Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tiểu luận chia tài sản khi ly hôn tại TAND thị xã Bến Cát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.51 KB, 41 trang )

GIỚI THIỆU CƠ QUAN THỰC TẬP

Giới thiệu chung về thị xã Bến Cát: Bến Cát là một thị xã trực thuộc tỉnh Bình
Dương, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam; trung tâm thị xã cách thành
phố Thủ Dầu Một 20 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 50 km. Thị xã Bến Cát có
đường Quốc lộ 13 chạy qua về hướng Bắc, tỉnh lộ 744 theo hướng Tây Bắc đi huyện
Dầu Tiếng và Tây Ninh. Thị xã Bến Cát hiện là đô thị loại IV. Thị xã Bến cát nằm ở vị
trí trung tâm của tỉnh Bình Dương, phía bắc giáp huyện Bàu Bàng, phía tây giáp huyện
Dầu Tiếng, phía đông giáp huyện Phú Giáo, phía nam giáp thành phố Thủ Dầu Một và
huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Thị xã Bến Cát có diện tích 234,4224 km 2,
dân số 203.420 người. Thị xã Bến Cát có 05 phường và xã. Hiện nay, Bến Cát có 8
Khu công nghiệp. Do tình hình kinh tế phát triển, kéo theo lượng dân nhập cư đến làm
việc và sinh sống trên địa bàn ngày một đông, từ đó phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, tình
hình tội phạm ngày một gia tăng, với hình thức phạm tội và hành vi ngày một tinh vi hơn.
Tình hình tội phạm năm sau cao hơn năm trước. Các tội phạm xảy ra chủ yếu xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, tài sản và trật tự trị an mà người thực hiện hành vi phạm tội phần lớn
ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động, hành chính cũng tăng lên hàng năm với số lượng lớn.
Quá trình hình thành của Tòa án Nhân Dân thị xã Bến Cát: Tòa án Nhân
Dân thị xã Bến Cát tiền thân là Tòa án Nhân Dân huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé. Từ
năm 1975 đến năm 1997, đơn vị có tên là Tòa án Nhân Dân huyện Bến Cát, tỉnh Sông
Bé. Năm 1997 tỉnh Sông Bé tiến hành chia tách thành 2 tỉnh: tỉnh Bình Dương và tỉnh
Bình Phước. Tòa án Nhân Dân huyện Bến Cát thuộc Tòa án Nhân Dân tỉnh Bình
Dương. Năm 1999, huyện Bến Cát chia tách thành 2 huyện: Huyện Bến Cát và huyện
Dầu Tiếng thuộc tỉnh Bình Dương. Tòa án Nhân Dân huyện Bến Cát thuộc Tòa án
Nhân Dân tỉnh Bình Dương. Ngày 1/4/2014, huyện Bến Cát chia tách thành 2 huyện:
Thị xã Bến Cát và huyện Bàu Bàng thuộc tỉnh Bình Dương. Tòa án Nhân Dân thị xã
Bến Cát thuộc Tòa án Nhân Dân tỉnh Bình Dương theo quyết định số 217/QĐ-TCCB
ngày 19/3/2014 của Chánh án Tòa án Nhân Dân Tối cao.
Từ năm 1975 đến năm 1999, biên chế của đơn còn rất hạn chế 06 đến 10 đồng
chí. Từ năm 1999 đến 2010, biên chế của đơn vị từ 11 đến 15 đồng chí. Năm 2010 đơn


vị có 19 đồng chí, trong đó: 06 Thẩm phán; 9 Thư ký, 01 cán bộ văn phòng; 01 cán bộ
kế toán; 01 nhân viên bảo vệ, 01 nhân viên tạp vụ. Năm 2011, đơn vị có 27 biên chế:
12 thư ký, 11 Thẩm phán, 01 cán bộ văn phòng; 01 cán bộ kế toán; 01 nhân viên bảo
vệ, 01 nhân viên tạp vụ. Năm 2012, đơn vị có 27 biên chế: 12 thư ký, 11 Thẩm phán,
1


01 cán bộ văn phòng; 01 cán bộ kế toán; 01 nhân viên bảo vệ, 01 nhân viên tạp vụ.
Năm 2013, đơn vị có 31 biên chế: 14 thư ký, 13 Thẩm phán, 01 cán bộ văn phòng; 01
cán bộ kế toán; 01 nhân viên bảo vệ, 01 nhân viên tạp vụ. Năm 2014, đơn vị có 38
biên chế: 13 Thẩm phán; 21 Thư ký; 01 cán bộ văn phòng; 01 cán bộ kế toán; 01 nhân
viên bảo vệ, 01 nhân viên tạp vụ. Đến ngày 01/4/2014, Chia tách huyện: Số Biên chế
đơn vị còn lại là: 28 biên chế: 10 Thẩm phán, 14 Thư ký, 01 cán bộ văn phòng; 01 cán
bộ kế toán; 01 nhân viên bảo vệ, 01 nhân viên tạp vụ. Hiện nay biên chế đơn vị có 38
đồng chí: 12 Thẩm phán, 18 Thư ký, 4 cán bộ văn phòng, 2 nhân viên bảo vệ, 1 nhân
viên tạp vụ, 1 nhân viên tài xế.
Lượng án một số năm gần đây: Năm 2010: đơn vị giải quyết 1.089 trên 1.616
vụ án các loại đã thụ lý. Năm 2011: đơn vị giải quyết 1.297 trên 1.491 vụ án các loại
đã thụ lý. Năm 2012: đơn vị giải quyết 1.608 trên 1.848 vụ án các loại đã thụ lý. Năm
2013: đơn vị giải quyết 1.724 trên 1.888 vụ án các loại đã thụ lý. Năm 2014: đơn vị
giải quyết 1.626 trên 1676 vụ án các loại đã thụ lý. Năm 2015: đơn vị đã giải quyết
1.613 trên 1.752 vụ án các loại đã thụ lý. Năm 2016: đơn vị đã giải quyết 1.475 trên
1.586 vụ án các loại đã thụ lý.
Vị trí, chức năng, nguyên tắc hoạt động của Tòa án Nhân Dân: Tòa án
Nhân Dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền Tư pháp.
Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án Nhân Dân có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án Nhân Dân góp phần giáo dục Công Dân

trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành Pháp luật, tôn trọng những quy tắc
của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm Pháp luật
khác.
Tòa án nhân danh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính
và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan,
toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào
kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc
không áp dụng hình phạt, biện pháp Tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài
sản, quyền nhân thân.
Các Tòa án Nhân Dân được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử. Việc xét
xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của Pháp luật. Tòa án
2


Nhân Dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án
Nhân Dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo Pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
Tòa án Nhân Dân là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành bộ máy nhà
nước, là trung tâm trong hệ thống các cơ quan Tư pháp ở nước ta. Trong hoạt động xét
xử, Tòa án độc lập và chỉ tuân theo Pháp luật. Với tư cách là cơ quan tài phán, Tòa án
Nhân Dân thực hiện một trong ba loại quyền lực nhà nước là: Quyền Tư pháp.
Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc, từ đó, Tòa
án Nhân Dân nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết về tính hợp pháp của vụ việc.
Bản chất của xét xử là việc giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện Pháp luật.
Tuy nhiên, hoạt động của Tòa án không chỉ bó hẹp trong chức năng xét xử mà còn
được mở rộng. Về bản chất, Tòa án cũng như nhiều cơ quan Nhà nước khác được Pháp
luật trao cho thẩm quyền xét xử và giải quyết các tranh chấp Pháp lý. Hoạt động xét xử
và những hoạt động khác do Tòa án tiến hành có một số dấu hiệu đặc trưng sau đây:

Một là: Phạm vi các vụ việc mà Tòa án giải quyết đa dạng nhất. Điều 1 Luật Tổ
chức TAND quy định “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, Hôn nhân, Lao
động, Kinh tế, Hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của Pháp
luật”. Cụ thể hơn: Bên cạnh xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân, lao động, kinh
tế, hành chính; Tòa án còn giải quyết yêu cầu phá sản của doanh nghiệp; xem xét và
kết luận tính hợp pháp của cuộc đình công. Tòa án giải quyết những việc khác theo
quy định của Pháp luật, ví dụ như: áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; ra quyết định
thi hành án hình sự; xóa án tích.Trong đó, nhiều loại vụ việc là độc quyền giải quyết
của Tòa án như việc tuyên bố một người vô tội và phải chịu hình phạt, việc ly hôn,
việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Hai là: Tòa án xét xử theo trình tự, thủ tục tố tụng phức tạp, chặt chẽ và thận
trọng; gồm ba loại hình: Tố tụng hình sự, Tố tụng dân sự, Tố tụng hành chính.
Ba là: Tính độc lập cao trong hoạt động nghề nghiệp những người tham gia xét
xử. Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định “...Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo Pháp luật...”.
Bốn là: Tính hiệu lực tuyệt đối trong các phán quyết của Tòa án. Trong việc giải
quyết các tranh chấp Pháp luật có sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước khác nhau,
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền ra phán quyết có hiệu lực chung thẩm.
Hoạt động xét xử của Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng trong Nhà nước
pháp quyền. Tòa án là cơ quan thay mặt Nhà nước giải quyết nhiều tranh chấp Pháp
3


luật, xử lý hành vi vi phạm Pháp luật nghiêm trọng, đảm bảo cho Pháp luật thực hiện
nghiêm chỉnh và thống nhất. Tòa án góp phần giáo dục lòng trung thành với Tổ quốc,
chấp hành nghiệm chỉnh Pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống xã hội,
ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm Pháp luật khác. Vì vậy, Tòa án
là biểu tượng của công lý, của lẽ phải, của việc tuân thủ Pháp luật trong Nhà nước
pháp quyền. Chức năng xét xử của Tòa án Nhân Dân được cụ thể hóa thành nhiệm vụ,
quyền hạn của Tòa án Nhân Dân các cấp và được quy định trong luật tổ chức Tòa án

Nhân Dân.
Ngoài ra, Tòa án Nhân Dân còn thực hiện rất nhiều các hoạt động khác như giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp; Hội thẩm Nhân
Dân; xây dựng ngành…
Nguyên tắc hoạt động của Tòa án Nhân Dân do Hiến pháp quy định như: Xét
xử của Tòa án do thẩm phán và hội thẩm thực hiện. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm
độc lập, chỉ tuân thủ Pháp luật. Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Mọi
Công Dân đều bình đẳng trước Pháp luật. Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp do
Luật định.Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Tòa án bảo đảm cho
Công Dân được sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án.
Tòa án Nhân Dân thị xã Bến Cát là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử tại thị
xã Bến cát. Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất Pháp lý của vụ việc, Tòa
án Nhân Dân nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết về tính hợp pháp của vụ việc.
Bản chất của xét xử là việc giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện Pháp luật.
Tòa án Nhân Dân thị xã Bến Cát có nhiệm vụ xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự,
dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, hành chính và theo quy định của Pháp
luật Tố tụng và giải quyết các việc khác theo quy định của Pháp luật trên địa bàn thị xã
Bến Cát.

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết chọn đề tài
Gia đình hạnh phúc là một trong những điều góp phần tạo nên một xã hội tiến
bộ, văn minh. Các điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định là
nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của gia đình. Gia đình là hình ảnh thu nhỏ của
xã hội, là tế bào của xã hội. Quan điểm này đã được Ph.Angghen nhấn mạnh như một
nguyên lý của nội dung lý luận Macxit về hôn nhân và gia đình trong tác phẩm nổi
tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước.” (1884). Khi

nghiên cứu vai trò của “tế bào xã hội”, đầu tiên phải nhận thức được ý nghĩa của từng
cá thể trong gia đình. Tại đó, nhân cách và thực thể sinh học được ươm mầm và nuôi
dưỡng, cũng chính là nguồn nhân lực tương lai của xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh
toàn cầu hoá, xu hướng xích lại gần nhau giữa các quốc gia, nhiều tư tưởng hiện đại đã
ngày càng du nhập vào từng nền văn hoá khác nhau trên thế giới; ở Việt Nam cũng
không ngoại lệ. Khi đời sống được nâng cao, nhu cầu cá nhân được đáp ứng đầy đủ
hơn thì mặt trái xã hội lại xuất hiện như một quy luật tự nhiên. Giá trị của gia đình lại
bị giảm đi đáng kể, thể hiện qua sự tăng vọt các vụ án ly hôn. Theo thống kê số lượng
án trên website chính thức của Toà án nhân dân tối cao thì năm 2011 có số vụ án sơ
thẩm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình là 115.331 vụ, đến năm 2012 là 130.860 vụ
đến năm 2013 đã tăng đến 145.719 vụ.
Ly hôn là quan hệ vợ chồng được thiết lập trên cơ sở pháp lý không còn khi có
bản án, quyết định của Toà án. Về đạo đức, xã hội thì tình cảm giữa một nam một nữ
đã không còn, cũng không thể chung sống với nhau được nữa nhưng về mặt Pháp lý
lại là vấn đề đau đầu cho cơ quan nhà nước, những người có thẩm quyền. Hệ quả kéo
theo ly hôn là một loạt các vấn đề tài sản, cấp dưỡng…Trong đó, tranh chấp về tài sản
là lĩnh vực gặp nhiều khó khăn và diễn ra rất đa dạng trên thực tế, từ việc xác định tài
5


sản sở hữu chung hay riêng, thực hiện các nghĩa vụ trong thời kì hôn nhân, định giá
nhà, đất, chia tài sản chung vợ chồng khi sống chung với gia đình… Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế. Điều đó đòi hỏi có những quy
định mới nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong
lĩnh vực hôn nhân gia đình.
Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các địa phương và Bộ, Ban,
ngành có liên quan và qua quá trình tiếp thu, chỉnh lý của cơ quan soạn thảo, ngày
19/06/2014 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XIII, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
chính thức được thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2015 với 10 chương, 133 điều với
những quy định mới, hợp lý trong việc điều chỉnh về: áp dụng tập quán trong hôn

nhân, chế độ tài sản của vợ chồng, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài…
Với mong muốn góp một phần nhỏ trong việc cập nhật kiến thức khi văn bản,
chế định mới ra đời trong lĩnh vực hôn nhân gia đình nên em đã chọn đề tài “Giải
quyết về tranh chấp tài sản khi ly hôn” làm tiểu luận của mình. Trong phạm vi tiểu
luận tốt nghiệp, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận về chế định tài sản của
vợ chồng theo Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành, đồng thời đưa ra các vấn đề
thường gặp khi xảy ra tranh chấp cũng như trích các bản án điển hình, qua đó đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là dựa trên phép biện chứng của
lý luận khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp
so sánh, phân tích, tổng hợp…
Vì kiến thức chưa tổng quát, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vừa mới có
hiệu lực, với trình độ chuyên môn còn hạn chế cùng nguồn tài liệu chưa nhiều nên
việc tìm hiểu đề tài của em còn nhiều thiếu sót, đặc biệt trong việc nghiên cứu những
bất cập, thực trạng áp dụng của các chế định. Rất mong được thầy cô góp ý, chỉ bảo để
em có thể hoàn thiện kiến thức của bản thân trong việc tìm hiểu đề tài.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
a. Mục đích ngiên cứu đề tài
- Làm rõ quy định cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn tại Toà án, thực tiễn áp dụng Pháp luật để giài quyết các tranh
chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Toà án thông qua công tác xét xử và qua đó
phát hiện những vấn đề còn bất cập trong các quy định của Pháp luật cũng như những
khiếm khuyết sai sót trong công tác xét xử của Toà án để từ đó đề xuất những kiến
6


nghị nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả công tác xét xử và quyền lợi chính đáng của
các đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn.

b. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu làm rỏ các quy định về thủ tục Tố tụng, cơ sở Pháp luật để giải
quyết các tranh chấp vể tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Pháp luật
hiện hành.
- Nghiên cứu việc áp dụng Pháp luật để giải quyết các tranh chấp về tài sản của
vợ chồng khi ly hôn qua thực tiễn công tác xét xử của Toà án.
- Qua đó đánh giá hiệu quả của việc xét xử tại Toà án về giải quyết các tranh
chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn, phát hiện những vấn đề vướng mắc, bất cập
trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng Pháp luật khi xét xừ tại Toà
án và đề xuất các kiến nghị cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định của Pháp luật về quy trình, thủ tục căn cứ Pháp luật giải quyết
tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn và thực tiễn việc giải quyết tại Toà án.
- Các vụ án cụ thể mà Toà án đã xét xử giải quyết tranh chấp về chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn.
- Báo cáo tổng kết công tác xét xử của ngành Toà án.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Tiểu luận chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự, Luật HNGĐ năm 2014 và một số văn bản về quy trình, thủ tục Tố tụng giải quyết
các tranh chấp về tài sản của vợ, chồng các căn cứ Pháp luật về nội dung để giải quyết
tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đồng thời, nghiên cứu việc áp dụng
Pháp luật giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ, chồng khi ly hôn qua thực tiễn
xét xử tại Toà án thông qua các vụ án cụ thể.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần giới thiệu cơ quan thực tập, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung báo cáo đề tài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật của việc giải quyết tranh chấp tài sản khi
ly hôn
Chương 2: Thực tiễn và kiến nghị một số vấn đề về giải quyết tranh chấp tài sản
khi ly hôn

7


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN KHI LY HÔN
1.1. Khái niệm chung
Theo LHNGĐ 2014, các khái niệm cơ bản về mặt nội dung không có thay đổi
nhiều so với LHNGĐ 2000, cụ thể:
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn.
Kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này
về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Kết hôn trái Pháp luật là việc nam, nữ đã đăng kí kết hôn tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy
định tại Điều 8 của Luật này.
Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức sống chung và coi nhau như
vợ chồng.
Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ
ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.

8


Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo Bản án, Quyết định có hiệu lực
Pháp luật của Toà án.
Ngoài ra, các từ ngữ mới bổ sung thêm như: Tập quán hôn nhân và gia đình;
Cản trở kết hôn, Ly hôn; Kết hôn giả tạo; Yêu sách của cải trong kết hôn; Ly hôn giả
tạo; Thành viên gia đình; Người thân thích; Nhu cầu thiết yếu; Sinh con bằng kĩ thuật
hỗ trợ sinh sản; Mang thai hộ vì mục đích nhân tạo; Mang thai hộ vì mục đích thương
mại. Các khái niệm mới này đã được kịp thời bổ sung dựa trên các tình huống phát
sinh trên thực tế mà Luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ.

- Ly hôn là sự kiện làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ đồng thời
với sự chấm dứt quan hệ hôn nhân thì chế độ tài sản của vợ, chồng cũng chấm dứt kể
từ thời điểm ly hôn. Khi ly hôn có sự mâu thuẫn về quan hệ tình cảm nên vợ chồng
khó tìm được tiếng nói chung trong việc phân chia tài sản từ đó dễ xảy ra tranh chấp.
- Theo từ điển tiếng Việt thì tranh chấp được hiểu là sự tranh giành nhau một
cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào.
- Tranh chấp về tài sản vợ chồng thường xảy ra chủ yếu và gần như đồng thời
cùng với việc ly hôn, điều này là hợp lý bởi lẽ khi ly hôn thì vợ chồng đã có sự sứt mẻ
về tình cảm, sự yêu thương gắn bó trong thời kỳ hôn nhân không còn nên cùng với
việc ly hôn họ sẽ có sự tranh giành, hơn thua nhau trong vấn đề phân chia tài sản. Việc
tranh chấp về tài sản có thể diễn ra cùng với việc vợ, chồng xin ly hôn hoặc có thể diễn
ra sau khi vợ, chồng đã ly hôn do thời điểm ly hôn vợ, chồng không yêu cầu giải quyết
về tài sản mà họ đã tự thoả thuận nhưng sau đó họ không tự thoả thuận được. Việc vợ,
chồng tranh chấp về tài sản đồng thời với việc ly hôn hoặc sau khi ly hôn đều được coi
là tranh chấp tài sản khi ly hôn.
- Các tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn chủ yếu là các nội dung sau
đây:
+ Trah chấp về việc xác định tài sản chung hay tài sản riêng, đây là dạng tranh
chấp phổ biến nhất ( ví dụ: Như tài sản do vợ, chồng tạo lập được trong thời kỳ hôn
nhân như nhà, đất nhưng trong giấy tờ mua bán hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng
chỉ đứng tên vợ hoặc chồng, tài sản là của bố mẹ vợ hoặc chồng cho vợ chồng nhưng
khi ly hôn thì bố mẹ lại thay đổi là chỉ cho con trai hoặc con gái hoặc cha mẹ đòi lại tài
sản riêng vợ chồng có trước khi kết hôn nhưng lại đưa vào sử dụng chung trong thời
kỳ hôn nhân…)
+ Tranh chấp về việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hay của
gia đình .
9


+ Tranh chấp về việc phân chia hiện vật.

+ Tranh chấp về việc thoả thuận giá trị tài sản tranh chấp.
+ Tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với người thứ ba.
- Khi vợ, chồng tranh chấp về chia tài sản chung thì họ khó thoả thuận thống
nhất trong việc phân chia tài sản nên cần có một cơ quan Nhà nước có đủ thẩm quyền
tiến hành giải quyết việc chia tài sản của vợ, chồng. Theo quy định của Pháp luật hiện
hành thì việc giải quyết ly hôn và chia tài sản của vợ, chông thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án Nhân Dân. Khi vợ, chồng có đơn gởi đến Toà án yêu cầu giải quyết
ly hôn và cùng với việc giải quyết ly hôn họ yêu cầu giải quyết về tài sản thì Toà án sẽ
tiến hành thụ lý vụ án, thực hiện các thủ tục, quy trình Tố tụng đã được Pháp luật quy
định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự như lời khai, thu thập chứng cứ, hoà giải,
định giá, mở phiên Toà ( nếu hoà giải không thành )… Các bước Tố tụng này giúp Toà
án có thể xem xét đánh giá chứng cứ, cân nhắc kỹ, quyết định về tính hợp pháp, hợp lý
trong lới khai, chứng cứ do các bên đưa ra nếu cơ sở Pháp lý xác định tài sản tranh
chấp là tài sản của vợ, chồng thì Toà án căn cứ vào các quy định của Luật HNGĐ hiện
hành để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ, chồng.
1.2. Quy định của Pháp luật hiện hành về tài sản của vợ chồng khi trước
hôn nhân đang hôn nhân và khi ly hôn
- Pháp luật không có quy định bắt buộc phải đồng thời giải quyết chia tài sản
chung của vợ chồng với việc giải quyết ly hôn. Việc tự thỏa thuận chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn còn được khuyến khích qua việc quy định đương sự chỉ phải chịu án
phí chia tài sản đối với phần tài sản có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Thực tế hiện nay, để giải quyết vấn đề ly hôn được nhanh gọn và ít phức tạp,
Tòa án thường giải quyết vụ việc ly hôn theo hướng tách thành hai vụ việc khác nhau:
giải quyết ly hôn và giải quyết chia tài sản chung. Việc phân tách này cũng hoàn tòan
phù hợp với yêu cầu thực tế bởi vợ chồng có thể có nhiều loại tài sản chung và có
những tài sản họ không muốn hoặc không thể yêu cầu giải quyết chia đồng thời với
việc ly hôn. Ví dụ: Vợ chồng yêu cầu chia một ngôi nhà đã có giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhưng chưa muốn chia bởi một người chưa tìm được nơi ở mới; còn cổ phần
tại một công ty thì lại phải chờ đến thời điểm thích hợp theo điều lệ của công ty ấy mới
phân chia được.

- Có trường hợp các bên khi ly hôn không có yêu cầu giải quyết phần tài sản
nhưng sau đó lại không thỏa thuận được dẫn đến tranh chấp. Như vậy, đương sự có
quyền chỉ yêu cầu ly hôn mà chưa yêu cầu giải quyết về tài sản hoặc chỉ yêu cầu giải
10


quyết về một phần của tài sản chung; việc chia tài sản chung có thể được giải quyết
bằng nhiều vụ án khác.
1.2.1. Căn cứ pháp lý
Việc giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn sẽ được Tòa án giải quyết dựa trên
các nguyên tắc sau:
- Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật định thì việc giải
quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của
vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4
và 5 Điều này và tại các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật HNGĐ 2014.
- Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải
quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy
đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại
các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật HNGĐ 2014 để giải quyết.
- Đối với những tài sản chung chưa phân chia thì họ vẫn là đồng chủ sở hữu
mặc dù họ không cỏn là vợ chồng. Khi có yêu cầu tiếp tục chia tài sản chung sau khi
đã ly hôn thì vụ án chia tài sản vẫn là vụ án hôn nhân và gia đình vì vẫn phải chia theo
các Điều 60, 61, 62, 63, 64 Luật HNGĐ 2014 chứ không phải chỉ chia theo các quy
định về sở hữu chung của Bộ Luật Dân sự 2005.
Trước hết, về vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, Toà án căn cứ vào
các quy định của Bộ Luật Dân sự về việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đem
phân chia. Theo Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về sở hữu chung của vợ
chồng:
- Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
- Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của

mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung.
- Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung.
- Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết
định của Toà án.
Theo quy định của pháp luật, khối tài sản chung này là việc tạo lập tài sản của
hai vợ chồng sau hôn nhân, có quyền ngang nhau trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
một tài sản nào đó trong khối tài sản chung. Khi ly hôn mà hai bên không thoả thuận
được việc chia tài sản thì Toà án sẽ giải quyết.
11


Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng yêu cầu khi Luật hôn nhân và gia đình 2014 mới ra
đời, ngày 31/12/2014 Chính phủ đã ban hành NĐ 126, có hiệu lực từ 15/02/2015 ngay
sau hiệu lực của LHNGĐ 2014. Có thể nói, ngoài việc kế thừa LHNGĐ 2000 thì
LHNGĐ 2014 có rất nhiều điểm mới, tiến bộ trong chế định về tài sản chung, riêng
của vợ và chồng.
1.2.2. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồngkhi ly hôn
Đây là một điều Luật mới, thể hiện tinh thần chung trong việc vận dụng giải
quyết các tranh chấp nảy sinh liên quan đến tài sản vợ chồng khi ly hôn. Cụ thể: vợ,
chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có
thu nhập; có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.
Người thứ ba không ngay tình khi xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng
liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoả chứng khoán, động sản khác mà theo quy
định của Pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu ( Nghị định 126/2014/NĐ-CP).
+ Người thứ ba xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng liên quan đến tài

khoản ngân hàng , tài khoản chứng khoán, động sản khác mà theo quy định của Pháp
luật không phải đăng ký quyền sở hữu thì bị coi là không ngay tình trong các trường
hợp sau:
Đã được vợ, chồng cung cấp thông tin theo quy định tại điều 16 của Nghị định
126 mà vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với những thông tin đó.
Vợ, chồng đã công khai thoả thuận theo quy định của Pháp luật có liên quan về
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và người thứ ba biết hoặc phải biết nhưng
vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với thoả thuận.
Cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ, chồng theo thoả thuận trong giao
dịch với người thứ ba.
+ Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được áp dụng thì khi
xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về
những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được
coi là ngay tình và đươc bảo vệ quyền lợi theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Chiếm hữu sử dụng định đoạt tài sản chung của vợ, chồng:
+ Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ, chồng thoả thuận.
trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản
12


chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên
kia, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật HNGĐ 2014.
+ Trong trường hợp vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung vi phạp quy định tại
Khoản 2 Điều 35 của Luật HNGĐ thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố vô
hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.
Thoả thuận vê chế độ tài sản bị vô hiệu:
+ Thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Toà tuyên bố vô hiệu khi thuộc
một trong các trường hơp sau
Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ Luật
Dân sự và các Luật khác có liên quan.

Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29,30,31 và 32 của Luật HNGĐ
2014.
Nội dung của thoả thuận vi phạp nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền
được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của
gia đình.
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận thì
thoả thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng
hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được xác lập kể từ ngày
đăng ký kết hôn.
1.2.3. Áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng (Điều 28, LHNGĐ 2014)
Đây là điều Luật mới mang tính “quy định chung” trong mục chế độ tài sản của
vợ chồng. Trên cơ sở thừa nhận cho vợ chồng có quyền thoả thuận xác lập chế độ tài
sản, Luật đưa ra các quy định chung áp dụng cho tất cả các cặp vợ chồng về chế độ tài
sản. Theo đó:
- Vợ, chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo Luật định hoặc chế
độ tài sản theo thoả thuận.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật định được thực hiện theo quy định tại
các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 của Luật này.
Chế độ tài sản của vợ, chồng theo thoả thuận được thực hiện theo quy định tại
các điều 47, 48, 49, 50 và 59 của Luật này.
- Các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này được áp dụng không
phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng đã lựa chọn.
- Chính phủ quy định chi tiết về chế độ tài sản của vợ chồng.
13


Ngoài ra, Điều 7 NĐ 126 cũng quy định: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo
Luật định được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài
sản theo thoả thuận hoặc có thoả thuận về chế độ tài sản nhưng thoả thuận này bị Toà
án tuyên bố vô hiệu theo quy định tại Điều 50 của Luật Hôn nhân và gia đình.”

1.2.4. Chế độ tài sản của vợ chồng (Điều 28 đến Điều 30 LHNGĐ 2014)
Chế độ tài sản theo Luật định
LHNGĐ 2014 sửa đổi, bổ sung nhiều quy định của LHNGĐ 2000 về chế độ tài
sản của vợ chồng theo Luật định. Luật quy định cụ thể, rõ ràng hơn về căn cứ xác định
tài sản chung, tài sản riêng, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, bổ
sung quy định về nghĩa vụ tài sản chung, nghĩa vụ tài sản riêng của vợ chồng làm cơ
sở cho việc giải quyết trong thực tế. Để khắc phục khó khăn, vướng mắt trong thực
hiện quy định của LHNGĐ 2000 về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của
vợ chồng “có giá trị lớn”, Luật mới không sử dụng tiêu chí “có giá trị lớn” mà quy
định đối với bất động sản, động sản theo quy định của Pháp Luật phải đăng ký quyền
sở hữu thì việc định đoạt phải có sự thoả thuận của vợ chồng.
Chế độ tài sản chung của vợ chồng:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp khoản 1 Điều 40 của
LHNGĐ 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trong trong trường
hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản
riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung (theo quy định tại Điều 33).
Về cơ bản, Điều 33 LHNGĐ 2014 vẫn giữ nguyên nội dung tại Điều 27
LHNGĐ 2000, lưu ý có các điểm mới sau:
Khoản 1 Điều 27 Luật HNGĐ 2000 quy định về tài sản chung vợ chồng được
bổ sung nội dung “…hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng…,trừ trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 40 Luật này…” và nội dung “…Tài sản chung được dùng để
bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng”.

14


Bỏ quy định tại khoản 2 Điều 27 LHNGĐ 2000, cụ thể là không quy định
“Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà Pháp luật quy định
phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chúng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả vợ
chồng”, nội dung này được tách ra thành một điều mới (Điều 34).
Bên cạnh đó, tại mục 2 chương II của NĐ126 về Chế độ tài sản của vợ chồng
cũng đã hướng dẫn:
Điều 9. Thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân
- Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp quy
định tại Khoản 3 Điều 11 của Nghị định này.
- Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật
Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên,
gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước.
- Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của Pháp luật.
Điều 10. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng
- Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ,
chồng có được từ tài sản tiêng của mình.
- Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu
được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.
Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung (Điều 34)
Điều này được tách ra trên cơ sở Điều 27 LHNGĐ 2000 và được thêm nhiều
nội dung mới, cụ thể là: Giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử
dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, “trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”; nếu
chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì “…giao dịch liên quan đến tài sản này được
thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì
được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”
Tại NĐ 126 hướng dẫn về đăng ký tài sản chung của vợ chồng như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký theo quy định tại Điều 34 của Luật

Hôn nhân và gia đình bao gồm quyền sử dụng đất, những tài sản khác mà Pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu.
- Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ
hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng
nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên cả vợ và chồng.
15


- Trong trường hợp tài sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân mà trong
giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và
chồng thì bên được chia phần tài sản bằng hiện vật có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký
tài sản cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trên cơ sở văn bản thoả thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Toà án về chia tài
sản chung.
Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung (Điều 35)
Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 28 LHNGĐ 2000. Điều 35
LHNGĐ 2014 quy định: “việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt do vợ chồng thoả thuận”
và liệt kê cụ thể các trường hợp mà việc định đoạt tài sản chung phải có sự thoả thuận
bằng văn bản, bao gồm các trường hợp sau đây: bất động sản; động sản mà theo quy
định của Pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập
chủ yếu của gia đình và được hướng dẫn như sau:
- Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thoả thuận.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản
chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên
kia, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình.
- Trong trường hợp vợ hoặc chồng định đoạt tài sản chung vi phạm quy định tại
Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.”
Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Điều 38)
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thoả thuận chia một phần hoặc toàn

bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thoả
thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. Thoả thuận về việc chia tài sản
chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ
chồng hoặc theo quy định của Pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì
Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của
Luật này.
Trên cơ sở Điều 29 LHNGĐ 2000 đã bổ sung quy định mới là: “Văn bản thoả
thuận tài sản chung được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định
của Pháp luật” (khoản 1 Điều 29 chỉ quy định “việc chia tài sản chung phải được lập
thành văn bản”, không quy định văn bản thoả thuận chia tài sản chung phải công
chứng). Ngoài ra, Điều 38 Luật này cũng chỉ cần những trường hợp quy định tại Điều
42 của Luật này thì vợ, chồng không được thoả thuận chia tài sản chung của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân và trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu Toà án giải quyết
16


việc chia tài sản chung của vợ chồng thì Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 59
Luật này.
Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Điều 40)
Theo đó, trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản
được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản
chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.
Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Thoả thuận của vợ
chồng quy định tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản
được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.
Điều này được bổ sung khoản 2 trên cơ sở Điều 30 LHNGĐ 2000 với nội dung
bổ sung là: “Thoả thuận của vợ chồng được quy định tại khoản 1 Điều này…”
Lưu ý, Điều 14 NĐ 126 nêu rõ: Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật định. Từ thời
điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng không có thoả

thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng. Từ
thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc
khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập lao động,
hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Ngoài ra, liên quan đến phần tài sản chung LHNGĐ 2014 còn bổ sung thêm
nhiều điểm mới, đó là: “Tài sản chung được đưa vào kinh doanh” (Điều 36); “Nghĩa
vụ chung về tài sản của vợ chồng” (Điều 37); “Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài
sản chung trong thời ký hôn nhân” (Điều 39); “Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân bị vô hiệu” (Điều 42).
Chế độ tài sản riêng của vợ, chồng (Điều 43)
Điều này được sửa đổi, bổ sung (khoản 2) trên cơ sở Điều 32 LHNGĐ 2000, cụ
thể sửa đổi, bổ sung: “Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là
tài sản riêng của vợ, chồng; hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân
được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này ”.
Nội dung “Vợ chồng có quyền nhập hay không nhập tài sản riêng vào tài sản chung”
tại khoản 2 Điều 32 LHNGĐ 2000 được thể hiện tại một điều Luật riêng (Điều 46).
Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng (Điều 44)

17


Điều này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 33 LHNGĐ 2000. Về cơ bản
nội dung này được giữ nguyên, chỉ bỏ quy định tại khoản 4 Điều 33: “Tài sản riêng
của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường
hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng”.
Nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung (Điều 46).
Đây là một điều luật mới, cụ thể hoá nội dung quy định tại khoản 2 Điều 32
LHNGĐ 2000, theo đó việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được

thực hiện theo thoả thuận của vợ, chồng. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo
quy định của Pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức
nhất định thì thoả thuận phải đảm bảo hình thức đó. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản
riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ
chồng có thoả thuận khác hoặc Pháp luật có quy định khác.
Bên cạnh đó, Điều 45 LHNGĐ 2014 về “Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ,
chồng” cũng là một điều Luật mới, theo đó quy định về nghĩa vụ của mỗi bên vợ,
chồng có trước khi kết hôn; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản riêng…; nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì
nhu cầu của gia đình; nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm Pháp luật của vợ, chồng.
Chế độ tài sản theo thoả thuận
Luật bổ sung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận, bên
cạnh đó là quy định về điều kiện có hiệu lực của thoả thuận về chế độ tài sản của vợ,
chồng. Điều 47 LHNGĐ 2014 có quy định: “Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa
chọn chế độ tài sản theo thoả thuận thì thoả thuận này phải được lập trước khi kết
hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ
chồng theo thoả thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.”
Thoả thuận chế độ tài sản của vợ chồng (Điều 48 LHNGĐ 2014) có các nội
dung sau: tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài
sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân
chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản; nội dung khác có liên quan.
Mặt khác, tại khoản 2 Điều 48 cũng quy định khi thực hiện chế độ tài sản theo
thoả thuận mà phát sinh những vẫn đề chưa được vợ chồng thoả thuận hoặc thoả thuận
không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này và quy
định tương ứng của chế độ tài sản theo Luật định.

18



NĐ 126 cũng đã quy định rất cụ thể việc xác định tài sản của vợ chồng theo
thoả thuận:
- Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận thì
vợ chồng có thể thoả thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung sau đây:
- Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ,
chồng;
- Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do
vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản
chung;
- Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có
được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có
được tài sản đó;
- Xác đinh theo thoả thuận khác của vợ chồng.
Thoả thuận về tài sản vợ chồng phải phù hợp với quy định tại các Điều 29, 30,
31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu vi phạm, người có quyền, lợi ích liên
quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố thoả thuận vô hiệu theo quy đinh tại Điều 50
của Luật Hôn nhân và gia đình.”
Nghị định cũng hướng dẫn việc cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ
chồng theo thoả thuận trong giao dịch với người thứ ba cũng như việc sửa đổi, bổ sung
nội dung, hậu quả của việc sửa đổi, bổ sung của chế độ tài sản của vợ chồng tại các
Điều 16, 17 và Điều 18.
Nhìn chung, một số khái niệm và quy định thay đổi không đáng kể so với Luật
cũ. Tuy nhiên, hàng loạt chế định mới ra đời, đặc biệt là chế độ tài sản theo thoả thuận,
đòi hỏi các cá nhân, cơ quan áp dụng phải kịp thời thay đổi tư duy, cập nhật liên tục để
đưa Luật mới tiếp cận nhanh chóng trong việc giải quyết các vụ việc cụ thể trên thực
tế.

19



CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN KHI LY HÔN
2.1. Các quy định mới trong LHNGĐ 2014 liên quan đến tranh chấp
thường gặp
LHNGĐ 2014 đã quy định về chế độ tài sản áp dụng chung cho tất cả các cặp
vợ chồng, theo đó vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo Luật định
hoặc chế độ tài sản theo thoả thuận.
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận thì
thoả thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng
hoặc chứng thực; chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được xác lập kể từ ngày
đăng ký kết hôn.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thoả thuận chia một phần hoặc toàn
bộ tài sản chung; thoả thuận về chia tài sản chung phải lập thành văn bản và được công
chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của Pháp luật.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật định được áp dụng trong trường hợp vợ
chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thoả thuận hoặc có thoả thuận về
chế độ tài sản nhưng thoả thuận này bị Toà án tuyên bố vô hiệu theo quy định tại Điều
50 của LHNGĐ 2014 (theo Điều 7, NĐ 126).
Khi giải quyết quan hệ tài sản theo Luật 2014, một số vấn đề hay gặp trên thực
tế như sau:
2.1.1. Chế độ tài sản theo Luật định:
LHNGĐ 2014 quy định cụ thể về căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng,
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nghĩa vụ tài sản chung, nghĩa
vụ tài sản riêng của vợ chồng làm cơ sở cho việc giải quyết trong thực tế. Việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng đối với bất động sản, động sản mà
20


theo quy định của Pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu thì việc định đoạt phải có sự
thoả thuận của vợ chồng. Khi áp dụng chế độ tài sản theo Luật định đối với các vụ việc

hôn nhân và gia đình, cần nắm rõ:
2.1.2. Tài sản chung của vợ chồng:
Giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả
hai vợ chồng, “trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”. Trường hợp chỉ ghi tên
một bên vợ hoặc chồng mà có tranh chấp về tài sản đó mà không có căn cứ để chứng
minh đó là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Tuy
nhiên, trên thực tế khi vợ chồng về sống với nhau thì việc thoả thuận trong trường hợp
trên là rất ít. Lúc này, cả hai đều tin tưởng ở nhau nên việc đưa tài sản riêng của người
này rồi khi cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng ghi tên
người kia, khi xảy ra tranh chấp rất khó giải quyết. Đặc biệt, quyền lợi người phụ nữ
trong các trường hợp này cũng rất khó bảo vệ.
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung “do vợ, chồng thoả thuận”.
Trong các trường hợp sau việc định đoạt tài sản chung phải có sự thoả thuận bằng văn
bản của vợ chồng. LHNGĐ 2014 đã quy định: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có
quyền thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Tuy nhiên, thoả thuận về
việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản và được công chứng theo yêu cầu của
vợ chồng hoặc theo quy định của Pháp luật, đồng thời việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 42 Luật
này.
2.1.3. Tài sản riêng của vợ chồng:
Tài sản riêng được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản
riêng của vợ, chồng. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu
thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng.
Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo
thoả thuận của vợ chồng; tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của
Pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì
thoả thuận phải bảo đảm hình thức đó; nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập
vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thoả
thuận khác hoặc Pháp luật có quy định khác.
2.1.4. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng:

Tại Điều 59 Luật 2014 đã quy định những quy tắc giải quyết tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, những nguyên tắc này được áp dụng khi vợ, chồng có
21


yêu cầu Toà án giải quyết việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân. Trong đó cần lưu ý: Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính
đến các yếu tố sau đây: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp
của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; Lao động của
vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng
của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp
tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng.
2.1.5. Chế độ tài sản theo thoả thuận:
LHNGĐ 2014 bổ sung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả
thuận, quy định điều kiện có hiệu lực của thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Theo đó, thoả thuận phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công
chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được xác lập kể
từ ngày đăng ký kết hôn. Thoả thuận của vợ chồng phải đảm bảo các nội dung theo
quy định của Pháp luật.
Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thoả thuận về chế độ tài sản; nhưng hình
thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thoả thuận về chế độ tài sản theo thoả thuận phải
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực (theo Điều 17 NĐ 126).
Thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Toà án tuyên bố vô hiệu khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây: Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch
được quy định tại Bộ luật Dân sự và các Luật khác có liên quan; Vi phạm một trong
các quy định tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của LHNGĐ 2014 ; Nội dung của thoả
thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi
ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
2.2. Một số tranh chấp cụ thể

2.2.1. Về xác định tài sản chung, riêng:
* Chưa thu thập đầy đủ chứng cứ dẫn đến không chính xác trong việc xác định
tài sản chung, riêng.
Ví dụ: Vụ án “xin ly hôn” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thuỳ Dương với
bị đơn là ông Đinh Trọng Nhơn (Đây), do TAND thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
xét xử sơ thẩm và TAND tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.
Tài sản hai bên tranh chấp là lô đất A21 có diện tích 112,3m2, đã được cấp giấy
chứng nhận QSD đất đứng tên ông Nhơn.

22


Tài liệu trong hồ sơ thể hiện: Bà Dương khai: ông Nhơn mua đất khi nào bà
không biết, chỉ khi trong nhà thiếu đi một khoản tiền mới biết là ông Nhơn lấy mua đất
nên nguồn tiền mua đất là của hai vợ chồng; ông Nhơn khai: nguồn tiền mua đất là
của bố mẹ ông, nhưng cũng có lúc ông khai lô đất này của bạn ông. Về phía bà Nga
(mẹ ông Nhơn) thì cho rằng vào năm 2003, bà bán một phần ngôi nhà của bà để mua
đất tại Tam Xuân, còn thừa 90.000.000 đồng nên bà nhờ con trai là ông Nhơn mua hộ
lô đất trên. Vì vậy bà Nga không đồng ý xác định lô đất nêu trên là tài sản chung của
bà Dương và ông Nhơn.
TAND thành phố Tam Kỳ quyết định không công nhận lô đất này là tài sản
chung của ông Nhơn và bà Dương; TAND tỉnh Quảng Nam (Bản án phúc thẩm số
19/2008/HNGĐ-PT ngày 19/11/2008) quyết định lô đất tranh chấp nêu trên là tài sản
chung của ông Nhơn và bà Dương.
Quyết định nêu trên của Toà án các cấp là chưa đủ căn cứ vì: Lời khai của các
đương sự là rất khác nhau về nguồn tiền mua đất nhưng tài liệu trong hồ sơ thể hiện
chưa bên nào xuất trình được đầy đủ chứng cứ chứng minh cho lời khai của mình.
Đúng ra trong trường hợp này Toà án các cấp phải lấy lời khai, thu thập thêm chứng
cứ để làm rõ thời điểm mua đất, mua của ai, quá trình sử dụng, đăng ký, kê khai. Về
nguồn tiền mua đất phải lấy lời khai và xác minh về nguồn tiền, thu nhập của bà

Dương và ông Nhơn; xác minh lời khai của bà Nga, ông Khôi (chồng bà Nga) về việc
bán đất, cũng như có việc mua đất ở Tam Xuân không? Mua với giá bao nhiêu, còn
thừa bao nhiêu tiền, và quan trọng hơn là có chứng cứ đưa tiền cho ông Nhơn mua
đất hay không, đưa bao nhiêu…cần cho đối chất để làm rõ.
Do Toà án các cấp chưa thu thập chứng cứ làm rõ các vấn đề nêu trên nên
quyết định của Toà án sơ thẩm cũng như phúc thẩm đều chưa đủ chứng cứ, dẫn đến
Bản án phúc thẩm nêu trên đã bị Chánh án TANDTC kháng nghị theo hướng huỷ Bản
án phúc thẩm, án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại.
* Chưa xem xét đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ của vụ
án, dẫn đến xác định là tài sản chung hay riêng chưa chính xác.
Ví dụ: Vụ án “Chia tài sản sau ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Bích
Thuỷ với bị đơn là anh Nguyễn Hoà Thuận, do TAND thành phố Rạch Giá xét xử sơ
thẩm, TAND tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm (Bản án phúc thẩm số 10/2008/DS-PT
ngày 27/03/2008).
Đối tượng tranh chấp là phần đất 360m2 (đo thực tế là 376,8m2), có nguồn gốc
của ông Trai và bà Xem (bố mẹ chị Thuỷ) cho chị Thuỷ.
23


Tài liệu trong hồ sơ thể hiện: Ngày 10/04/1998, ông Trai và bà Xem đã lập bản
di chúc chia cho chị thuỷ phần đất này. Từ năm 1998, chị Thuỷ đã cùng chồng là anh
Nguyễn Hoà Thuận xây dựng 02 căn nhà cùng các công trình phụ trên thửa đất này.
Năm 2002, ông Trai và bà Xem đã thay thế bản di chúc bằng việc lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất trên cho chị Thuỷ và anh Thuận. Theo đó,
Tại Mục giá bán trong hợp đồng có ghi “cha ruột chuyển cho con ruột”, mục bên
chuyển nhượng có chữ ký của ông Trai và bà Xem, bên nhận chuyển nhượng có chữ ký
của anh Thuận và chị Thuỷ. Hợp đồng đã được Uỷ ban Nhân Dân phường xác nhận
với nội dung: ông Trai cho chị Thuỷ; hợp đồng có ý kiến cho phép chuyển nhượng của
Phòng địa chính và Uỷ ban Nhân Dân thị xã Rạch Giá.
Ngày 24/08/2002, chị Thuỷ đã làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất đối với thửa đất trên và có đề mục tên người chồng là anh Nguyễn Hoà Thuận. Do
đó, ngày 13/01/2003 Uỷ ban Nhân Dân thị xã Rạch Giá đã cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đứng tên chị Thuỷ và anh Thuận. Sau khi nhận được giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đứng tên cả hai vợ chồng, chị Thuỷ cũng không có ý kiến gì.
Tại Bản án phúc thẩm số 10/2008/DS-PT ngày 27/03/2008, TAND tỉnh Kiên
Giang xác định diện tích đất nêu trên là tài sản riêng của chị Thuỷ (như án sơ thẩm).
Việc giải quyết nêu trên là Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm là không đúng
vì có cơ sở để xác định, mặc dù ông Trai, bà Xem chỉ cho riêng chị Thuỷ thửa đất này
như trình bày của ông Trai, bà Xem và chị Thuỷ, nhưng đến ngày 24/08/2002 chị Thuỷ
đã thể hiện ý chí sáp nhập thửa đất được cho riêng vào khối tài sản chung của vợ
chồng. Do đó, thửa đất có diện tích 376,8m 2 tại số 11A Trương Định, khu phố 5,
phường An Bình, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là tài sản chung của chị Thuỷ
và anh Thuận.
Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào mục giá chuyển
nhượng của hợp đồng có ghi “cha ruột chuyển cho con ruột” và phần ghi ý kiến của
Uỷ ban Nhân Dân phường, Công văn số 149/UBND-NCTH ngày 08/06/2007 của Uỷ
ban Nhân Dân thành phố Rạch Giá để xác định diện tích đất trên là tài sản riêng của
chị Thuỷ là chưa đánh giá toàn diện các tình tiết khách quan của vụ án.
Bản án nêu trên cũng đã bị Chánh án TANDTC kháng nghị, theo hướng huỷ
Bản án phúc thẩm, án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại. Tuy nhiên, do nguồn gốc
thửa đất này là của bố mẹ chị Thuỷ cho nên công sức đóng góp của chị Thuỷ nhiều
hơn, do đó tại kháng nghị, Chánh án TANDTC cũng đã lưu ý khi vụ án được xét xử lại
thì cần xem xét và chia cho chị Thuỷ phần nhiều hơn anh Thuận.
2.2.2. Chưa bám sát những nguyên tắc chia tài sản:
24


Để việc giải quyết vụ án đúng Pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các
đương sự thì ngoài việc xác định đúng khối tài sản chung của vợ chồng thì Toà án cần
phải lưu ý đến những nguyên tắc chia tài sản. Trong một số vụ án, Thẩm phán đã xác

định đúng khối tài sản chung của vợ chồng nhưng khi chia tài sản cụ thể thì một số
trường hợp vẫn có sai sót. Có trường hợp thì sai sót trong việc chia hiện vật, có trường
hợp sai sót trong việc đánh giá công sức đóng góp của mỗi bên vào khối tài sản chung.
Do đó, khi giải quyết quan hệ tài sản của vợ chồng cần xem xét toàn diện, có tính đến
hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc
tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; lao động của vợ, chồng trong gia đình
được coi như lao động có thu nhập; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản
xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu
nhập; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Sai sót cụ thể hay
gặp trên thực tế là việc chưa chú ý đến công sức đóng góp của các bên khi chia tài sản.
Ví dụ: Vụ án “Tranh chấp tài sản sau ly hôn” giữa nguyên đơn là bà Bùi Thị
Phái và bị đơn là ông Trần Đình Khiêm.
Tài sản tranh chấp trong vụ án này là phần đất có diện tích 132,2 m 2, trên đất
có 02 căn nhà cấp 4 toạ lạc tại 271 Phan Chu Trinh, thành phố Buôn Ma Thuột. Bà
Phái cho rằng, nhà là tài sản chung còn phần đất này là tài sản riêng cuả bà do bà
mua trước khi kết hôn với ông Khiêm. Ông Khiêm thì cho rằng nhà, đất đều là tài sản
chung của hai người vì ông có đóng góp tiền mua cùng bà Phái.
Hồ sơ vụ án thể hiện, ngày 01/01/1990 bà Bùi Thị Phái nhận chuyển nhượng lô
đất A19 có diện tích 250 m2, toạ lạc tại phường Thắng Lợi, thị xã Buôn Ma Thuột (nay
là số 271 Phan Chu Trinh, thành phố Buôn Ma Thuột) của bà Bùi Thị Toan với giá 16
chỉ vàng. Đến ngày 29/12/1990, bà Phái kết hôn với ông Trần Đình Khiêm. Sau khi kết
hôn hai người cùng xây nhà chung sống trên diện tích đất này.
Ngày 06/09/1999, bà Phái và ông Khiêm cùng viết “Giấy bán đất ở”, bán cho
vợ chồng ông Phan Bính ½ lô đất (diện tích 125m 2) nói trên. Diện tích đất còn lại, bà
Phái làm thủ tục kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ngày 15/09/2006,
Uỷ ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AG871092 cho hộ bà Bùi Thị Phái và chồng là Trần Đình Khiêm đối với diện
tích đất 132,2m2 tại số 271 Phan Chu Trinh, thành phố Buôn Ma Thuột. Sau khi được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tên ông Khiêm, bà Phái không có khiếu nại
(do bà đứng tên kê khai).

Tại Bản án sơ thẩm số 58/2008/DS-ST ngày 10/09/2008 của TAND thành phố
Buôn Ma Thuột; bản án phúc thẩm số 10/2009/DS-PT ngày 12/03/2009 của TAND
25


×