáng tạo của các tác giả, nâng cao giá trị của các tác
phẩm. Đồng thời khi biểu diễn các tác phẩm, người biểu diễn trước tiên phải
tuân thủ các nghĩa vụ xin phép và trả tiền bản quyền cho tác giả theo quy định
của pháp luật, khi đó tác giả được thụ hưởng các quyền mà pháp luật cho phép.1
1.3. Pháp luật quốc tế quy định về quyền của người biểu diễn
1.3.1. Công ước Rome 1961
Công ước Rome năm 1961 là công ước quốc tế đầu tiên về bảo hộ quyền
liên quan. Sau đó các hiệp định khác đã ra đời để bảo hộ từng đối tượng của
quyền liên quan, trong đó có Hiệp định về cuộc biểu diễn và bản ghi âm WIPO
1

1. Hoàng Hoa, Quyền của người biểu diễn, theo trang web />option=com_content&view=article&id=872&catid=51&Itemid=107

4


(WPPT) ra đời năm 1996. Việt Nam có tư cách thành viên của công ước này từ
ngày 01/3/2007. Công ước Rome là cơ sở cho việc xây dựng các quy định pháp
luật về bảo hệ quyền liên quan của rất nhiều các quốc gia, trong đó có cả Việt
Nam.
Tại Điều 3 Công ước Rome đã định nghĩa : “người biểu diễn là các diễn
viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác đóng vai diễn, hát, đọc,
ngâm, trình bày, hoặc thể hiện các tác phẩm văn học và nghệ thuật”. Có thể

thấy định nghĩa này mang tính liệt kê đã bao hàm rất nhiều chủ thể có thể là
người trực tiếp thể hiện một tác phẩm để trở thành người biểu diễn. Tùy từng
loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật mà có đối tượng chủ thể biểu diễn riêng
như bản nhạc, bài hát thì là ca sĩ, nhạc công, kịch bản thì là diễn viên,...
Trên tinh thần bảo hộ mọi cuộc biểu diễn, một khi chúng được tổ chức hay
diễn ra trong thực tế, đặc biệt gắn với tính chất “động” thể hiện rõ trong hoạt
động của người biểu diễn, Điều 4 Công ước Rome nói về đối xử quốc gia dành
cho người biểu diễn giữa các nước thành viên không nói về tiêu chí quốc tịch,
chỉ nói về tiêu chí địa điểm hay không gian biểu diễn – để yêu cầu mỗi nước
thành viên dành sự đối xử quốc gia cho người biểu diễn khi khi cuộc biểu diễn
của họ diễn ra ở một nước thành viên khác.2
Điều 4 Các buổi biểu diễn được bảo hộ. Các tiêu chuẩn gắn với người biểu
diễn:
“Mọi nước ký kết đều dành sự đối xử quốc gia cho những người biểu diễn,
nếu bất kỳ một trong các điều kiện sau đây được đáp ứng:
a) Buổi biểu diễn được thực hiện trong một nước thành viên khác.
b) Buổi biểu diễn được định hình vào một bản ghi âm, mà bản ghi âm đó
được bảo hộ theo Điều 5 của Công ước này.
c) Buổi biểu diễn không được định hình vào một bản ghi âm nhưng lại được
phát trong một buổi phát sóng được bảo hộ theo Điều 6 của Công ước này.”
2

2. Kiều Thị Thanh, Sách chuyên khảo “Hội nhập quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam”, Nxb.
Chính trị-Hành chính, Hà Nội, 2013, tr.124.

5


Từ đó, tại Điều 7 của Công ước Rome đã quy định về Bảo hộ tối thiểu dành
cho người biểu diễn bao gồm quyền ngăn cấm việc phát sóng hoặc truyền phát

tới công chúng, định hình buổi biểu diễn chưa được định hình, sao chép bản ghi
buổi biểu diễn mà không có thoả thuận.
1.3.2. Hiệp định về cuộc biểu diễn và bản ghi âm WIPO (WPPT) 1996
Tại Điều 2 của Hiệp định WPPT một lần nữa nêu lên định nghĩa về người
biểu diễn cũng bằng cách thức liệt kê các chủ thể: “là diễn viên, ca sĩ, nhạc
công, vũ công, và những người khác nhập vai, hát, đọc, ngâm, thể hiện, diễn
xuất hoặc biểu diễn khác các tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật hoặc những thể
hiện tác phẩm văn học dân gian”. Định nghĩa này nêu cụ thể hơn định nghĩa tại
Điều 3 Công ước Rome. Tuy nhiên, nếu hiểu tác phẩm văn học dân gian là một
loại thuộc tác phẩm văn học nghệ thuật thì định nghĩa này có nêu thừa?
Là chủ thể của quyền liên quan, người biểu diễn có thể là chủ sở hữu đối
với cuộc biểu diễn nếu họ tự đứng ra tổ chức cuộc biểu diễn đó. Họ có đầy đủ
các quyền nhân thân và quyền tài sản mà tại Hiệp định WPPT quy định là quyền
tinh thần tại Điều 5, quyền kinh tế tại Điều 6. Người biểu diễn có 4 quyền kinh
tế độc quyền, gồm quyền làm bản sao; quyền phân phối; quyền cho thuê; quyền
cung ứng. Quyền làm bản sao là quyền cho phép sao chép trực tiếp hoặc sao
chép gián tiếp bản ghi âm dưới bất kì phương thức hoặc hình thức nào. Quyền
phân phối là quyền cho phép cung cấp cho công chúng bản gốc hoặc bản sao của
bản ghi âm, thông qua việc bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu khác. Quyền
cho thuê là quyền cho thuê thương mại công cộng bản gốc hoặc bản sao của bản
ghi âm được xác định theo luật quốc gia. Quyền cung cấp là quyền cho phép
phân phối công cộng, thông qua phương tiện phát sóng, truyền cáp hoặc theo
cách thức mà công chúng có thể tiếp cận tại bất kì địa điểm, thời gian do họ lựa
chọn. Quyền này bao hàm cả việc cung cấp qua mạng Internet.
Hiệp ước còn quy định 3 quyền kinh tế độc quyền của người biểu diễn đối
với cuộc biểu diễn phi định hình sống, gồm: quyền phát sóng trừ trường hợp tái
6


phát sóng; quyền truyền thông công cộng, trừ biểu diễn để phát sóng; quyền

định hình. Hiệp ước còn quy định quyền tinh thần của người biểu diễn; quyền
đòi được xác định là người biểu diễn và quyền phản đối bất kì sự cắt xén, bóp
méo hoặc sửa đổi khác có thể phương hại tới uy tín của người biểu diễn.
Tại Khoản 1 Điều 17 quy định về Thời hạn bảo hộ: “Thời hạn bảo hộ dành
cho người biểu diễn theo Hiệp ước này kéo dài ít nhất cho đến khi kết thúc thời
hạn 50 năm, tính từ khi kết thúc năm mà buổi biểu diễn đã được định hình trong
bản ghi âm.” Trong khi đó, Công ước Rome quy định thời hạn bảo hộ phải kéo
dài ít nhất cho đến khi kết thúc thời hạn 20 năm, tính từ khi kết thúc năm cuộc
biểu diễn được định hình (trường hợp cuộc biểu diễn không được định hình thì
tính từ khi nó được tiến hành).
1.3.3. Pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới về quyền của người
biểu diễn
Trên phương diện pháp lý các quốc gia, trước khi công ước Rome được ký
kết các nước Anh, Australia, Hoa kỳ và một số nước khác bảo vệ quyền lợi của
nhà sản xuất bản ghi âm dựa vào quy dựa vào quy định của luật bản quyền và
sau đó áp dụng quy tắc này để bảo vệ quyền lợi của người biểu diễn, do cuộc
biểu diễn của họ thường được định hình thông qua sản phẩm của nhà sản xuất
bản ghi âm. Trong khi đó tại các nước như Pháp, Đức và nhiều nước châu Âu
khác bảo vệ quyền lợi của chủ thể này theo chế độ quyền kề cận với, hay liên
quan đến quyền tác giả dựa trên cơ sở lập luận rằng về cơ bản các sản phẩm của
các chủ thể này không phải là sáng tạo cá nhân mà là sự kết hợp giữa việc sử
dụng tác phẩm văn học nghệ thuật của tác giả với phương tiện kỹ thuật, do vậy
sự bảo hộ dành cho các đầu tư của họ phải đồng thời đảm bảo tôn trọng các
quyền của tác giả.
Giống như mọi khái niệm pháp lý, khái niệm người biểu diễn không chỉ
biến đổi theo thời gian mà còn có những khác biệt theo phạm vi lãnh thổ. Pháp
luật các nước tùy thuộc điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và kỹ năng lập pháp đã
có những điều chỉnh trong việc đưa ra khái niệm người biểu diễn và cuộc biểu
diễn, cũng như điều kiện để được bảo hộ quyền của người biểu diễn.
7



Một số nước đã coi cuộc biểu diễn là một sản phẩm sáng tạo độc lập và
người biểu diễn hưởng các quyền riêng biệt. Ví dụ, Luật Bản quyền, Thiết kế và
sáng chế năm 1988 của Anh quy định Quyền của người biểu diễn: “độc lập với
bất cứ quyền tác giả, quyền nhân thân đối với tác phẩm được biểu diễn hay bất
kỳ bộ phim, bản ghi âm, chương trình phát sóng hoặc chương trình cáp nào có
trong buổi biểu diễn và bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào khác...”. Luật Bản quyền
Đài Loan cũng khẳng định người biểu diễn trình diễn tác phẩm hoặc các thể hiện
dân gian được bảo hộ độc lập. Việc bảo hộ quyền của người biểu diễn không ảnh
hưởng đến quyền tác giả của tác phẩm gốc. Trong khi nhiều nước khác nhận
định người biểu diễn chỉ đơn thuần trình diễn lại tác phẩm, mức độ sáng tạo thấp
hơn so với các tác phẩm thông thường, do đó cho người biểu diễn được hưởng
quyền đối với buổi biểu diễn của mình ở cấp độ thấp hơn dưới dạng quyền liên
quan.3
2. Cơ sở pháp lý
2.1.

Khái niệm về quyền của người biểu diễn

Trên cơ sở khái niệm người biểu diễn của Công ước Rome, Điều 16 Luật
Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 (sau đây viết tắt là Luật SHTT) liệt kê
các tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam,
trong đó quy định trực tiếp người biểu diễn gồm: “diễn viên, ca sĩ, nhạc công,
vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật”. Trong
đó nếu người biểu diễn tự mình đầu tư tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật để
thực hiện cuộc biểu diễn thì họ là người biểu diễn đồng thời là chủ sở hữu quyền
liên quan đối với cuộc biểu diễn đó. Nếu do người khác đầu tư tài chính, cơ sở
vật chất kỹ thuật để thực hiện cuộc biểu diễn đó thì chủ sở hữu quyền liên quan
là tổ chức, cá nhân đầu tư. 4

Tại Khoản 3 Điều 4 Luật SHTT đưa ra khái niệm: “ Quyền liên quan đến
quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân
3

3. Hoàng Hoa, Quyền của người biểu diễn, theo trang web />option=com_content&view=article&id=872&catid=51&Itemid=107
4
4. Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2017, tr 79.

8


đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ
tinh mang chương trình được mã hóa ”. Như vậy bằng việc liệt kê quyền liên
quan, luật đã chỉ rõ khái niệm quyền của người biểu diễn, đó là một trong những
loại quyền liên quan, là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn. Như
đã đề cập ở phần trên người biểu diễn có thể là cá nhân một người, một nhóm
người hoặc một tổ chức. Còn chủ sở hữu của cuộc biểu diễn có quyền đối với
cuộc biểu diễn có thể chính là người biểu diễn hoặc một chủ thể khác.
Quyền của người biểu diễn không được nêu ra một cách rõ ràng mà được
thể hiện qua các quy định pháp luật về các quyền nhân thân và quyền tài sản cụ
thể. Quyền của người biểu diễn và quyền biểu diễn là hai khái niệm riêng biệt.
Quyền của người biểu diễn thuộc phạm vi quyền liên quan. Còn quyền biểu diễn
mà chính xác là quyền biểu diễn công cộng là một trong những quyền tài sản
của chủ sở hữu quyền tác giả. Quyền này được quy định tại điểm b khoản 1 điều
20 Luật SHTT và được giải thích rõ hơn tại khoản 1 điều 21 Nghị định
22/2018/NĐ-CP, theo đó quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng do chủ sở
hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện biểu
diễn tác phẩm một cách trực tiếp hoặc cho phép người khác thực hiện biểu diễn
tác phẩm một cách trực tiếp hoặc thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất

kỳ phương tiện nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
2.2.

Đặc điểm quyền của người biểu diễn

Là một dạng của quyền liên quan, quyền của người biểu diễn mang những
đặc điểm cơ bản của quyền liên quan, đó là:
- Hoạt động của các chủ thể quyền liên quan chính là hành vi sử dụng tác
phẩm đã có
Hoạt động của chủ thể quyền liên quan là hành vi sử dụng tác phẩm đã có,
đó là một sự sử dụng đặc biệt, mang tính sáng tạo nghệ thuật nhất định có tính
chuyên nghiệp cao, là cầu nối đưa tác phẩm đến với công chúng. Hoạt động
sáng tạo nghệ thuật làm phát sinh các quyền mà pháp luật sở hữu trí tuệ bảo hộ

9


cho người ca sĩ chính là việc trình bày các ca khúc đã được sáng tác, với người
nhạc công đó là sự thể hiện những bản nhạc đã được viết bởi các nhà soạn nhạc.
- Đối tượng quyền liên quan được bảo hộ khi có tính nguyên gốc
Tính chất này của đối tượng quyền liên quan được xem xét trên hai phương
diện chủ yếu sau: Thứ nhất, tính nguyên gốc được xác định trên cơ sở lao động
sáng tạo mang dấu ấn cá nhân của chủ thể. Thứ hai, tính nguyên gốc của quyền
liên quan còn được thể hiện ở việc quyền liên quan chỉ được xác định theo các
đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu tiên.
- Quyền liên quan chỉ được bảo hộ trong thời hạn nhất định, kể cả các
quyền nhân thân
- Quyền liên quan được bảo hộ trên nguyên tắc không làm phương hại đến
quyền tác giả
Trong quá trình sử dụng tác phẩm, các chủ thể của quyền liên quan vẫn

phải tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của
tác phẩm mà họ sử dụng theo quy định pháp luật như mọi chủ thể có hành vi sử
dụng tác phẩm khác.
2.3.

Nội dung quyền của người biểu diễn

Khi thỏa mãn các điều kiện luật định thì người biểu diễn được hưởng các
quyền đối với với cuộc biểu diễn của họ. Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam, quyền của người biểu diễn gồm có quyền nhân thân và quyền tài
sản. Điều 29 Luật SHTT quy định người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thì
có các quyền nhân thân và các quyền tài sản, nếu không đồng thời thì người
biểu diễn có các quyền nhân thân, chủ đầu tư có quyền tài sản đối với cuộc biểu
diễn.
2.3.1. Quyền nhân thân
Khoản 2 Điều 29 Quyền nhân thân gồm hai quyền sau đây:
- Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình,
phát sóng cuộc biểu diễn.
10


Danh tiếng của một diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và các nghệ sĩ khác
chỉ được công chúng biết đến khi tên của họ được giới thiệu thông qua các cuộc
biểu diễn. Nhằm để cá biệt hóa hình tượng biểu diễn, người biểu diễn phải được
nêu tên mình trong mọi cuộc biểu diễn. Mỗi nghệ sĩ đều có một hình tượng riêng
và xây dựng hình tượng của mình thông qua các màn trình diễn, các buổi biểu
diễn. Sự nổi tiếng và được ghi nhận công sức là điều họ luôn mong muốn.
Quyền nhân thân này phải được đảm bảo không chỉ cho toàn bộ, mà còn
đối với từng phần nhất định của cuộc biểu diễn hoặc bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng. Việc chỉ một phần của sự trình diễn được đưa tới công

chúng không thể là lý do cho sự bỏ qua quyền được giới thiệu tên của người
biểu diễn. Ví dụ nếu là tiết mục đơn ca thì chỉ cần nêu tên một người, nếu tiết
mục tốp ca của một tập thể người thì chỉ cần nêu tên nhóm đó, tên đơn vị trực
thuộc. Còn nếu đó là sự kết hợp của nhiều ca sĩ thì cần nêu đầy đủ tên của họ, dù
họ chỉ tham gia một phần nhỏ màn trình diễn, để tôn trọng và bảo đảm quyền
nhân thân này cho họ. Nếu tên người biểu diễn được thể hiện bằng biểu tượng,
ký tự viết tắt hay bất kỳ dấu hiệu nhận biết nào khác thì cách thể hiện đó phải
được sử dụng trong giới thiệu tên người biểu diễn; trường hợp có lý do hợp lý
(như vấn đề kỹ thuật…) thì có thể thay thế bằng một dạng biểu hiện tương tự.
Cách thức giới thiệu như thế nào cũng cần được quan tâm. Tên người biểu
diễn phải được giới thiệu theo cách mà những người nghe, người xem cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có thể xác định được người
biểu diễn đó. Cách thức cụ thể có thể tùy theo sự thỏa thuận của người biểu diễn
với người đưa chương trình biểu diễn đến với công chúng. Trong buổi biểu diễn
trực tiếp thì nêu tên của họ trước, trong hoặc sau màn trình diễn; trong bản ghi
thì đề tên họ ở chỗ mà người xem có thể nhìn ra được.
Có một số ngoại lệ đối với quyền được giới thiệu tên của người biểu diễn.
Ví dụ như trong trường hợp phần biểu diễn của họ được thực hiện nhằm mục
đích quảng cáo hàng hóa, dịch vụ nào đó; hoặc một vài trích dẫn của cuộc biểu

11


diễn được sử dụng cho việc đưa tin, hay trong những nội dung sử dụng cho hoạt
động lập pháp, hay phục vụ quá trình tố tụng…
- Bảo vệ sự toàn vẹn của hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất cứ hình thức nào gây phượng hại đến
danh dự và uy tín của người biểu diễn.
Hình tượng biểu diễn là khái niệm trừu tượng và có một nội hàm khá rộng
được tạo nên bởi nhiều yếu tố khác nhau như phong cách biểu diễn, âm giọng,

thái độ, cử chỉ… Sự sáng tạo riêng, phong cách biểu diễn của mỗi người tạo nên
hình tượng biểu diễn và gắn liền với tên tuổi của họ. Vì vậy, người biểu diễn cần
được bảo hộ về hình tượng biểu diễn để tránh việc người khác lợi dụng hoặc
xuyên tạc. Mặt khác, danh dự, uy tín của người biểu diễn thường được thể hiện
trong toàn bộ cuộc biểu diễn với hàng loạt các động thái khác nhau theo trình tự
nhất định. Nếu bản định hình hoặc chương trình phát sóng cuộc biểu diễn cắt
xén hoặc thay đổi trình tự của các động thái đó sẽ gây ảnh hưởng đến uy tín,
danh dự của người biểu diễn.5
Các quyền nhân thân của người biểu diễn, tương tự như các quyền nhân
thân của tác giả (trừ quyền công bố tác phẩm), là những quyền không được
chuyển nhượng. Sự dịch chuyển các quyền này được đặt ra trong trường hợp
người biểu diễn chết. Khi đó, quyền nhân thân của người biểu diễn được trao
cho người thừa kế hợp pháp của người biểu diễn theo quy định pháp luật về thừa
kế.
2.3.2. Quyền tài sản
Khoản 3 Điều 29 quy định quyền tài sản bao gồm độc quyền thực hiện hoặc
cho phép người khác thực hiện các quyền sau đây:
- Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình.
Quyền này được hiểu là quyền được ghi âm, ghi hình trực tiếp các cuộc
biểu diễn. Với tư cách là quyền tài sản nên quyền này luôn thuộc về chủ sở hữu
5

5. Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2017, tr.81,82.

12


quyền liên quan đến cuộc biểu diễn. Theo đó, chủ sở hữu quyền liên quan có thể
tự mình thực hiện việc ghi âm, ghi hình, có thể thông qua người khác thực hiện

công việc này theo mục đính và lợi ích của mình hoặc có quyền cho hay không
cho phép người khác ghi âm, ghi hình trực tiếp cuộc biểu diễn đó.6
Cần lưu ý việc định hình ở đây phải là “trực tiếp”, có nghĩa phải là việc ghi,
thu, lưu, định lại âm thanh hoặc hình ảnh từ chính cuộc biểu diễn đang diễn ra
lên một vật mang chứa thông tin (máy ảnh, máy quay, điện thoại, máy tính,
USB,...) chứ không phải từ một bản ghi hay chương trình phát sóng nào khác.
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình trên bản ghi
âm, ghi hình.
Sao chép cuộc biểu diễn là việc tạo ra các bản sao ghi âm, ghi hình cuộc
biểu diễn. Theo khoản 1 và 2 Điều 29 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, được coi là
sao chép trực tiếp nếu bản sao ghi âm, ghi hình được tạo ra từ bản nhất định hình
lần đầu về âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn (còn gọi là băng gốc, đĩa gốc),
được coi là sao chép gián tiếp nếu bản sao ghi âm, ghi hình không được tạo ra từ
chính bản ghi âm, ghi hình gốc như việc sao chép từ chương trình phát sóng,
mạng thông tin điện tử, viễn thông và các hình thức tương tự khác.
- Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của
mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp
cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng.
Phát sóng là việc truyền âm thanh hoặc hình ảnh hoặc cả âm thanh và hình
ảnh của tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, bản ghi hình, chương trình phát
sóng đến công chúng bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao gồm cả
truyền qua vệ tinh để công chúng có thể tiếp nhận được tại địa điểm và thời gian
do chính họ lựa chọn. (Khoản 11 Điều 4 Luật SHTT)
Truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình
bằng bất kì phương tiện kĩ thuật nào ngoài phát sóng (khoản 3 Điều 29 Nghị
6

6. Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2017, tr.82.


13


định 22/2018/NĐ-CP). Luật SHTT đã xác định quyền phát sóng là quyền tài sản
luôn thuộc về chủ sở hữu quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, trừ trường hợp
cuộc biểu diễn được thực hiện với mục đích để phát sóng.
Nếu trong một cuộc biểu diễn trực tiếp của một ca sĩ mà cuộc biểu diễn
này không cho phép ghi âm, ghi hình tự do, một khán giả đã tự ý thu hình một
phần của màn trình diễn, thì đã xảy ra một hành vi xâm phạm quyền thứ nhất quyền định hình trực tiếp cuộc biểu diễn. Nếu đồng thời, bằng phương tiện kỹ
thuật cá nhân hiện đại, người này đưa phần ghi hình đó truyền trực tiếp trên
mạng Internet để người sử dụng Internet có thể tiếp cận một cách tự do, thì đây
là sự xâm phạm quyền thứ ba - phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công
chúng cuộc biểu diễn.
- Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình
thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kì phương tiện kĩ
thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
Quyền phân phối này được coi là bị xâm phạm khi một người đưa bản ghi
cuộc biểu diễn tiếp cận tới công chúng mà không được sự cho phép của người
biểu diễn hoặc người nắm giữ hợp pháp quyền này.
Ở đây, có một điểm tương đồng với quyền phát sóng hoặc truyền theo cách
khác đến công chúng, đó là việc bằng các phương tiện kỹ thuật để tạo ra khả
năng cho phép công chúng tiếp cận cuộc biểu diễn. Sự khác biệt giữa hai quyền
này là ở chỗ: cuộc biểu diễn đã được định hình hay chưa. Bởi việc phân phối
đến công chúng bản gốc hay bản sao cuộc biểu diễn không thể tiến hành nếu
chưa có sự định hình nó trên bản ghi. Trong khi đó, quyền phát sóng, truyền tới
công chúng cuộc biểu diễn áp dụng cho cuộc biểu diễn chưa được định hình
(mặc dù có thể tồn tại bản lưu ghi tạm thời cuộc biểu diễn như một phương tiện
kỹ thuật phục vụ việc phát sóng).7
Ngoài các quyền nhân thân, người biểu diễn còn được hưởng một khoản
tiền thù lao khi người khác sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm

7

7. Quyền của người biểu diễn theo quy định pháp luật hiện hành, />
14


mục đính thương mại để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo
hoặc thu tiền dưới bất cứ hình thức nào hoặc bản ghi âm ghi hình đã được công
bố trong hoạt động kinh doanh thương mại. Chỉ khi người biểu diễn, nhà đầu tư
thu được lợi ích tương xứng mới có thể khuyến khích họ tiếp tục đầu tư, sáng
tạo các sản phẩm trí tuệ nói chung, cũng như cuộc biểu diễn có giá trị xã hội và
nghệ thuật nói riêng. Việc hưởng tiền thù lao của người biểu diễn trong trường
hợp này tùy thuộc vào thỏa thuận giữa người biểu diễn và người sản xuất bản
ghi âm, ghi hình khi thực hiện chương trinh ghi âm, ghi hình.
Đồng thời, trong những trường hợp luật định, tổ chức cá nhân được phép
khai thác, sử dụng bản ghi cuộc biểu diễn mà không phải xin phép, không phải
trả tiền nhuận bút, thù lao (Điều 32 Luật SHTT) hoặc không phải xin phép
nhưng vẫn phải trả thù lao cho chủ sở hữu quyền của người biểu diễn (Điều 33
Luật SHTT)
Ngoài ra với tư cách là người sử dụng tác phẩm của người khác, người biểu
diễn phải có nghĩa vụ nhất định đối với tác giả của tác phẩm mà họ biểu diễn,
bao gồm:
+) Phải xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm trước khi sử dụng tác
phẩm của họ để trình diễn, chỉ được biểu diễn khi có sự đồng ý của tác giả hoặc
chủ sở hữu tác phẩm nếu tác phẩm đó chưa công bố.
+) Phải trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm trừ trường hợp
biểu diễn các tác phẩm sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong
các buổi sinh hoạt văn hóa tuyên truyền cổ động ở nơi công cộng.
2.4. Thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn
Để đảm bảo cho công chúng được quyền tiếp cận với các tác phẩm văn học,

nghệ thuật và khoa học có giá trị, mà trực tiếp là các cuộc biểu diễn, nhằm đạt
được mục đích tối cao của Luật SHTT là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, cũng như các loại hình quyền khác, quyền tài sản của người biểu
diễn được bảo hộ có thời hạn. Thời hạn bảo hộ quyền tài sản của người biểu diễn
là năm mươi năm, chính xác là đến 24 giờ ngày 31 tháng 12 năm thứ năm mươi,
15


tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình (theo khoản 1 và 4
Điều 34 Luật SHTT). Đây là thời hạn bảo hộ phù hợp với các quy định của các
công ước, hiệp định quốc tế.
3. Thực trạng việc bảo hộ quyền của người biểu diễn và định hướng
hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của người biểu diễn
3.1. Thực trạng việc bảo hộ quyền của người biểu diễn
Với sự phát triển của nền kinh tế như ngày nay thì sự ra đời của các cuộc
biểu diễn và sự xuất hiện của nhiều thể loại người biểu diễn ngày càng nhiều để
phục vụ nhu cầu giải trí của con người. Trong thời đại công nghệ số phát triển
như vũ bão, việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan nói chung và quyền của
người biểu diễn nói riêng đang là một thách thức rất lớn đối với các cơ quan
chức năng. Thực tế, việc xâm phạm các quyền của người biểu diễn đối với cuộc
biểu diễn xảy ra rất nhiều với nhiều hình thức khác nhau.
Có thể lấy một ví dụ gần đây đó là việc livestream phim “Cô Ba Sài Gòn”
được chiếu tại một rạp chiếu phim ở Vũng Tàu. Một khán giả khi đang xem trực
tiếp bộ phim này đã tự ý thu hình và tiếng của bộ phim vào máy điện thoại của
mình. Đồng thời, người này đã đưa phần ghi hình đó truyền trực tiếp trên mạng
Internet để người sử dụng Internet có thể xem một cách tự do bộ phim mà không
hề mất một khoản phí nào. Đây là hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu độc
quyền hoặc cho phép người khác phân phối cuộc biểu diễn đến công chúng.
Quyền của người biểu diễn là loại hình quyền được luật pháp của hầu hết
các quốc gia, trong đó có Luật SHTT Việt Nam công nhận và bảo hộ. Tuy nhiên,

tại Việt Nam, do tính chất phức tạp của loại hình quyền này, cũng như do nhận
thức của các chủ thể có liên quan còn hạn chế nên công tác bảo hộ quyền của
người biểu diễn gặp nhiều khó khăn.
Luật SHTT Việt Nam hiện hành cũng như các Điều ước quốc tế, có quy
định về nghĩa vụ cũng như quyền lợi của người biểu diễn nhưng trên thực tế, các
nghệ sĩ biểu diễn lẫn các cơ quan chức năng vẫn chưa thật sự quan tâm đến vấn
đề này. Khi một bản ghi âm, ghi hình được khai thác, cả ba đối tượng gồm nhạc
16


sĩ, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và người biểu diễn đều được hưởng lợi ích
trong việc cùng góp phần hình thành nên bản ghi âm, ghi hình đó. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, không phải ca sĩ, diễn viên nào cũng am hiểu pháp luật quyền liên
quan đến mình. Chính vì vậy mà việc tổ chức sử dụng lại các tác phẩm ghi âm –
ghi hình với mục đích thương mại như: làm nhạc chuông, nhạc chờ, sử dụng
trong các siêu thị, vũ trường, karaoke… lâu nay vẫn là sử dụng mà không trả thù
lao cho người biểu diễn, và rất khó để buộc những người sử dụng thứ cấp này
thanh toán khoản thù lao này. Việc thu phí hiện nay phần lớn chỉ dừng lại ở việc
trả thù lao cho tác giả, còn giải quyết các quyền lợi liên quan – trong đó có
quyền của người biểu diễn – thì vẫn chưa được thực hiện. Nghệ sĩ nhân dân
Đàm Liên cho biết, bà đã diễn khoảng 2.000 buổi trích đoạn tuồng “Ông già
cõng vợ đi xem hội”, trong đó có nhiều buổi diễn được thu âm, ghi hình và được
phát nhiều lần trên sóng của đài truyền hình, đài phát thanh nhưng chưa bao giờ
bà nhận được một khoản thù lao từ việc phát sóng những trích đoạn đó. Trong số
đối tượng là người biểu diễn, ca sĩ có nhiều hy vọng đòi quyền lợi hơn cả. Còn
những diễn viên điện ảnh, diễn viên sân khấu… thì khó đòi được quyền lợi hơn.
8

Với tốc độ tăng lên một cách chóng mặt về số người sử dụng Internet như
trên, hiện nay, đang có rất nhiều trang web, blog cá nhân, diễn đàn thực hiện

việc sử dụng, sao chép và phát tán các sản phẩm trí tuệ khác nhau trên mạng
Internet mà không thực hiện việc trả bản quyền. Đặc biệt là vấn đề nhạc số trên
mạng Internet với khoảng 80% đến 90% bản ghi lưu hành trên các website đều
không hề xin phép. Các trang nhạc số hoạt động dựa trên thu phí đăng quảng cáo
của các doanh nghiệp khác và đó là thực tiễn kinh doanh của thị trường âm nhạc
Việt Nam. Các trang nhạc này sẽ phải trả một mức phí cho cả tác giả, người biểu
diễn và các chủ sở hữu quyền liên quan khác. Tuy nhiên, vẫn có nhiều trang
nhạc số không thực hiện quy định này và thực hiện cho phép download hàng
8

8. Đỗ Thị Quỳnh Trang - Khoa Luật Kinh tế, Đại học Luật Huế, Bảo vệ quyền của người biểu diễn ở Việt Nam,
/>menu=contents&gro_key=mem&me1_id=66&me1_key=NCT&me1_style=link&act=view&me2_id=0&me3_id
=0&con_id=1586

17


nghìn tác phẩm âm nhạc bất hợp pháp miễn phí, gây tổn thất vô cùng lớn cho
ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam khi mà lượng người nghe, sử dụng các tác
phẩm âm nhạc trên các trang mạng là rất lớn. Trên các hệ thống chia sẻ dữ liệu
trực tuyến, người sử dụng Internet hiện nay đang thoải mái chia sẻ, tải
(download) nhạc, phim ảnh,… và thực hiện các hoạt động khác xâm phạm
quyền tác giả, quyền liên quan nói chung và quyền của người biểu diễn nói
riêng, mà chỉ một số ít trong số họ nhận thức được đầy đủ về hành vi của mình.
Điều này cho thấy một thực trạng đáng báo động về các sự xâm phạm quyền của
người biểu diễn. 9
3.2. Định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của người
biểu diễn
Việt Nam sau nhiều năm nỗ lực chống xâm phạm quyền của người biểu
diễn cũng đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, từ tình hình xâm

phạm quyền vẫn diễn ra hiện nay và thực trạng xử lý xâm phạm đã phân tích ở
trên cho thấy, vẫn còn rất nhiều việc chúng ta phải làm trong tương lai. Để đáp
ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người biểu diễn, ngoài sự nỗ lực của Chính phủ cần có sự nỗ lực của tất cả các
cơ quan ban ngành liên quan. Từ thực tế trên, một số kinh nghiệm được rút ra
cho Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Một là, hoàn thiện khung pháp lý bảo hộ quyền của người biểu diễn. Hoàn
thiện khung pháp lý đối với vấn đề xâm phạm quyền của người biểu diễn, đặc
biệt là đối với sự xâm phạm qua Internet đang ngày càng phổ biến và phức tạp,
cho phù hợp với thông lệ, điều ước quốc tế và phù hợp với tình hình thực tiễn
trong nước.
Hai là, tăng cường biện pháp tự bảo vệ các cuộc biểu diễn. Người biểu diễn
cần có biện pháp tự bảo vệ hiệu quả cuộc biểu diễn của mình. Cần xác định rõ
rằng bản chất của quyền sở hữu trí tuệ là quyền dân sự. Vì vậy, cũng giống như
tài sản vật chất, việc bảo vệ tài sản trí tuệ trước tiên là thuộc trách nhiệm mỗi cá
9

9. Đỗ Thị Quỳnh Trang - Khoa Luật Kinh tế, Đại học Luật Huế, Bảo vệ quyền của người biểu diễn ở Việt Nam,
/>menu=contents&gro_key=mem&me1_id=66&me1_key=NCT&me1_style=link&act=view&me2_id=0&me3_id
=0&con_id=1586

18


nhân, tổ chức sở hữu bản quyền – trong đó có người biểu diễn. Người biểu diễn
có quyền tự bảo vệ theo Điều 198 Luật SHTT, vì thế chính họ là chủ thể trước
hết nên thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Ba là, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền về quyền của người biểu
diễn. Tăng cường công tác giáo dục, đưa nội dung giáo dục vào trong nhà
trường, tổ chức hoặc đến các hộ dân cư bằng cách tổ chức các cuộc thi tìm hiểu

pháp luật, truyền thông qua phương tiện truyền thông đại chúng…
Bốn là, nâng cao hiệu quả thực thi quyền của người biểu diễn. Để làm được
điều này, các cơ quan tham gia bảo vệ quyền của người biểu diễn chống lại xâm
phạm quyền cần nâng cao vai trò của mình như tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, phối hợp cùng nhau và đặc biệt là phối hợp cùng người biểu diễn thông
qua các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện và xử lý xâm phạm nhanh chóng, đúng
luật.

KẾT LUẬN
Cũng như tác giả sáng tạo ra tác phẩm, người biểu diễn là người đã góp
phần không nhỏ tạo nên các cuộc biểu diễn và từ đó, đưa tác phẩm đến với công
chúng một cách hoàn thiện nhất, chính vì vậy mà người biểu diễn xứng đáng
được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Để quyền của người biểu
19


diễn được bảo hộ một cách tốt nhất, cần phải áp dụng nhiều biện pháp khác nhau
đồng thời để mang lại hiệu quả tốt nhất, trong đó các quy định của pháp luật cần
được bổ sung hoàn thiện hơn.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Công ước Rome năm 1961
2. Hiệp định WPPT năm 1996
3. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009
4. Nghị định 22/2018/NĐ-CP
5. Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2017
20



6. Hoàng

Hoa,

Quyền

của

người

biểu

diễn,

theo

trang

web

/>option=com_content&view=article&id=872&catid=51&Itemid=107
7. Kiều Thị Thanh, Sách chuyên khảo “Hội nhập quốc tế về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị-Hành chính, Hà Nội, 2013,
tr.124.
8. Quyền của người biểu diễn theo quy định pháp luật hiện hành,
/>9. Đỗ Thị Quỳnh Trang - Khoa Luật Kinh tế, Đại học Luật Huế, Bảo vệ
quyền

của


người

biểu

diễn



Việt

Nam,

/>menu=contents&gro_key=mem&me1_id=66&me1_key=NCT&me1_style
=link&act=view&me2_id=0&me3_id=0&con_id=1586

21



×