Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

SỰ VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN VÀO CÔNG TÁC QUY HOẠCH CÁN BỘ UYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.91 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN
KHOA CHÍNH TRỊ

TRẦN THANH BÌNH

SỰ VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
VÀO CÔNG TÁC QUY HOẠCH CÁN BỘ
HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN TRIẾT HỌC

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1


1. Tính cấp tiết của đề tài............................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.............................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.........................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài..........................................4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.............................................4
6. Đóng ghóp của đề tài.............................................................................5
7. Kết cấu của khóa luận............................................................................5
NỘI DUNG...................................................................................................6
Chương 1: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NGUYÊN LÝ VỀ
SỰ PHÁT TRIỂN...............................................................................6
1.1. Một số quan niệm về sự phát triển trong triết học trước Mác......6
1.1.1. Quan niệm về sự phát triển trong triết học phương Đông.............7
1.1.2. Quan niệm về sự phát triển trong triết học hy lạp cổ đại............14
1.1.3. Quan niệm về sự phát triển trong triết học cổ điển Đức.............21


1.2. Quan niệm về sự phát triển trong triết học Mác- Lênin..............27
1.2.1. Tính khách quan..........................................................................28
1.2.2. Sự phát triển có tính phổ biến......................................................30
1.2.3. Sự phát triển có tính kế thừa........................................................31
1.2.4. Sự phát triển có tính đa dạng, phong phú....................................32
1.3. Mối quan hệ giữa nguyên lý về sự phát triển với vấn đề quy hoạch
đội ngũ cán bộ quản lý huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng..............33
Chương 2: SỰ VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN VÀO
CÔNG TÁC QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ HUYỆN THỌ
XUÂN, TỈNH SÓC TRĂNG.....................................................................37
2.1. Thực trạng của công tác quy hoạch cán bộ quản lý huyện Thọ
Xuân, tỉnh Sóc Trăng.....................................................................37
2.1.1. Tổng quan về huyện Kế Sách...................................................37
2.1.2. Tính khách quan của công tác quy hoạch cán bộ.....................39
2.1.3. Thực trạng của vấn đề quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý
huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.............................................................47
2.2. Những tác động ảnh hưởng đối với công tác quy hoạch đội ngũ
cán bộ quản lý huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng..........................54
2.2.1. Những tác động tích cực............................................................54
2.2.2. Những tác động tiêu cực............................................................58
2.3. Giải pháp, kiến nghị đối với công tác quy hoạch cán bộ quản lý
huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.....................................................62
KẾT LUẬN................................................................................................72

2


Lời Cảm Ơn!
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, em xin chân thành gửi lời cảm ơn
tới:

Các thầy cô trong Khoa chính trị, đặc biệt gửi lời cảm ơn và tri ân tới
người thầy đáng kính đã tận tình hướng dẫn, và giúp đỡ trong từng bước đi,
cách làm. Sự giúp đỡ của thầy là nguồn động viên to lớn để em vượt qua những
khó khăn trong quá trình tiếp nhận và làm khóa luận tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn tới huyện ủy huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, là
cơ quan đã cung cấp cho em nhiều số liệu, tài liệu có liên quan tới khóa luận
của mình một cách nhiệt tình.
Xin chân thành cảm ơn tới các bạn trong lớp, đặc biệt là những người bạn
đã luôn sát cánh kề vai những lúc khó khăn trong quá trình thực hiện. Các bạn
là người đã ghóp ý những thiếu sót trong kiến thức cũng như cung cấp tài liệu
trong quá trình em thực hiện đề khóa luận này.
Để có được kết quả như ngày hôm nay, một lần nữa xin gởi lời cảm ơn
chân thành tới tất cả quý thầy cô và các bạn.
Sinh viên thực hiện:
Trần Thanh Bình

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý quan trọng của phép
biện chứng duy vật, là cơ sở khoa học cho sự hình thành quan điểm toàn diện.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc
trưng phổ quát nhất của thế giới, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan đều có sự vận động và phát triển, sự vận động phát triển ấy là không
ngừng, có khi nhanh, khi chậm, khi tuần tự, có khi nhảy vọt, có lúc có những
bước thụt lùi, nhưng nếu nhìn ở cả một chặng đường thì tất cả đều là phát triển.
Phát triển là những cái mới ra đời thay thế cái cũ, nhưng vẫn trên cơ sở kế thừa
những hạt nhân hợp lý của cái cũ, cải tạo và phát triển những hạt nhân hợp lý ấy

để nó trở thành điều kiện, tiền đề vững chắc cho cái mới phát triển nhanh,
mạnh, vững hơn. Phát triển là đặc trưng phổ biến, phát triển là một tất yếu
khách quan.
Quán triệt quan điểm phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo mọi
hành động suy nghĩ của con người. Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi khi xem
xét sự vận động, biến đổi, và phát triển của nó phải tư duy, năng động, linh
hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức cái mới và ủng hộ cái mới.
Kế Sách, một huyện phía Tây của tỉnh Sóc Trăng có tiềm năng phát triển
kinh tế- xã hội cao. Trong những năm qua huyện đã có những bước tiến vô cùng
quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống. Huyện Kế Sách nói riêng, tỉnh Sóc
Trăng nói chung đã cùng với cả nước thực hiện tốt đường lối đổi mới của Đảng,
Nhà nước, cùng cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thu được những kết quả
rất đáng khích lệ. Là tấm gương sáng cho các huyện khác trong tỉnh học tập và
noi theo.

4


Xác định để có một nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững , một
tình hình chính trị ổn định thì một trong những điều kiện tiên quyết là cần phải
có một đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực phù hợp
với nhiệm vụ được giao. Cán bộ như ngọn đèn soi đường chỉ lối, là người
hướng dẫn quần chúng nhân dân học tập, noi theo.
Với vai trò, vị trí tầm quan trọng như vậy vấn đề quy hoạch đội ngũ cán bộ
là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành công hay thất bại
trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Vận dụng nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa Mác- Lênin vào công
tác quy hoach đội ngũ cán bộ là một cách làm hay, có hiệu quả của huyện ủy
huyện Kế Sách. Xuất phát từ lập trường quan điểm phát triển nhận thấy để công
tác quy hoạch cán bộ đạt chất lượng phải không ngừng tạo điều kiện cho cán bộ

học hỏi, trau dồi những kiến thức mới, tạo điều kiện và có cách thức thu hút thế
hệ trẻ có năng lực, phẩm chất, là những cán bộ đủ đức đủ tài trong tương lai
thay thế những lớp cán bộ già. Vận dụng quan điểm phát triển để thấy được
rằng giữa những thế hệ cán bộ cần có sự học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với
nhau, tạo điều kiện để công việc có hiệu quả….
Từ việc vận dụng nguyên lý về sự phát triển của chủ ngĩa Mác- Lênin vào
xây dựng, quy hoạch đội ngũ cán bộ đã cho thấy những kết quả đạt được và
đồng thời vạch ra những biện pháp, phương hướng phát triển cho đội ngũ cán
bộ trong tương lai của huyện Kế Sách.
Đây là một đề tài tôi cảm thấy rất tâm đắc và với sự đồng ý, ủng hộ của
thầy Hồ Minh Đồng, tôi đã mạnh dạn triển khai thành một bài khóa luận tốt
nghiệp mang tựa đề: “Vận dụng nguyên lý phát triển vào công tác quy
họach đội ngũ cán bộ huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

5


Nguyên lý về sự phát triển không phải là một đề tài mới lạ, ngược lại đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà triết học, những học giả nổi tiếng
có tâm huyết với triết học. Có thể điểm qua một vài công trình nghiên cứu như
sau:
“Giáo trình triết học Mác- Lênin” Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; “Lich
sử phép biện chứng”(6 tập), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; “Triết lý
phát triển ở Việt Nam” Phạm Xuân Mai, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 2005;
Mai Văn Ninh, “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Sóc Trăng hiện
nay”, tạp chí Lý Luận Chính Trị, số 5-2005
Lê Khắc Ngọc, “Xây dựng đội ngũ cán bộ. công chức quản lý nhà nước về kinh
tế cấp cơ sở của tỉnh Sóc Trăng”, tạp chí Lý luận chính trị 8- 2008.
Nguyễn Ngọc Lâm, Một số giải pháp nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ

hiện nay, tạp chí Lý Luận Chính Trị, số 4-2006.
Nguyễn Văn Quynh(2011), “Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng
cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng số 1+ 2
Nguyễn Doãn Khánh(2011), “Để xây dựng đội ngũ cán bộ của dân, do dân, vì
dân,” Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4
Lê Thị Anh(2011), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các xã vùng sâu, vùng
xa, vùng dân tộc thiểu số ở Sóc Trăng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 3
Những công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập, phân tích, làm rõ về
nguyên lý phát triển, và những cách tiếp cận vận dụng chủ nghĩa duy vật biện
chứng vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội con người, cũng như các
bài viết nghiên cứu về công tác cán bộ, công tác quy hoạch cán bộ.
Tuy nhiên nếu kể riêng về việc vận dụng nguyên lý về sự phát triển vào
công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ cho đến nay chưa có công trình nào, tác giả
nào đề cập một cách trực tiếp. Đây cũng chính là lý do tôi chọn đề tài này, bên
cạnh những điều đã được đề cập tới thì sự vận dụng nó vào lĩnh vực cụ thể nào
6


đó lại là một nội dung mới rất hay. Qua đề tài này tôi muốn một phần nào đó
làm rõ sự vận dụng nguyên lý về sự phát triển vào công tác quy hoạch đội ngũ
cán bộ ở huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ nguyên lý về sự phát triển
vận dụng vào trong công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ huyện Kế Sách, tỉnh Sóc
Trăng.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Trình bày một cách cơ bản có hệ thống những nội dung của nguyên lý về
sự phát triển.
Làm rõ thực trạng của vấn đề quy hoạch đội ngũ cán bộ của huyện Kế

Sách, tỉnh Sóc Trăng. Đề ra một số biện pháp, phương hướng giải quyết vấn đề
quy hoach đội ngũ cán bộ tại huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tập trung làm rõ nguyên lý về sự
phát triển vận dụng vào trong công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ của huyện Kế
Sách, tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là tập trung làm sáng tỏ việc vận dụng
nguyên lý về sự phát triển vào trong công tác quy hoạch cán bộ của huyện Kế
Sách, tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở những số liệu từ năm 2000- 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sự phát
triển, áp dụng vào trong công tác quy hoạch cán bộ huyện Kế Sách, tỉnh Sóc
Trăng.

7


Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Sử dụng các phương pháp như: phân
tích và tổng hợp, lịch sử và logic, thống kê, so sánh…nhằm làm rõ vấn đề.
6. Đóng ghóp của đề tài
Làm rõ một cách có hệ thống những nội dung cơ bản về sự phát triển. và
việc vận dụng nguyên lý về sự phát triển của chủ nghĩa Mác vào công tác quy
hoạch cán bộ huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng trong giai đoạn hiện nay.
Đưa ra những kiến nghị và giải pháp cho công tác quy hoạch cán bộ ở
huyện Kế Sách, tỉnh Thah Hóa.
7. kết cấu của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được kết cấu với 2 chương và 6 tiết


8


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU
CỦA NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
1.1.

Một số quan niệm về sự phát triển trong triết học trước Mác
Khái niệm “phát triển” đã xuất hiện từ những ngày đầu của lịch sử triết

học, tồn tại và không ngừng hoàn thiện cùng với sự tồn tại và hoàn thiện của hệ
thống triết học nhân loại. Tuy vậy, trước hết chúng ta cần có sự phân biệt các
khái niệm: “phát triển”, “phát triển bền vững” và “vận động”.
“Phát triển” là biến đổi theo hướng hoàn thiện của sự vật. Phát triển là
quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật là quá
trình thống nhất giữa phủ định những yếu tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân
tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật. “Phát triển bền vững”:
Thuật ngữ phát triển bền vững xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm “chiến lược bảo tồn thế giới” được công bố bởi hiệp hội bảo vệ thiên
nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế IUCN. “phát triển bền vững” là một
khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà
vẫn đảm bảo tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là
mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia sẽ dựa vào
đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý… để hoạch định chiến lược phù hợp
nhất với quốc gia đó. “Vận động” là mọi biến đổi nói chung, chưa nói đến
khuynh hướng cụ thể đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu.
Ngay từ thời cổ đại triết học đã rất phát triển, cũng chính ngay lúc này có
thể nhận thấy triết học đã có sự phân chia thành hai trường phái đối lập đó là

chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.Thời gian không phải là liều thuốc để
xoa dịu hay rút ngắn khoảng cách, sự đối lập ấy mà ngược lại cuộc chiến tư

9


tưởng ấy lại càng trở nên sâu sắc, quyết liệt hơn. Trong rất nhiều những đối lập,
mâu thuẫn thì nguyên lý về sự phát triển là một điển hình.
1.1.1. Quan niệm về sự phát triển trong triết học phương Đông
Với tư cách là một khoa học lịch sử triết học thì lịch sử triết học phương
Đông có đầy đủ những đặc điểm, tính chất, đối tượng và phương pháp nghiên
cứu của lịch sử triết học. Sự phát triển của triết học phương Đông chính là sự
giao thoa tư tưởng và văn hóa khu vực mang bản sắc riêng vô cùng độc đáo so
với triết học phương Tây.
Trung Quốc và Ấn Độ là hai trung tâm văn minh, văn hóa lớn của nhân
loài. Đồng thời nơi đây cũng là hai nền triết học lớn của các dân tộc phương
Đông cổ đại nói chung và các dân tộc châu Á nói riêng. Tính đa dạng, phong
phú, sâu sắc của triết học phương Đông mà tiêu biểu là triết học Trung Quốc và
Ấn Độ nói lên rằng bất cứ sự coi thường nào về văn hóa và tư tưởng của các
dân tộc châu Á đều là chủ quan trong khoa học về lịch sử, cắt xén lịch sử, do đó
không nhận thấy được tính đa dạng trong sự thống nhất của lịch sử triết học
nhân loại.
Mác từng nói rằng lịch sử phương Đông là lịch sử tôn giáo, điều này đặc
biệt thích hợp với Ấn Độ. Ổ Ấn Độ đã có nhiều hệ thống tôn giáo tồn tại và các
hệ thống triết học thường gắn liền với tôn giáo. Đã gắn với tôn giáo thì khó
tránh khỏi duy tâm hay hữu thần dầu có lúc nhà triết học đã cố tách khỏi- hay
quên mình là nhà tôn giáo. Với tất cả sự phong phú đa dạng như thế triết học
Ấn Độ đã hiện ra trước mắt ta như một tòa lâu đài đồ sộ, chứa đầy những kho
báu của tư duy nhân loại.
Trong triết học Ấn Độ có nhiều trường phái khác nhau, và mỗi phái lại có

cho riêng mình những tư tưởng, quan niệm, quan điểm khác nhau. Quan niệm
về sự phát triển cũng không nằm ngoài số đó.

10


Phái Sàmkhuya, một trong những trường phái triết học lớn của Ấn Độ cổ
đại. “Theo trường phái này thì sự phát triển của thế giới đi từ biểu hiện đến
không biểu hiện”[31, 27], họ cũng coi “ thế giới này là vật chất, nguyên nhân
của thế giới vì thế cũng là vật chất” [32, 126]. Thế giới vật chất là bao la, vô
cùng, vô tận, không ngừng biến đổi, vận động từ dạng này sang dạng khác, nó
tồn tại vĩnh hằng, không mất đi. Theo quan niệm của trường phái này thì thế
giới được cấu tạo bởi sự biến đổi của các yếu tố: Sattva(là trí tuệ, trí năng với
thuộc tính nhẹ, sáng, tươi vui), Rajas(là năng lượng với những thuộc tính động,
kích thích), Tamas(là khối lượng, quán tính với những thuộc tính nặng, khó
khăn). Chính sự tác động giữa các yếu tố nói trên đã phá vỡ sự cân bằng vốn có
của thế giới vật chất và tạo nên sự biến đổi, phát triển. Ở đây họ rơi vào siêu
hình khi quy sự vận động của vật chất về một số thuộc tính vận động cụ thể.
Nhưng điều đáng quý chính là cho chúng ta thấy từ rất sớm đã hình thành tư
tưởng nguyên nhân của thế giới là vật chất, thế giới không ngừng vận động,
phát triển. Mặc dù cách lý giải còn giản đơn, mang tính siêu hình như đã nói ở
trên nhưng những tư tưởng của trường phái Sàmkhuya đã rất tiến bộ khi chỉ ra
thế giới các sự vật tồn tại và biến đổi trong không gian và thời gian.
Phái Jaina nội dung triết học nhìn một cách khái quát ban đầu họ duy vật
chất phác về sau họ là nhị nguyên mang màu sắc tôn giáo. Phái Jaina cũng đã
diễn tả được sự biến đổi không ngừng của thế giới vật chất từ dạng này sang
dạng khác chứ không đứng yên. “Vật chất, vật thể là những biểu hiện của Ajiva,
có đặc tính sờ mó được, có âm thanh, mùi, sắc và vị…”[31, 42]. Để giải thích
cho mọi sự tồn tại trên thế giới họ đưa ra khái niệm “tồn tại đầu tiên”. Chính cái
“tồn tại đầu tiên” đã sản sinh ra muôn vật và để duy trì thế giới đa dạng nó cần

tồn tại một cách bất biến, vô thủy, vô chung. Thế giới này là bất biến, nhưng là
luôn luôn vận động biến đổi, chứ không phải bất biến đứng yên.

11


Như vậy có thể thấy rằng trong quan niệm của phái Jaina, đặc biệt là
trong quan niệm về thế giới vừa mang tính siêu hình vừa biện chứng, vừa lộ
diện khuynh hướng duy vật, nhưng đồng thời thể hiện tính chất duy tâm.
Phái Lokàyata “Lokàyata là triết học duy vật triệt để nhất trong các
trường phái triết học Ấn Độ cổ”[32, 141]. Phái đã khẳng định thế giới sự vật
hiện tượng có nguồn gốc từ vật chất và luôn luôn vận động biến đổi . Thế giới
này có nguồn gốc từ bốn yếu tố vật chất là đất, nước, lửa, không khí. Mỗi yếu
tố đều tồn tại trong sự vận động và tác động lẫn nhau chính từ đó cấu thành nên
vạn vật, là cơ sở tạo nên sự biến đổi đa dạng phong phú của thế giới vật chất.
Cũng theo họ ý thức nảy sinh từ vật chất. Đây là một trong những tư tưởng có
khuynh hướng duy vật, tuy nhiên lại chưa có phươg pháp luận đúng đắn, khoa
học nên không phát triển và dần bị mai một.
Triết học Phật giáo
Buddaha Trung Quốc dịch là Phật, có nghĩa là đấng giác ngộ, sáng suốt
và giác ngộ người khác. Ở Ấn Độ Phật giáo là một trong ba trường phái tà đạo
của toàn bộ chín hệ thống triết học Ấn Độ cổ. Phật giáo là trường phái triết học
cách mạng so với các trường phái triết học khác, và nó có ảnh hưởng lớn trên
phạm vi thế giới.
Nguyên lý “nhân duyên khởi” coi vạn vật trong vũ trụ đều có nguyên
nhân tự thân, không do một đấng thần linh nào tạo ra cả. Sự đa dạng của tồn tại
là do “ nhân duyên ” tạo ra. Nhân duyên hội thì sự vật tạo ra, nhân duyên hết thì
sự vật không còn. “ Nhân duyên” quan hệ với “Nhân quả”. Nhân là nghiệp lực.
Qủa là nghiệp lực đã thành hiện thực nhờ hội đủ duyên. “ Nhân duyên khởi” và
“ Nhân quả” là nguyên lý phổ biến tuyệt đối của mọi tồn tại. “Duyên ở đây phải

được hiểu vừa là nguyên nhân sinh ra cái mới, vừa là kết quả của quá trình biến
đổi cái cũ trước đó. Nhân nhờ duyên mà thành quả, quả nhờ duyên mà thành
nhân mới, nhân mới nhờ duyên mà thành quả mới…quá trình cứ thế nối nhau
12


vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài sinh sinh hóa hóa không
ngừng.”[31, 52]
Như vậy có thể thấy rằng trong quan niệm của Phật giáo nhìn nhận thế
giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng quy luật “ Nhân- quả”. Theo quy luật
này nhân- quả không bao giờ bị gián đoạn, hỗn loạn, và nhân nào thì quả ấy. Họ
quan niệm bản chất của sự tồn tại là một dòng chuyển biến liên tục(vô thường ).
Không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên do vậy không ai tạo ra thế giới cũng
không có vĩnh hằng. Sự vật, hiện tượng luôn luôn biến đổi theo một chu trình
của luật nhân- quả, kết quả của quá trình cũ có thể là nguyên nhân của quá trình
sau và cứ tiếp diễn như vậy.
Tất cả các sự vật hiện tượng trong vũ trụ(vạn pháp) luôn biến đổi không ngừng
theo quy trình: sinh- trụ- dị- diệt, thành- trụ- hoại- không và đều tuân theo luật
nhân- quả, theo lý “nhân duyên khởi”.
Phật giáo coi mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều là “ảo”và “giả”,
không có thực chỉ do vô minh đem lại và chấp mà có. “tất cả mọi vật đều vô
thường đều thay đổi, không có vật nào là ngã cả”[31, 55]. Dòng biến chuyển ấy
là vô thủy, vô chung, vô cùng, vô tận, không có khởi đầu không có kết thúc.
Quan niệm về sự phát triển trong triết học Phật giáo đã có nhiều điểm
tiến bộ song họ lại rơi vào yếu thế khi thừa nhận sự phát triển đạt tới một giới
hạn là cõi “niết bàn”.
Triết học Ấn Độ cổ đại với nhiều giáo phái khác nhau đã đề cập đến sự
vận động của các sự vật hiện tượng, sự thay đổi của vạn vật qua không gian,
thời gian, nhưng lại chưa trình bày được quan điểm về sự phát triển một cách
khoa học. Họ mới chỉ lý giải sự vận động đó được tạo bởi một nguyên nhân tiền

định mơ hồ nào đó, không thấy được nguồn gốc, phương thức, khuynh hướng
của sự phát triển.

13


To lớn về mặt diện tích, đồ sộ về mặt văn hóa, khi nói về lịch sử triết học
nói chung, triết học châu Á nói riêng không thể không kể tới triết học Trung
Quốc. Cũng như triết học Ấn Độ cổ, triết học Trung Quốc cổ đại cũng có những
lý luận hết sức sâu sắc khi bàn về sự phát triển. Đầu tiên phải kể đến thuyết
Âm- Dương, Ngũ Hành.
Thuyết Âm- Dương là thuyết thể hiện quan niệm duy vật chất phác về tự
nhiên, và ở đó đã thể hiện tư tưởng biện chứng sơ khai về tự nhiên, xã hội và
con người.
Âm- Dương là hai thế lực đối chọi nhau nhưng lại thống nhất với nhau
trong vạn vật, là khởi nguyên của mọi sinh thành biến hóa. Âm- Dương không
phải là hủy thể của nhau mà là điều kiện tồn tại của nhau, là động lực của mọi
vận động, phát triển.
Theo thuyết Âm- Dương sự vận động và biến đổi bắt nguồn từ hai thế lực
đối lập Âm và Dương. Chúng đối lập và thống nhất trong sự chuyển hóa lẫn
nhau, vừa khẳng định vừa phủ định nhau trong suốt quá trình tồn tại của mình.
Âm và Dương là sự kết hợp giữa trên và dưới, yếu và mạnh mềm và cứng, cân
bằng và biến đổi. Âm- Dương đối lập nhau nhưng không tách rời mà đan xen
nhau. Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, Âm tiến Dương lùi…sự vận
động là không ngừng, sự vật luôn luôn biến đổi. Quy trình đó là tất yếu. Thái
cực sinh Lưỡng nghi( Âm- Dương), Lưỡng nghi sinh Tứ tượng( Thái Dương,
Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm ), Tứ tượng sinh Bát quái( Càn, Khảm, Cấn,
Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ), Bát quái sinh ra vạn vật vô cùng vô tận.
Thuyết Âm- Dương giải thích vạn vật dựa vào hai thế lực đối lập thì
thuyết Ngũ Hành dựa vào năm yếu tố khởi thủy: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Năm yếu tố này là tượng trưng cho tính chất, màu sắc và phương hướng, chúng
không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trái lại chi phối lẫn nhau theo nguyên tắc
tương sinh, tương khắc.
14


“ Họ cho rằng quá trình tương sinh( bồi đắp, nuôi dưỡng) và tương
khắc(ước chế ) là quá trình sinh diệt, và thực chất của quá trình tồn tại của vật
chất là quá trình sinh- diệt không thôi đó”[32, 53]
Như vậy thuyết Âm- Dương, Ngũ Hành đã thừa nhận tính vật chất của
thế giới, giải thích quy luật phát triển khách quan của thế giới. Tuy còn chất
phác và máy móc nhưng thuyết Âm- Dương, Ngũ Hành đã có tác dụng chống
lại chủ nghĩa duy tâm và mục đích luận trong quan niệm tự nhiên.
Trong triết học Lão Tử, những tư tưởng về sự phát triển được thể hiện ở
phép biện chứng chất phác. Theo Lão Tử, ông cho rằng mọi sự vật đều biến hóa
sinh thành từ “Đạo” mà ra. Đạo của lão tử nhiều khi được dùng như một thuật
ngữ để chỉ trật tự của tự nhiên, về tính quy luật: “ người theo quy luật của đất,
đất theo quy luật của trời, trời theo quy luật của “đạo”, “đạo” theo quy luật của
tự nhiên”.
Nhiều khi “Đạo” của Lão Tử để hình dung vạn vật, có khi “đạo” có trước
vạn vật, có trước hiện tượng tự nhiên. “đạo” sinh ra “khí thống nhất”, “khí
thống nhất” sinh ra thứ âm- dương đối lập, hai thứ âm- dương đối lập sinh ra ba
lực lượng là: trời, đất, người. Ba lực lượng ấy sinh ra vạn vật.
“Đạo theo Lão Tử còn là quy luật chung của sự biến hóa của sự vật, vừa có
trước sự vật, vừa nằm trong sự vật. Quy luật biến hóa tự thân của sự vật gọi là
Đức( Đức trong tư tưởng Đạo gia thuộc về phạm trù vũ trụ quan)”[27, 30]
Lão Tử nói “cái đạo có thể gọi ra được không phải đạo vĩnh cửu, cái tên
có thể nói lên ược không phải là cái tên vĩnh cửu. không có tên đó là nguồn gốc
của trời đất, có tên là cái sinh ra muôn vậ. Cho nên, thường thì không để cho
người ta thấy cái huyền diệu của nó. Hai cái đó cùng một nguồn gốc mà hiện ra

tên gọi khác nhau, cùng gọi là huyền diệu, cái đạo lớn đã lan tràn như nước, có
thể lan tràn khắp mọi bề, muôn vật dựa vào đó mà sinh…đạo thường vô vi mà
cũng bất vô vi”[27, 31]
15


Lão Tử khẳng định chính sự liên hệ tác động giữa các mặt các khuynh
hướng đối lập nhau trong sự vật hiện tượng đã tạo ra sự vận động biến đổi
không ngừng của vũ trụ, và sự vận động của vũ trụ tất yếu phải tuân theo “
đạo”. Đây là những quy luật chi phối tới toàn bộ sự vật hiện tượng, không bất
cứ sự vật nào nằm ngoài quy luật đó. Theo Lão Tử thì toàn vũ trụ bị chi phối
bởi hai quy luật cơ bản nhất là: luật quân bình và luật phản phục. Luật quân
bình làm cho vũ trụ đượcvận động biến đổi trong trạng thái cân bằng, theo trật
tự điều hòa tự nhiên, không có gì thái quá không có gì bất cập phá vỡ trạng thái
cân bằng đó. Quy luật phản phục tức là cái gì phát triển đến tột đỉnh tất sẽ trở
thành cái đối lập với chính nó, sự vật khi phát triển đến cực điểm các tính chất
của nó thì những tính chất ấy lại đi ngược lại và trở thành tương phản với chính
nó.
Tư tưởng biện chứng của Lão Tử tuy mang những yếu tố hợp lý nhưng
nhìn chung về cơ bản nó vẫn mang tính chất tự phát ngây thơ dựa trên những
kinh nghiệm có tính trực quan cảm tính, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc mô tả
biến chuyển của sự vật, hiện tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Nó chưa có cơ sở để vạch ra bản chất bên trong của sự biến đổi.
Triết học Trung Quốc cổ đại do đứng trên lập trường duy tâm để giải
thích các sự vật hiện tượng trên thế giới, bởi vậy tuy có quan điểm về sự vận
động, biến đổi không ngừng nhưng chỉ dừng lại ở một vòng tuần hoàn nhất định
nào đó. Xuất phát điểm của sự vận động, biển đổi đó nhiều khi được giải thích
hết sức huyền bí, vô cùng, vô tận, khó nắm bắt, khó nhìn nhận. Vì những hạn
chế như vậy các nhà tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại chưa đưa ra được
nguồn gốc, phương thức, khuynh hướng của sự phát triển, mà mới chỉ chỉ ra sự

vận động đơn thuần, chưa đầy đủ.
1.1.2. Quan niệm về sự phát triển trong triết học Hy Lạp cổ đại

16


Trong triết học Hi Lạp cổ đại, một số nhà tư tưởng đã có khuynh hướng
duy vật, đã xem nguồn gốc thế giới thống nhất trong tính đa dạng của vạn vật.
Họ muốn phủ nhận quan niệm của thần học và tôn giáo bằng những lý giải vật
chất khi giải thích về sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Những lý
giải về sự phát triển của các nhà triết học Hi Lạp cổ đại hết sức phong phú, mặc
dù có những hạn chế nhưng tính tích cực của những tư tưởng đó là điều chúng
ta không thể chối cãi.
Mở đầu là Talét, “người sáng lập ra trường phái triết học Milet và được
xem là một trong bảy nhà hiền triết tài danh nhất lúc bấy giờ. Đồng thời theo
đánh giá của Aristote thì Talét chính là ngườ đã sáng lập ra kiểu triết học duy
vật sơ khai”[6, 17]. Talét coi nước là khởi nguyên của vạn vật. Mọi vật đều sinh
ra từ nước rồi tan biến vào nước.
“Mọi thứ đều sinh ra từ nước, thứ nhất bản nguyên của mọi động vật là tinh
dịch, mà tinh dịch thì ẩm ướt, thứ hai, mọi thực vật đều sống bằng nước và đâm
hoa kết trái bằng nước, sẽ khô héo nếu thiếu nước, thứ ba, bản thân ánh sáng
mặt trời và các thiên thể cũng tiêu thụ hơi nước, giống như bản thân vũ trụ”[6,
18]
Như vậy trong quan niệm của Talét thì vạn vật được sinh sôi nảy nở từ
bản nguyên đầu tiên là nước, tồn tại và biến đổi với nước, khi mất đi hay tồn tại
cao hơn chúng lại trở về với nước. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất,
tồn tại như một vòng tuần hoàn mà nước là là nền tảng của vòng tuần hoàn đó.
Xét về mặt bản thể luận những quan điểm của Talét mặc dù còn mộc
mạc thô sơ nhưng đã hàm chứa những yếu tố biện chứng tự phát. Nước là khái
niệm triết học, là cái quy định sự chuyển biến từ dạng vật chất này sang dạng

vật chất khác, là cái tạo nên sự thống nhất của thế giới, là cái gắn kết giữa cái
đơn và cái đa, là cái chứa đựng tiềm tàng giữa bản chất và hiện tượng.

17


Khi nhận xét về triết học Talét nói chung, nhưng quan niệm về sự tồn tại
và phát triển của thế giới sự vật hiện tượng nói riêng Ghéc-xe(1818- 1870) viết:
“Vậy ở đâu trong tự nhiên, trong vòng chuyển biến không ngừng đó, nơi mà
chúng ta không thấy cùng một số đặc điểm ở hai lần, ở đâu trong đó mà ta tìm
được khởi nguyên chung, ít nhất là tìm ra được một phương diện mà thể hiện
chính xác nhất tư tưởng về sự thống nhất và đứng im trong sự đa dạng luôn
luôn biến đổi của thế giới vật lý? Không có gì có thể tự nhiên hơn là việc coi
nước là khởi nguyên của các tính chất đó. Nó không có một hình thức xác định,
đứng im, nó ở khắp nơi có sự sống, nó là vận động vĩnh hằng và bình yên vĩnh
hằng…”[6, 19]
So với Talét triết học của Anaximan đã có một sự phát triển đáng kể,
phức tạp hơn, sâu sắc hơn và biệ chứng hơn.
Nếu như Talét đi tìm khởi nguyên từ một hành chất có thể cảm nhân được
bằng giác quan và liên quan chặt chẽ với đời sống của con người là nước, thì
bản nguyên Anaximan lại là một cái không xác định là Apeirôn. Ông không nói
rõ Apeiron là cái gì cụ thể mà khẳng định đó là một cái vô định hình, vô cùng
tận, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt.
Ngay từ thời cổ đại khái niệm Apeiron đã không thống nhất, có nhiều
cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên có thể tìm thấy cách lý giải
thống nhất đó là cho rằng Apeiron mang tính vật chất, một dạng vật chất không
xác định. Chính điểm thống nhất này đã trở thành một đóng ghóp vô cùng quan
trọng của Anaximan vào sự phát triển quan niệm nền tảng của chủ nghĩa duy
vật: vật chất.
Khác với Talet ông cho rằng Apeiron ngay từ đầu trong nó đã chứa đựng

những mặt đối lập, sau đó chúng được tách ra rồi lại quay về với nó. Toàn bộ
thế giới được tạo thành từ Apeiron như một vòng tuần hoàn biến đổi không
ngừng.

Phê phán các quan niệm trực quan của các thần thoại và tôn giáo
18


nguyên thủy về thế giới, Anaximan cho rằng những gì mà bề ngoài thế giới hiện
ra trước mắt chúng ta chưa hẳn là bản thân thế giới một cách đích thực. Dầu vậy
cũng như các nhà triết học thời kỳ này Anaximan cũng chịu sự chi phối ảnh
hưởng của thần thoại và tôn giáo, khẳng định tồn tại điểm tận cùng giới hạn của
thế giới. Mọi vật theo ông đều bắt nguồn từ apeiron và có lỗi lầm với nhau,
chính lỗi lầm này đã phá vỡ giới hạn của chúng. Mọi cái cuối cùng đều trở
thành apeiron, theo cách lý giải này thì ít nhiều apeiron trở thành cái thần bí.
Acnaximen- học trò của Anaximan, ông khẳng định: “không khí là bản
nguyên của mọi sự vật hiện tồn”[6, 23]. Giống như Talet, Acnaximen đã tìm
kiếm khởi đầu của vạn vật trong những yếu tố vật chất có liên quan mật thiết
đối với đời sống của con người, với ông khởi đầu đó chính là không khí. “Thở
và không khí bao trùm khắp vũ trụ, mọi thứ đều xuất hiện từ chúng và quay về
với chúng”. Không khí sinh ra vạn vật muôn loài bằng hai cách làm đặc và
loãng. Ông viết “không khí sinh ra mọi vật, mọi sự tiếp nối của nó bằng con
đường cô đặc và làm loãng, nhưng bản thân không khí là thực thể trong suốt,
không nhìn thấy được”. Acnaximen quan niệm rằng ngay cả chính linh hồn của
con người cũng là không khí, các vị thần cũng sinh ra từ không khí. Cách giải
thích quá trình sinh ra của sự vật đã thể hiện tư tưởng biện chứng tự phát của
ông.
Acnaximen đã cảm nhận được nguyên tắc tự thân vận động, nhưng ông
lại chịu ảnh hưởng của thần thoại. Những hạn chế của tri thức lúc bấy giờ đã
không cho phép ông giải thích được sâu sắc, rõ ràng hơn về sự vận động, phát

triển đó. Nhưng dẫu vậy những đóng ghóp của ông cũng hết sức quý báu.
Hêraclit là người chiếm giữ vị trí trung tâm trong lịch sử phép biện chứng
của Hi Lạp cổ đại, Lênin nhận xét về Heraclit “một trong những người sáng lập
ra phép biện chứng”.

19


Với Hêraclit bản nguyên của thế giới, của vạn vật không phải là nước
như Talet, Apeiron như Acnaximan, không khí như Acnaximen, mà là ngọn lửa
đang bùng cháy trong từng nhà, là ánh sáng chói chang của mặt trời cho con
người phân biệt được ngày và đêm, là ánh trăng huyền thoại mơ mộng, là
những tinh tú xa xôi đang ngày đêm không ngừng lấp lánh.
Theo Hêraclit thì lửa sinh ra vạn vật, là bản nguyên đầu tiên, là khơi đầu
của tất cả. Cái thống nhất duy nhất trong thế giới này không gì khác hơn là lửa.
Các hiện tượng ngày- đêm, nắng- mưa…không phải là những hiện tượng thần
bí mà chỉ là những trạng thái khác nhau của lửa. Tất cả đều được qui đổi lấy
lửa, lửa lấy tất cả như vàng trao đổi lấy hàng hóa, còn hàng hóa lấy vàng.
Nhưng theo Hêraclit thì chuẩn mực của mọi sự vật là logos, đươc hiểu
không chỉ là từ ngữ mà còn là quy luật khách quan của vũ trụ. Quy định trật tự
và chuẩn mực của mọi cái. Cái logos đó tồn tại vĩnh viễn, phổ biến và thưc chất
đó là quy luật của tự nhiên. Theo ông mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều
thay đổi, vận động và phát triển không ngừng.
Trước

Hêraclit

các

nhà


triết

học

tự

nhiên

như

Talet,

Acnaximen,Acnaxximan của trường phái Milet đã bằng cách này hay cách khác
cũng đã tiếp cận với qua niệm về vận động và biến đổi của thế giới. Song phải
đến Hêraclit thì mới tồn tại với tư cách một học thuyết về vận động. Một câu
nói nổi tiếng mà khi nhắc tới ông người ta sẽ liên tưởng ngay tới đó là: “chúng
ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Theo Hêraclit thì vận động của sự vật gắn liền với thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập. Chính mâu thuẫn tồn tại một cách phổ biến trong sự vật đã trở
thành nguồn gốc phát triển của vạn vật. “Vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng
trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập
nhau”[32, 158], như vậy đấu tranh chính là quy luật phát triển của vũ trụ. Lênin
đã đánh giá cao vai trò những quan niệm của Hêraclit, cho rằng những quan
20


niệm đó đã thực hiện một trong những điểm cơ bản của phép biện chứng, mọi
cái chỉ xảy ra một lần, không lặp lại mặc dù giữa các sự vật có thể có những kế
thừa nhất định.

Đêmôcrit một trong những nhà triết học duy vật tiêu biểu của triết học Hi
Lạp cổ đại.
Đêmôcrit cho rằng khởi nguyên của các thế giới là nguyên tử. Các
nguyên tử được ông cho là nhỏ nhất không phân chia được, chúng chỉ khác
nhau về trật tự, hình dạng, tư thế…Vận động được xem là bản chất của nguyên
tử, “có vô số thế giới, chúng ta có đại lượng khác nhau, xuất hiện từ những
khoảng vô tận, sinh ra và tiêu vong…Một thế giới đang phát triển, số khác đã
đạt tới sự trưởng thành, số thứ ba đang suy thoái. Các thế giới đang ra đời ở một
nơi, nhưng lại đang biến mất ở nơi khác. Chúng bị hủy diệt, khi va chạm vào
nhau. Một số thê giới không có động vật và thực vật và hoàn toàn không có
nước”. Đêmôcrit tán đồng với quan điểm của Hêraclit khi cho rằng từ sự vật bé
nhất cho đến thế giới không có gì là trường tồn cả, tất cả đều là một quá trình
biến đổi không ngừng.
Như vậy dựa vào nguyên tử luận Đêmôcrit đã giải thích được sự vận
động và phát triển của muôn vật có nguồn gốc từ bên trong sự vật, sự vận động,
phát triển không phụ thuộc vào những thế lực thần bí bên ngoài, không có gì
sinh ra hay mất đi một cách ngẫu nhiên mà đều có nguyên nhân của nó.
Đêmôcit đã tiến đến khẳng định tính quy luật trong sự phát triển của các sự vật.
Tuy nhiên ông vẫn không thoát khỏi các hạn chế khi đã lẫn lôn vật chất với ý
thức, coi ý thức và linh hồn không phải là hiện tượng tinh thần mà là hiện tượng
vật chất, đồng nhất linh hồn con người như là tổng thể của nguyên tử. Ông cho
rằng linh hồn chết cùng thể xác.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại ngoài những tư tưởng mang khuynh hướng
duy vật, thì bên cạnh đó những tư tửng duy tâm về sự vận động và phát triển
21


cũng hết sức phong phú. Nổi bật phải kể đến quan niệm về thế giới ý niệm của
Platon và thuyết hình dạng của Aristot.
Ý niệm là gì? Trong triết học cổ đại Hi Lạp, Platon không phải người đầu

tiên sử dụng thuật ngữ này. Theo tiếng Hi Lạp ý niệm chính là những nghĩa rất
rộng như loài, giống, hình thức…Học thuyết ý niệm là vấn đề trung tâm của hệ
thống triết học Platon vì vậy không chỉ là nền tảng của thế giới quan mà còn là
cơ sở của nhận thức.
Theo Platon thì sự vật chỉ là hiện thân của ý niệm, thế giới ý niệm là thế
giới bản nguyên tồn tại độc lập với thế giới hiện thực và nó chi phối hiện thực.
Thế giới hiện thực chỉ là cái bóng của thế giới ý niệm, cũng chính vì vậy mà tự
nhiên và con người phụ thuộc vào quyền lực thần bí. Thế giới ý niệm là cái khởi
đầu, cái có trước tất cả, sinh ra tất cả và chi phối tất cả. Mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới mà chúng ta đang sống chẳng qua chỉ là sự mô phỏng lại từ thế
giới ý niệm, là bản sao của thế giới ý niệm. Quan niệm duy tâm về thế giới đã
chi phối quan niệm về xã hội và con người. Sự khác biệt trong cấu trúc và linh
hồn đã quy định sự khác nhau về đẳng cấp xã hội. Tương ứng với ba phần của
linh hồn con người (lý tính, cảm xúc, tình cảm) chia xã hội ra làm ba hạng
người tùy theo bộ phận linh hồn nào đóng vai trò chủ đạo, đó là những kẻ thống
trị, tầng lớp võ sĩ, tầng lớp những người lao động. Trong quan niệm về thế giới
Platon đã theo lập trường duy tâm khách quan, coi mọi sự vật chỉ là sự hiện
thân hay là sự mô phỏng của ý niệm. Quan niệm này của Platon đã phủ nhận
sạch trơn sự vận động, phát triển của sự vật, cho rằng bất cứ sự vật nào cũng chỉ
là sự thể hiện đặc thù các ý niệm tương ứng dưới dạng vật chất.
Aristot, người được Mác đánh giá là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ
đại”, Ăngghen lại nói đó là “khối óc toàn diện nhất” trong số triết gia cổ đại Hi
Lạp. Cũng giống như triết học Platon, Aristot cũng bàn tới ý niệm, nhưng

22


những quan niệm về thế giới ý niệm của Aristot đối lập hoàn toàn với những gì
mà Platon đã trình bày trong học thuyết của mình.
Theo Aristot khởi nguyên của vạn vật, của thế giới đã có vật chất, đó là

vật chất thuần túy chưa bị giới hạn trong bất kỳ một hình thức nào cả. Tồn tại
trong một trạng thái không tồn tại, nghĩa là nó chưa là một cái gì cả, nhưng lại
tồn tại với tư cách là khả năng trở thành một cái gì đó.
Dạng vật chất này không do ai sinh ra, nó tồn tại mãi mãi, nhưng là tồn
tại thụ động. Chúng trơ ỳ và mãi mãi trơ ỳ nếu như không được kết hợp với một
hình thức để trở thành một sự vật cụ thể. Heghen đã nhận xét: “vật chất chỉ là
cái nền tảng khô cứng mà trên đó diễn ra các biến đổi, và trong những biến đổi
ấy vật chất chỉ là cái chịu đựng”[32, 119]
Aristot quan niệm sự tồn tại xuất phát từ bốn nguyên nhân cơ bản là hình
dạng, vật chất, vận động, mục đích. Sự vật nào có đầy đủ những nguyên nhân
trên mới tồn tại được. Đồng thời ông chia vận động ra thành bốn loại: biến hóa
về bản chất, biến hóa về số lượng, biến hóa về tính chất, biến hóa về vị trí.
Nhưng vận động cũng chỉ là một khía cạnh, nguyên nhân của hình dạng. Ông
đã đi tới quan niệm sai lầm khi cho rằng hình dạng là hiện thực, vật chất là khả
năng. Aristot đã không thừa nhận sự vận động tự thân của vật chất mà mong
muốn đi tìm nguyên nhân thực sự của vận động bên ngoài sự vật. Đối với ông
sự phát triển được hiểu như là sự chuyển dịch giản đơn trong không gian, ông
đa không trình bày được sự phức tạp, biến hóa của sự phát triển. Đó chính là
điểm hạn chế của ông, thể hiện sự dao động trong lập trường duy vật và duy
tâm của Aristot. Những đóng ghóp của Aristot đối với sự phát triển của triết học
nói riêng, của đời sống nhân loại nói chung là hết sức lớn lao, mặc dù bên cạnh
đó không ít những hạn chế. Hêghen nhận xét: “ bao chứa toàn bộ các quan niệm
của con người, trí tuệ của Aristot đề cập tới mọi mặt và mọi lĩnh vực của thế
giới hiện thực”[5, 224]
23


1.1.3. Quan niệm về sự phát triển trong triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của triết học phương Tây, có ảnh hưởng
sâu rộng và to lớn đến triết học hiện đại. Thời kỳ này triết học thế giới ghi nhân

những nhà tư tưởng có tầm vóc thời đại, tuy nhiên đáng kể nhất, lớn nhất phải
kể đến những nhà triết học cổ điển Đức như: Canto, Heeghen, Phoiơbăc. Những
tư tưởng triết học của các ông đã khắc phục những quan niệm triết học trước đó
bằng những quan niệm rõ ràng hơn về quá trình vận động và phát triển của sư
vật hiện tượng trong tự nhiên.
Canto một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng
phương Tây trước Mác. Theo như đánh giá của Heghen thì Canto chính là điểm
xuất phát của triết học Đức hiện đại.
Thời kỳ tiền phê phán Canto đã đưa những quan niệm hết sức tiến bộ về
nguyên lý phát triển. Ông tuyên bố: “hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế
giới từ nó, nghĩa là hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy thế giới đã
ra đời từ vật chất như thế nào”.[32, 379]
Theo Canto thế giới này được cấu tạo từ vật chất và luôn luôn vận động,
biến đổi, tất cả các sự vật đều nằm trong mối liên hệ tương tác lẫn nhau thông
qua lực hút và lực đẩy. Thế giới là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của tự
nhiên theo hướng ngày càng hoàn thiện. Ông cho rằng không chỉ mọi sự vật
trong thế giới chúng ta mà cả toàn bộ vũ trụ nói chung đều nằm trong quá trình
phát sinh phát triển và diệt vong như một quy luật.
Học thuyết về nguồn gốc và hình thành vũ trụ của Canto đã đi vào lịch sử
với ý nghĩa cách mạng, vì nó tiến bộ hơn hẳn so với các giả thuyết trước đây về
vũ trụ, chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật, đem lại quan niệm mới trong việc
xem xét sự phát triển của thế giới. Theo học thuyết này không chỉ có trái đất mà
cả vũ trụ là kết quả của sự tiến hóa lâu dài của chính nó, đã bác bỏ quan niệm
siêu hình khi cho rằng một thế giới chúng ta đang tồn tại thì bao giờ cũng như
24


bây giờ “ mà trái đất và tất cả hệ thống mặt trời thể hiện ra như là một cái gì đã
hình thành trong thời gian”[6, 422].
Ngoài giả thuyết về nguồn gốc và sự hình thành vũ trụ từ những đám tinh vân,

Canto còn có giả thuyết khoa học về sự lên xuống của thủy triều do sức hút của
mặt trăng và trái đất. Ông cho rằng mỗi thiên thể trong vũ trụ ra đời hay kết
thúc chỉ là sự biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” Ăngghen đã dánh giá cao hai giả
thuyết khoa học này của Canto bởi hai giả thuyết khoa học này đã đem lại một
quan điểm biện chứng về sự phát triển về mối liên hệ của các sự vật hiện tượng
trong vũ trụ, đặc biệt phát minh thứ nhất đã đem lại quan điểm lịch sử vào địa
hạt vạn vật học lý thuyết.
Đến thời kỳ phê phán do chịu ảnh hưởng của Lepnit và chủ nghiã duy
tâm chủ quan của Hium nên Canto đã không thừa nhận tồn tạo khách quan, tự
nó của thế giới các sự vật. Ông đã phủ nhận chính những dự đoán thiên tài của
mình về nguồn gốc sự vận động và phát triển. Canto đã có sự dao động giữa thế
giới quan duy vật với thế giới quan duy tâm, giữa nhất nguyên và nhị nguyên,
giữa khả tri và bất khả tri, nhưng thực tiễn ở đây không gắn liền với hoạt động
sản xuất vật chất mà chỉ gắn với lý tính thực tiễn. Quan điểm phát triển của
Canto tuy có nhiều điều chưa hợp lý nhưng những tiến bộ là điều rất đáng ghi
nhận. Triết học của ông là cơ sở lý luận,tiền đề xuất phát của nhiều trào lưu triết
học hiện đại sau này như: chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa
thực chứng, hiện tượng học…
Hêghe không chỉ là thiên tài triết học của Đức mà còn là của thế giới.
Trước Mác, Hêghen là người trình bày sự vận động và phát triển một cách khúc
chiết chặt chẽ nhất. Hêghen coi sự vận động, phát triển không đơn thuần là tăng
hay giảm về lượng hay sự dịch chuyển vị trí của vật về không gian. Quan điểm
phát triển của Hêghen chính là cái nhìn mới trong triết học. Ăngghen đã nhận
25


×