Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số trò chơi gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 4 ở môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.38 KB, 20 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp
thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai
đoạn hiện nay.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt các môn học đặc biệt là môn Tiếng Việt
thì mỗi người giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã
có sẵn trong Sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một
cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ
dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và
kết quả học tập sẽ không cao. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở
việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng
thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học
ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh. Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng
cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học tập là
một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Các trò chơi có nội dung học tập lý
thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông qua các trò chơi
các em sẽ lĩnh hội những tri thức một cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức
một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập, trong
việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi một cách thường xuyên, khoa
học thì chắc chắn chất lượng dạy học sẽ ngày một nâng cao. Chính vì những lý
do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số trò chơi gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 4 ở môn Tiếng Việt ”.
* Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
- Tổ chức một số trò chơi môn Tiếng Việt lớp 4 nhằm gây hứng thú học
tập cho học sinh
- Đối tượng: Học sinh lớp 4.
* Mục đích của việc nghiên cứu:
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học theo
1




hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường
hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Góp phần gây hứng thú học tập môn tiếng Việt cho học sinh, một môn
học được coi là khó hiểu, dễ gây chán nản trong học sinh thì việc đưa ra các trò
chơi nhằm mục đích để các em học mà chơi, chơi mà học. Trò chơi học tập
không những chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em củng cố
và khắc sâu các tri thức đó.
- Tạo cho các em có cơ hội phát huy trí tuệ, óc phân tích, tư duy sáng tạo.
- Tạo cho các em có môi trường giao tiếp thân thiện, rèn được cả 4 kĩ
năng ( nghe, nói , đọc, viết). Tạo cho các em biết cách phối hợp với bạn bè trong
học tập. Ghi nhớ bài học bằng nhiều hình thức, chống học vẹt, không gây sự
nhàm chán, căng thẳng trong học tập. Khi thực hiện trò chơi còn nhằm củng cố
kiến thức đã học cho chọc sinh. Học sinh hiểu và tiếp thu bài nhanh, các trò chơi
được đưa vào tiết học đều mang tính giáo dục cao. Trong sáng kiến này còn một
điểm nhấn mạnh là giáo viên không nên lạm dụng trời gian trong khi sử dụng trò
chơi trong học tập, phải biết cách phối hợp hài hoà trong việc phân bố thời gian
của tiết dạy khi đưa trò chơi vào thực hiện trong tiết dạy đó.

2


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho
việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn tiếng Việt cũng như
những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận
thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư
duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.

Môn tiếng Việt ở trường Tiểu học là một môn học có nhiều phân môn
nhỏ: phân môn Luyện từ và câu, Tập làm văn, Tập đọc, Chính tả, các phân môn
này chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học .Đây là môn học có khả
năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện về ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, hay
những lời văn trong sáng khi viết văn…. Mỗi phân môn đều bắt trẻ phải tư duy,
thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách
tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.
- Ở lứa tuổi Tiểu học, cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói
cụ thể là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn
thấp nên trẻ không thể làm lâu một việc đơn điệu, dễ mệt và mất tập chung.
- Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay khi
chúng không tập trung cao độ. Vì vậy, người giáo viên phải tạo ra hứng thú
trong học tập và phải cho các em thường xuyên được luyện tập. Học sinh Tiểu
học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện tượng nào đó nhất là
những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
- Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các
em chóng chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy
học, đưa học sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò
chơi xen kẽ ... để củng cố khắc sâu kiến thức
Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính quá
trình hoạt động, trong bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi. Trò chơi
là loại phổ biến của hoạt động vui chơi là chơi theo luật, luật của trò chơi chính
là các quy tắc định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu của hành động trò chơi, luật
của trò chơi có thể tường minh có thể không. Trò chơi học tập là trò chơi mà luật
3


của nó bao gồm các quy tắc gắn với kiến thức kỹ năng có được trong hoạt động
học tập, gắn với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của
bản thân để chơi, thông qua chơi học sinh được vận dụng các kiến thức kỹ năng

đã học vào các tình huống của trò chơi và do đó học sinh được thực hành luyện
tập củng cố mở rộng kiến thức kỹ năng đã học. Như vậy trong trò chơi học tập
các kỹ năng môn tiếng Việt được đưa vào trò chơi.
Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học, có thể nói nó
quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống các em. Chính vì vậy các em
luôn tìm mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Được chơi
các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu lộ tình
cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi và buồn bã khi thất bại.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của HS, giúp HS tiếp
thu kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến
thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ,
nhờ sử dụng Trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui
và hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.
Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục.
Học sinh Tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén, có óc tưởng tượng
phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy nhưng rất dễ bị phân tán,
rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Chính vì thế nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt làm thế nào cho phù
hợp với tâm sinh lý lứa tuổi là điều không thể xem nhẹ. Đặc biệt đối với học
sinh lớp 4, lớp mà các em vừa mới làm quen với những kiến thức mới mẻ
chuyển từ hoạt động vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là chủ đạo.
Muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới
phương pháp dạy học với mục tiêu: Lấy học sinh làm trung tâm hướng tập
trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Để đạt được hiệu quả thì
người giáo viên là người định hướng, tổ chức ra những tình huống học tập nó
kích thích óc tò mò và tư duy độc lập. Muốn các em học được thì trước hết giáo
4



viên phải nắm chắc nội dung của mỗi bài và lựa chọn, vận dụng các phương
pháp sao cho phù hợp, bài nào thì sử dụng các phương pháp trực quan, thuyết
trình, trò chơi ... hoặc bài nào thì sử dụng phương pháp giảng giải, kiểm tra, thực
hành ... nhưng phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học.
Học sinh Tiểu học không thể ngồi quá lâu trong giờ học cũng như làm
một việc gì nhiều vì thề giáo viên có thể thay đổi hoạt động học của các em
trong giờ học; cho các em thảo luận, làm bài tập hoặc thông qua trò chơi. Có
như vậy mới gây được hứng thú học tập và khắc sâu được bài học.
1. Thực trạng của vấn đề:
Trong nhiều năm qua, tôi rất may mắn được ban giám hiệu phân công
giảng dạy ở lớp 4 , được dự giờ của đồng nghiệp rất nhiều. Tôi nhận thấy
trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt có một số ưu – nhược điểm như sau:
* Ưu điểm:
- Việc vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của HS được
GV thực hiện một các linh hoạt, nhạy bén.
- Việc ứng dụng các trò chơi học tập trong giảng dạy mang hiệu quả cao.
-Việc sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy được thể hiện một cách khéo
léo và linh hoạt.
* Tồn tại:
Với giáo viên:
- Giáo viên còn quen lối thuyết giảng (nói nhiều)
- Khi lên kế hoạch bài dạy chưa chọn lọc kĩ trò chơi khi vận dụng.
- Còn ngại khó trong việc sáng tạo các đồ dùng học tập
Với học sinh:
- Một số học sinh còn thụ động, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt
động học tập.
- Hầu như học sinh không hứng thú khi học môn Tiếng Việt.
* Nguyên nhân:
Với giáo viên:
- Do giáo viên đôi khi chưa chủ động trong việc lên kế hoạch chi tiết cho

5


bài dạy của mình.
- Tâm lí sợ không đủ thời gian khi đưa các trò chơi vào tiết học.
- Kĩ năng quản lí HS trong giờ học có các hoạt động trò chơi còn hạn chế.
- Việc chuẩn bị trò chơi cho tiết dạy mất nhiều thời gian hơn.
Với học sinh:
Tiên Cát là một phường trung tâm của thành phố, nơi mà mọi gia đình
đều bận rộn với công việc kinh doanh, sản xuất, tăng ca tăng kíp vì cuộc sống
mưu sinh. Do đó các em ở độ tuổi bậc tiểu học phần nào cũng chịu ảnh hưởng từ
gia đình nhất là khi những bậc phụ huynh luôn phải tất bật với công việc của
mình , các em đến trường được tin tưởng giao cho các thầy , cô giáo còn về nhà
thì lại được nhắc nhở ở trong nhà, tránh gây phiền nhiễu hàng xóm. Các em ít có
chỗ chơi, tham gia các hoạt động giải trí hoặc nếu có thì việc bố trí thời gian để
đưa các em đi chơi của các bậc phụ huynh cũng rất hạn hẹp; bên cạnh đó là tâm
lí không coi trọng đúng vị trí của môn Tiếng Việt trong giáo dục con em mình
của nhiều phụ huynh đã làm cho HS chỉ thích học môn Toán mà không thích
thậm chí là ghét học Tiếng Việt… . Tất cả các yếu tố đó tác động đến khả năng
quan sát, tiếp nhận thông tin và thái độ đối với môn Tiếng Việt của học sinh .
Trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ, mình cần phải thay đổi một cách thức
dạy học mới sao cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ động hơn khi
học tiếng Việt. Qua đó, những kĩ năng giao tiếp ở các em sẽ ngày càng hoàn
thiện và phát triển. Vì vậy, vận dụng trò chơi học tập trong môn tiếng Việt là hết
sức cần thiết.
Trước khi thực hiện đưa các trò chơi vào dạy học trong môn Tiếng Việt tôi
có khảo sát học sinh trong phân môn Luyện từ và câu của môn Tiếng Việt lớp 4
bài “Từ ghép và từ láy “ tại lớp 4B, vào tháng 9, năm học 2014 – 2015 và thu
được kết quả như sau:
 Kết quả khảo sát

Kết quả khảo sát
Tổng số HS

40

HS đạt chuẩn
29

6

HS chưa đạt chuẩn
11


2 . Các biện pháp giải quyết vấn đề
a. Đối với giáo viên:
- GV cần phải nghiên cứu kĩ mục tiêu của bài dạy vì nó quyết định việc
chọn trò chơi phù hợp.
- GV cần nắm được khả năng của từng học sinh để việc phân nhóm chơi
hợp lí. Nói chung, cần lựa chọn hình thức nào lôi cuốn được đông đảo HS tham
gia nhất.
- GV phải hoạch định được việc sử dụng những phương tiện nào để nâng
cao hiệu quả của trò chơi như: Phương tiện theo nội dung trò chơi quy định;
phương tiện phục vụ cho việc đánh giá; phương tiện vật chất là phần thưởng cho
đội thắng cuộc; …
- Xác định được mục tiêu của trò chơi học tập là cung cấp kiến thức và
rèn kĩ năng gì.
Ngoài ra, khi tổ chức các trò chơi học tập cho HS, GV cũng cần lưu ý đến
điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, thời gian khi chơi và sức khỏe của học
sinh.

b. Đối với học sinh:
Trò chơi học tập Tiếng Việt kích thích hứng thú nhận thức.
Trò chơi học tập bên cạnh chức năng giải trí còn giúp học sinh tự củng cố
kiến thức, kĩ năng, thói quen học tập một cách hứng thú, thói quen làm việc theo
nhiều hình thức (cá nhân, nhóm, lớp). Các tiết học có trò chơi sẽ thu hút mức độ
tập trung của học sinh mà không một phương pháp nào sánh được.
Trò chơi học tập Tiếng Việt là một trong những phương tiện hình thành
các năng lực trí tuệ.
Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định của
quá trình tâm lí. Trong trò chơi, ở trẻ bắt đầu hình thành sự chú ý có chủ định và
ghi nhớ có chủ định. Khi chơi trẻ tập trung chú ý hơn và ghi nhớ được nhiều
hơn. Bởi vì bản thân trò chơi đòi hỏi trẻ phải tập trung vào những dữ kiện và đối
tượng được đưa vào tình huống của trò chơi cũng như nội dung của trò chơi.
7


Trò chơi học tập Tiếng Việt ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển ngôn
ngữ và trí tưởng tượng.
Vui chơi ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của học sinh nói
chung và của học sinh Tiểu học nói riêng. Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi đứa
trẻ tham gia vào trò chơi phải có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất
định
Trò chơi học tập tiếng Việt thực hiện chức năng hoạt động luyện tập thực
hành.
Các em được hình thành những kĩ năng phân biệt được bản chất trong các
kiến thức tiếng Việt ở mỗi trò chơi, hiểu được sâu sắc và đầy đủ hơn các tri thức
đã học. Với các trò chơi Thi viết câu gồm các chữ giống nhau ở chữ cái đầu, Thi
đặt câu theo mẫu, Thi tìm từ ghép có cùng một tiếng… các em hiểu rõ hơn về
cấu tạo của từ, của câu tiếng Việt, góp phần hình thành và rèn luyện kĩ năng đặt
câu, viết đoạn văn.

Trò chơi học tập Tiếng Việt giúp hình thành đức tính trung thực, có kỉ
luật, tính độc lập, tự chủ, có ý thức cao.
Khi tham gia trò chơi, học sinh phải tuân thủ theo những quy tắc nhất
định (đã được nêu trước trò chơi). Việc các em tiếp nhận và tuân theo những quy
tắc đó giúp các em có khả năng tự kiềm tra và kiểm tra lẫn nhau trong trò chơi.
Khi tham gia vào trò chơi, nhập vai quan hệ với các bạn cùng chơi buộc các em
phải đem những hành động của mình phục tùng những yêu cầu nhất định bắt
nguồn từ ý đồ chung của trò chơi.
MỘT SỐ TRÒ CHƠI MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4
1. Tổ chức trò chơi trong môn tiếng Việt nói chung và các phân môn
của môn Tiếng Việt nói riêng :
Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức
và thiết kế trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
a. Thiết kế trò chơi trong môn tiếng Việt:
* Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn tiếng Việt nói chung và các phân
8


môn trong môn tiếng Việt nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều
kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp. Song
muốn tổ chức được trò chơi trong dạy tiếng Việt có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi
giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo
các yêu cầu sau:
+ Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục. Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố
khắc sâu nội dung bài học. Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lý học sinh lớp
4, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
+ Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú. Trò chơi phải được
chuẩn bị chu đáo. Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh
* Cấu trúc của Trò chơi học tập:
+ Tên trò chơi

+ Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức,
kỹ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết kế trong trò
chơi.
+ Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong Trò chơi
học tập.
+ Nêu lên luật chơi: chỉ rõ qui tắc của hành động chơi quy định đối với
người chơi, quy định thắng thua của trò chơi.
+ Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.
+ Nêu lên cách chơi.
b. Cách tổ chức trò chơi:
Thời gian tiến hành : thường từ 5 - 7 phút
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi:
+ Nêu tên trò chơi
+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ luật chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi
- Chơi thật
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu
thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
9


- Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp
nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học
sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui
(như chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò ....)
2. Giới thiệu một số trò chơi trong môn tiếng Việt lớp 4
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng
trong quá trình dạy học cho học sinh lớp 4 trong những năm gần đây.
+ Ví dụ: Phân môn luyện từ và câu bài Mở rộng vốn từ: Nhân hậu - Đoàn
kết SGK TV4/T17.

* Trò chơi chung sức.
- Mục tiêu: HS hiểu nghĩa từ và xếp các từ trong tập hợp sau thành hai nhóm :
một nhóm gồm các từ tiếng nhân có nghĩa là người, một nhóm gồm các từ
tiếng nhân có nghĩa là lòng thương người.
- Chuẩn bị: Giấy khổ A3, bút
- Tiến hành:Ta có thể có các hình thức tổ chức chơi như sau:
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên, từng
nhóm bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đã thống
nhất thì ghi kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên bảng lớp.
Giáo viên sẽ tính điểm các nhóm theo hai chuẩn: Chuẩn chính xác và chuẩn
nhanh nhẹn.
* Trò chơi ‘’Chọn ô số ‘’
Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài: Luyện tập tả con
vật, TV 4, tập 2, trang 120.
- Mục tiêu : Giúp học sinh:
Phát triển vốn từ ngữ miêu tả con vật, đặc biệt là các từ miêu tả về hoạt
động thường xuyên của con vật. Phát triển kĩ năng trình bày của học sinh.
- Chuẩn bị:
Một bộ ảnh chụp con vật ở các tư thế hoạt động khác nhau có đánh số từ 1
đến hết số ảnh chuẩn bị được.
Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau:
10


1

2

3


4

5

6

7

8

9

- Tiến hành: GV gọi một HS lên bảng tham gia trò chơi ( khuyến khích học
sinh xung phong ). HS được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó
giáo viên ( hoặc cử một học sinh khác) dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng,
người chơi có nhiệm vụ miêu tả về hoạt động của con vật trong ảnh (từ 2-3 câu).
Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi (số lượng phụ
thuộc vào thời gian dành cho trò chơi).
Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu tả
hay nhất. Học sinh nào có số phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng cuộc.
* Lưu ý: Giáo viên có thể thay đổi hình thức chơi bằng cách chia số học sinh
trong lớp thành 3 dãy thi đua với nhau.
* Trò chơi ‘’Đếm số cánh hoa ‘’
Trò chơi được vận dụng để củng cố kiến thức của bài chính tả ở sách
Tiếng Việt 4, tập 1 , trang 56.
Bài tập 3: Thi tìm nhanh từ láy:
Các từ láy có tiếng chứa âm s. Các từ láy có tiếng chứa âm x.
- Mục tiêu: Giúp học sinh tìm được những từ ngữ có tiếng chứa âm s và x.
Nhằm để khắc phục lỗi chính tả s/x ở học sinh.
- Chuẩn bị: Nhiều miếng bìa cắt theo hình cánh hoa ( hình 1a ). Vẽ trực tiếp

lên một tờ giấy to 2 vòng tròn làm hai nhị hoa.
Trong mỗi nhị hoa ghi: các từ láy âm S; các từ láy có âm X.( hình 1b )
Các từ láy
âm đầu l

Hình 1a : Cánh hoa

Các từ láy
vần có âm
x

Hình 1b : Nhị hoa
11


Tiến hành:
Giáo viên chia học sinh thành nhiều nhóm chơi tùy theo số bộ nhị hoa và
cánh hoa chuẩn bị được. Khi trò chơi bắt đầu, các nhóm chơi có nhiệm vụ ghi từ
theo yêu cầu vào các cánh hoa ( mỗi cánh hoa chỉ ghi một từ ) rồi dán vào nhị
hoa cho phù hợp. Sau 5-7 phút, giáo viên hô: " Dừng chơi !" Nhóm nào dán
được nhiều cánh hoa đúng và đẹp sẽ thắng cuộc
Lưu ý:
Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn luyện từ và câu ở các bài:
danh từ chung và danh từ riêng Tiếng Việt 4 tập 1 trang 57……chỉ cần thay đổi
yêu cầu ghi trên nhị hoa. Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy của
học sinh:
* Trò chơi Nhìn tranh, kể đoạn
Trò chơi thực hiện trong phân môn Kể chuyện sách tiếng Việt lớp 4 bài
"Sự tích hồ Ba Bể" Tiếng Việt 4 tập 1 trang 8
Mục đích:

Rèn kĩ năng kể đúng nội dung từng đoạn của câu chuyện dựa vào tranh
vẽ, gợi ý trong SGK hoặc tranh có sẵn của bộ đồ dùng dạy học.
Luyện trí nhớ trau dồi năng lực diễn cảm mạch lạc đủ ý chính trong câu
chuyện mình định kể.
Chuẩn bị: Có bộ tranh kể chuyện, ghi rõ tranh 1,2,3,4;
4 học sinh làm ban giám khảo và 1 thư kí;
Có tiêu chuẩn cho điểm chi tiết;
Có bảng điểm chi tiết sẵn
Tranh

Tên

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Xếp

số
HS
GK1
GK2
GK3
GK4

TB
loại
1
2...
Mỗi giám khảo có một bộ thẻ điểm từ điểm 5,6,7,8,9,10 được làm bằng
bìa cứng (kích thước 10cm x 20 cm).
Cách tiến hành:
12


Giáo viên tổ chức cho học sinh thi kể từng đoạn theo tranh của câu
chuyện mà giao viên đưa ra (4 học sinh thi kể) BGK cho điểm từng người thi kể,
thư kí ghi chép điểm của từng người kể.
Kết thức cuộc thi thư kí tính điểm trung bình của từng học sinh tham gia
thi và xếp hạng nhất, nhì theo từng tranh và đánh giá cả 4 tranh của câu chuyện.
* Lưu ý: Tuỳ điều kiện thời gian và hoàn cảnh cho phép mà giáo viên có thể
cho thi kể theo từng tranh hoặc cả một câu chuyện.
* Trò chơi: Nghe đọc đoạn đoán tên bài
Mục đích:
Rèn kĩ năng đọc đúng, rõ ràng một đoạn văn trong bài đã học (tập đọc lớp
4 tập 1)
Luyện kĩ năng nghe hiểu và nhớ tên các bài tập đọc đã học.
Chuẩn bị:
Yêu cầu học sinh ôn lại các bài tập đọc đã học ở Tiếng Việt lớp 4 tập 1
nhằm phục vụ cho các tiết ôn tập ở giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì II,
cuối học kì II.
Ôn tập giữa học kì I: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu, Thư thăm bạn, Người ăn
xin, Một người chính trực, Một nhà thơ chân chính, Những hạt thóc giống, Nỗi
rằn vặt của An-đrây-ca, Chị em tôi, Trung thu độc lập, Ở vương quốc tương lai,
Đôi giày ba ta màu xanh, Thưa chuyện với mẹ, Điều ước của vua Mi-đát.

Cách tiến hành:
Giáo viên nêu yêu cầu chơi:
- 2 nhóm tham gia chơi, ngồi đối diện nhau, cử nhóm trưởng điều hành
chung cả nhóm, bốc thăm để chọn nhóm đọc trước.
- Nhóm bốc được chọn đọc trước được mở sách giáo khoa để chọn đoạn
đọc (trong một số bài tập đọc đã nêu ra), nhóm còn lại nghe để đoán tên bài tập
đọc đã học. sau khi đã đoán xong thì nhóm 2 lại thực hiện đọc đoạn văn đã chọn
và nhóm 1 lại đoán tên bài tập đọc đã học, mỗi nhóm được thực hiện 3 lần đoán
tên bài và đọc.

13


- 2 nhóm tham gia chơi đều được tính điểm để so sánh khi trò chơi kết
thúc, giáo viên sẽ chọn nhóm nào được nhiều điểm hơn nhóm đó sẽ thắng cuộc
* Lưu ý khi đoán tên bài cả hai nhóm đều không được mở SGK, nhóm 2
có thể lấy nội dung của bài tập đọc mà nhóm 1đọc nhưng cần chọn đoạn văn
khác trong bài, đoạn văn nên ngắn gọn không quá dài.
Ví dụ:
Đọc đoạn văn
Nhóm 1:

Đoán tên bài
Nhóm 2:

Chị Nhà Trò đã bé nhỏ lại gầy yếu quá, người bự những
phấn như mới lột. Chị mặc áo thân dài, đôi chỗ chấm điểm

Dế Mèn bênh


vàng, hai cánh mỏng như cánh bướm non, lại ngắn chùn

vực kẻ yếu

chùn.
Nhóm 2:

Nhóm 1:

Hồng ơi!
Mình hiểu Hồng đau đớn và thiệt thòi như thế nào khi ba Thư thăm bạn
Hồng đã ra đi mẫi mãi.
Nhóm 1:

Nhóm 2:

Tôi lục tìm hết túi nọ túi kia, không có tiền, không có đồng
hồ không có cả một chiếc khăn tay. Trên người tôi chẳng có

Người ăn xin

tài sản gì.
Người ăn xin vẫn đợi tôi. Tay vẫn chìa ra, run lẩy bẩy.
Nhóm 2:

Nhóm 1:

Phò tá Cao Tông được 4 năm, Tô Hiến Thành lâm bệnh
nặng. Quan tham trí chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm


Một người

hầu hạ bên giường bệnh. Còn giám nghị đại phu Trần Trung

chính trực

Tá do bện nhiều công việc nên không mấy khi đến thăm Tô
Hiến Thành được.
Nhóm 1:

Nhóm 2:

Có chú bé mồ côi tên là Chôm nhận thóc về, dốc công chăm
sóc mà không nảy mầm.

Những hạt

Đến vụ thu hoạch, mọi người nô nức chở thóc về kinh thành

thóc giống

nộp cho nhà vua. Chôm lo lắng đến trước vua, quỳ tâu:
14


Tâu bệ hạ! Con không làm sao cho thóc nảy mầm được.
Nhóm 2:

Nhóm 1:


Cho đến một hôm, vừa yên vị trong rạp chiếu bóng, tôi chợt
thấy em gái mình lướt qua cùng một đứa bạn. Từ ngạc

Chị em tôi

nhiên, tôi chuyển sang giận dữ và mặc lời năn nỉ của bạn,
tôi bỏ về.
* Trò chơi : Ghép các dòng thơ thành bài
Trong phân môn tập đọc lớp 4 có những trò chơi mang tính khích lệ các
em có hứng thú trong học tập như một số trò c hơi sau:
Mục đích:
Rèn kĩ năng đọc nhanh và thuộc các bài thơ đã học tro SGK lớp 4;
Luyện tác phong nhanh nhẹn, khéo léo trong việc ghép các băng giấy ghi
các câu thơ sao cho đúng các bài thơ đã học.
Chuẩn bị:
- Làm các bộ băng giấy (hoặc bìa cứng) ghi đầu bài và từng dòng thơ
trong bài thơ học thuộc lòng theo TV lớp 4.
- Chia lớp thành 2,3 nhóm tuỳ theo số lượng học sinh trong lớp để học
sinh tham gia cuộc thi có một bộ băng giấy ghi sẵc các dòng thơ của bài thơ "Mẹ
ốm" mỗi dòng thơ là một băng giấy nhỏ.
Mọi khi mẹ thích vui chơi

Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu

Lá trầu khô giữa cơi trầu

Truyện Kiều khép lại trên đầu bấy nay.
- Giáo viên làm trọng tài.
Cách tiến hành:
15



- Trọng tài đặt trước mỗi nhóm tham gia thi một bộ băng giấy đã chuẩn bị
và xáo trộn thứ tự các băng giấy và úp phần có chữ xuống mặt bàn.
- Trọng tài nêu luật chơi
Không lật băng giấy trước khi có lệnh; không nhìn bài của bạn cùng chơi;
Nghe lệnh bắt đầu tất cả cùng lật băng giấy đọc và xếp đúng thứ tự các
câu thơ trong bài, cần đặt các băng giấy ngay ngắn và trình bày đúng theo thể
thơ như trong SGK.
Trọng tài hô bắt đầu tất cả cùng thực hiện yêu cầu nhóm nào xếp đúng,
đủ, đẹp, nhanh nhất sẽ là nhóm thắng cuộc.
* Lưu ý:
Nếu có nhiều nhóm học sinh cùng xếp xong cùng nhau trọng tài cần xem
xét về cách trình bày, thực hiện luật chơi...
3. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
- Sáng kiến đã được áp dụng đối với học sinh lớp 4B trường Tiểu học Tiên
Cát.Tôi nhận thấy không khí trong những giờ học trở nên sôi nổi hơn, học sinh
rất tích cực, các em chuyển từ thụ động sang chủ động chiếm lĩnh kiến thức,
thích thú với những hình thức học tập mới lạ. Ngoài ra những kĩ năng sử dụng
Tiếng Việt trong giao tiếp của các em phát triển vượt bậc. Những học sinh khá
thì ngày càng tự tin năng động, có trách nhiệm cao trong học tập còn những học
sinh thụ động thì trở nên tích cực hơn, bắt đầu biết chia sẻ, hợp tác với các bạn
để hoàn thành một nhiệm vụ học tập,tình bạn giữa các em thêm gắn bó. Lớp học
thành một khối đoàn kết, chất lượng được nâng lên rõ rệt. Về phía bản thân tôi,
tôi cảm thấy giờ dạy nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn .
- Kết quả thí nghiệm sau khi thực hiện đưa trò chơi vào các phân môn
trong môn Tiếng Việt, tôi nhận thấy các em đã hào hứng và tích cực tiếp thu kiến
thức hơn; các em học sinh tự tin hơn khi trình bày ý kiến của mình trước lớp
cũng như trong nhóm. Kết quả các bài kiểm tra nhanh hay bài kiểm tra định kì
đối với các học sinh chưa đạt chuẩn có tiến bộ rõ rệt. Tháng 5 năm 2015, tôi

đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả học tập môn tiếng Việt như sau:

16


Kết quả khảo sát
Tổng số HS

40

HS đạt chuẩn

HS chưa đạt chuẩn

40

0

- Những kinh nghiệm áp dụng sáng kiến là: Sử dụng trò chơi nhằm gây
hứng thú học tập, khắc sâu kiến thức, tạo được mối quan hệ thân thiết cho học
sinh khi hoạt động chơi mà học.
III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua quá trình thực hiện trong các giờ học Tiếng Việt hàng ngày, kĩ năng
vận dụng trò chơi của tôi linh hoạt hơn, thành thạo hơn. Tôi có nhiều kinh
nghiệm hơn trong việc lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp nhất, đảm bảo giúp
học sinh tìm ra kiến thức mới, rèn đúng kĩ năng cho học sinh theo mục tiêu bài
tập. Từ đó khả năng sáng tạo được nâng lên một bước, giúp cho cho tôi thiết kế
được nhiều trò chơi học tập hấp dẫn hơn. Việc sử dụng trò chơi học tập trong tiết
học chính là tạo ra một môi trường học tập mà HS có thể tích cực chủ động hơn.

Các em mạnh dạn tham gia các hoạt động. Từ đó những kĩ năng giao tiếp được
phát triển. Sự say mê học tập của các em là nguồn động viên thúc đẩy tôi vận
dụng các trò chơi học tập vào tiết học. Đồng thời luôn tìm tòi, nghiên cứu thiết
kế các trò chơi mới để lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập.
Sử dụng trò chơi với nhiều hình thức, làm cho lớp học thêm sinh động,
học sinh tiếp thu bài nhanh, không gây sự mệt mỏi nhàm chán trong quá trình
học tập. Trò chơi học tập phải có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực
hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện.Trò chơi cần diễn ra trong
một thời gian hợp lí, phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh. Sử dụng đúng
lúc, đúng chỗ các trò chơi học tập sẽ có tác dụng rất tích cực, kích thích hứng
thú học tập giúp tiết học đạt hiệu quả cao. Không lạm dụng trò chơi học tập,
biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ chức quá nhiều trò chơi trong tiết học gây
cho học sinh sự mệt mỏi. Tránh lặp đi lặp lại trò chơi học tập trong tiết học sẽ
không hấp dẫn học sinh.

17


- Sáng kiến này có khả năng ứng dụng cho tất cả các phân môn trong môn
Tiếng Việt của lớp 4, ngoài ra nhiều trò chơi tôi đưa ra có thể dạy cả trong quá
trình thực hiện bài mới hay phần cung cấp kiến thức cho học sinh hoặc phần ôn
tập vào giữa kì và cuối kì cho các em.
- Trong quá trình nghiên cứu tôi thấy được các giải pháp của sáng kiến
không mang tính áp đặt cho bất kì một giáo viên nào, mà nó có tính chất tham
khảo và vận dụng linh hoạt vào từng tiết dạy của mỗi giáo viên.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Để giúp đội ngũ giáo viên chúng tôi giảng dạy có hiệu quả hơn, tôi xin
mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau:
- Tăng cường bổ sung các đồ dùng – thiết bị dạy học liên quan đến trò
chơi học tập trong các tiết dạy của môn Tiếng Việt.

- Giáo viên phải có thời gian để nghiên cứu các trò chơi một cách kĩ
lưỡng, tránh gây sự nhàm chán trong quá trình thực hiện.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ để “Gây hứng thú học tập cho học
sinh qua tổ chức một số trò chơi môn Tiếng Việt lớp 4”. Trong sáng kiến chắc
không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đóng
góp, chia sẻ những kinh nghiệm hay hơn để áp dụng trong thực tế giảng dạy có
hiệu quả đồng thời chất lượng học tập của các em ngày một tiến bước . Tôi xin
chân thành cảm ơn.
Người viết sáng kiến

Vũ Thị Hường

18


Tµi liÖu tham kh¶o
1. Tiếng Việt 4(tập 1 + 2)

Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)

NXB GD.

2. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 4(tập 1 + 2) , Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên)
NXB GD,
3. Phương pháp dạy học Tiếng Việt 4, Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên)
NXB GD,
4.Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chuơng trình mới,
Nguyễn Trí

NXB GD


5. Trò chơi thực hành Tiếng Việt, Nguyễn Tuân

NXBGD

6. Vở Bài tập Tiếng Việt 4(tập 1 + 2) ,,

NXB GD.

19


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.................................................................................................................................................
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
….…………………

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO VIỆT TRÌ
.......................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................

................................................................................................................................................
…………………………………………………………………………………….
………………........................................................................................................................
……………………………………………………………………………………….………..
................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
……….................................................................................................................................…...
....................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
……….................................................................................................................................…...
...............................................................................................................................................
……….................................................................................................................................…...
...............................................................................................................................................
……….................................................................................................................................…...
...............................................................................................................................................
……….................................................................................................................................…...

20



×