Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN Một số phương pháp dạy học môn mỹ thuật theo phương pháp đan mạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.15 KB, 24 trang )

Mã số:……

MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC MÔN MỸ THUẬT THEO PHƯƠNG

PHÁP ĐAN MẠCH CHO HỌC SINH LỚP 3

Lĩnh vực nghiên cứu: Mĩ thuật

Đakrông, năm 2018

1


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐAKRÔNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1 HƯỚNG HIỆP

MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC MÔN MỸ THUẬT THEO PHƯƠNG

PHÁP ĐAN MẠCH CHO HỌC SINH LỚP 3

Tên tác giả: Đỗ Tuấn Tài
Chức vụ: Giáo viên
Lĩnh vực nghiên cứu: Mĩ thuật

Đakrông, năm 2018

2


MỤC LỤC
Các phần chính


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

Trang
1
1
2
2
2
3
3
3
3

1.1 Những định hướng và mục tiêu giáo dục Mĩ thuật bậc Tiểu học:

4

1.2. Một số vấn đề về phương pháp dạy học Mĩ thuật theo phương
pháp mới
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC BỘ MÔN MĨ
THUẬT TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1 HƯỚNG HIỆP

2.1 Thuận lợi – Khó khăn.
2.2 Thực trạng vấn đề cần nghiên cứu.
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
3.1. Các giải pháp
Giải pháp 1: Vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới phù hợp với
khả năng nhận thức của học sinh
Giải pháp 2: Giáo viên tổ chức hoạt động dạy học thiết kế sáng tạo và
linh hoạt ở một số hoạt động dạy học:

4

Giải pháp 3: Khắc phục cơ sở vật chất đồ dùng học tập cho môn học.
Hình thành thói quen làm việc cho học sinh.
Giải pháp 4 : Luôn phối kết hợp tạo sân chơi để học sinh thực hiện, tạo
hứng thú học tập cho học sinh thông qua các hoạt động thi đua, trò
chơi.
Giải pháp 5: Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên các môn
học khác tăng cường sự tuyên truyền đến phụ huynh và cộng đồng
3.2. Kết quả thực hiện
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2 Kiến nghị

3

5
5
6
7
7

7
10
13
14
17
17
19
19
19


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môn Mĩ thuật là một môn học có vai trò quan trọng trong chương trình
giáo dục tiểu học. Qua môn học, học sinh biết cách cảm thụ cái đẹp, yêu cái đẹp
từ đó biết cách rèn luyện đôi bàn tay trí tưởng tượng của mình để tạo ra cái đẹp
qua việc phát huy tính sáng tạo, tính độc lập của mình. Môn Mĩ thuật đã góp
phần cùng với các môn học khác giáo dục học sinh phát triển toàn diện về Đức Trí - Thể - Mỹ. Việc dạy mĩ thuật trong nhà trường phổ thông nói chung và ở
bậc tiểu học nói riêng không nhằm mục đích đào tạo học sinh thành những hoạ
sĩ hay những nhà nghiên cứu nghệ thuật chuyên nghiệp mà là để giáo dục cho
các em thị hiếu thẩm mĩ cần thiết cho việc hình thành và phát triển một nhân
cách toàn diện, hài hoà đó là khả năng biết cảm nhận và biết tạo ra cái đẹp trước
hết là cho chính các em sau là cho gia đình và xã hội.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy của đồng nghiệp và cùng với quá trình
giảng dạy của bản thân, đặc biệt là việc từng bước đổi mới phương pháp dạy
học, tôi luôn đặt cho mình mục tiêu là phải làm gì để thực hiện yêu câu đổi mới
nhằm nâng cao chất lượng bài dạy của mình ngoài phát triển về năng lực cảm
thụ thẩm mĩ, năng lực tư duy, trí tưởng tượng của mình, các em còn có nhiều cơ
hội tương tác, hợp tác phát triển các kĩ năng thái độ về giao tiếp, phương pháp
trình bày tạo niềm tin. Qua đó các em học sinh cảm nhận được một cách sâu sắc

về vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, phát huy được trí tưởng tượng và sự sáng
tạo, hình thành thị hiếu thẩm mỹ, hoàn thiện nhân cách thông qua nội dung các
bài học mĩ thuật.
Thực tế chúng ta nhận thấy học sinh tiểu học rất ham thích học vẽ. Nếu
như chúng ta xây dựng cho các em có ý thức học tập tốt tạo ra không khí thoải
mái “vui mà học - học mà vui” thì sẽ đạt được hiệu quả tốt nhất. Cũng như các
đơn vị trường tiểu học khác trên địa bàn huyện, phương pháp dạy học mĩ thuật
mới được áp dụng vào giảng dạy ở trường Tiểu học số 1 Hướng Hiệp từ năm
học 2016 - 2017. Mục tiêu của phương pháp dạy học mĩ thuật mới này hướng
nhiều đến khả năng sáng tạo, tư duy của học sinh, đáng kể nhất là rèn được
nhiều kỹ năng quan trọng cho học sinh như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống, kỹ
năng hợp tác… Việc dạy học mĩ thuật theo phương pháp của Đan Mạch giúp
giáo viên nói chung và giáo viên dạy mĩ thuật nói riêng nhận thức được: Dạy
học mĩ thuật trong nhà trường thông qua các hoạt động tạo hình để khơi gợi và
phát huy khiếu thẩm mỹ vốn có ở trẻ, gây hứng thú cho các em trước cái đẹp
tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mỹ của riêng mình trong cuộc sống hằng
ngày. Việc dạy học mĩ thuật theo phương pháp của Đan Mạch nhằm truyền cảm
hứng cho giáo viên dạy mĩ thuật, khuyến khích giáo viên kết hợp các kỹ năng mĩ
thuật với các phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm, khuyến khích
sự tương tác, kích thích tư duy sáng tạo, kích thích phát triển nhận thức qua hoạt
động thực tế. Trên cơ sở lý thuyết giáo dục và giảng dạy mĩ thuật, giáo viên sẽ tổ
chức dạy cho các em học mĩ thuật qua các hoạt động Vẽ cùng nhau, Vẽ theo
nhạc, Vẽ biểu đạt, tạo hình 3D từ các vật tìm được, Xây dựng cốt truyện... Đây
4


là một chương trình giáo dục mĩ thuật tiểu học năng động, phát huy, rèn luyện
được nhiều kỹ năng cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng sống, một sự thay đổi lớn
cả về phương pháp lẫn mục tiêu giáo dục của bộ môn Mĩ thuật ở tiểu học. Ngoài
việc thay đổi nội dung phân phối chương trình, sự thay đổi hình thức tổ chức lớp

học phần lớn được thông qua hoạt động nhóm thì vấn đề để học sinh tiếp thu
được kiến thức, phát triển tư duy, sáng tạo ra những sản phẩm mĩ thuật là một
trong những vấn đề trọng tâm khiến giáo viên không khỏi tránh được những khó
khăn, vướng mắc. Vì theo phương pháp mới, mỗi chủ đề sẽ thực hiện bằng
nhiều quy trình mĩ thuật khác nhau, giáo viên hoàn toàn không hướng dẫn học
sinh thực hành mà chủ yếu do học sinh tự tìm hiểu vấn đề, đề ra cách giải quyết.
Có thể nói ưu điểm của phương pháp dạy học mới Đan Mạch là tích cực, mà ở
đó học sinh chủ động, tự lực khai thác tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Các phương pháp dạy học mới được triển khai đã kích thích sự say mê, hứng thú
trong học tập, bồi dưỡng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tư duy
và trí tưởng tượng của học sinh.
Mặc dù vậy, phương pháp dạy học mĩ thuật mới được áp dụng trên toàn
huyện nhưng còn khá nhiều điểm giáo viên băn khoăn, lúng túng, không biết
thực hiện như thế nào cho đúng tinh thần đổi mới, cho đạt hiệu quả, cách thực
hiện các quy trình sáng tạo vẫn là những băn khoăn lớn của mỗi giáo viên
chuyên trách khi giảng dạy. Qua các đợt tập huấn và dự giờ thực tế, có thể nói
hình thức tổ chức của phương pháp mới này còn khá mới mẻ với đại đa số giáo
viên chuyên trách. Chính từ những trăn trở này, tôi đã tiến hành nghiên cứu và
thực hiện đề tài: “Một số giải pháp dạy học môn Mĩ thuật theo phương pháp
Đan Mạch cho học sinh lớp 3”
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
- Tôi suy nghĩ, nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm này với mục đích
tìm ra một số giải pháp giải pháp dạy học tốt môn Mĩ thuật theo phương pháp
Đan Mạch cho học sinh lớp 3 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ
thuật.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu :
- Xây dựng được phương hướng thiết kế giảng dạy cho giáo viên đối với
phân môn Mĩ thuật
- Xây dựng cách thức tổ chức các hoạt động tạo hứng thú tăng cường khả

năng sáng tạo cho học sinh trong giờ dạy phân môn Mĩ thuật
3. Đối tượng nghiên cứu
- Một số giải pháp dạy học môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch cho
học sinh lớp 3.
4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
- Học sinh khối 3 trường Tiểu học số 1 Hướng Hiệp.
5


- Một số giải pháp dạy học môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch cho
học sinh lớp 3.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Nghiên cứu các nguồn tài liệu như: sách, giáo trình, báo, tạp chí, kinh
nghiệm từ đồng nghiệp…
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp trực quan, quan sát sư phạm, minh họa
- Điều tra phỏng vấn tình hình học sinh
- Dự chuyên đề trao đổi, dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy
môn Mĩ thuật
- Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới
- Tìm giải pháp rút kinh nghiệm
- Cho học sinh hoạt động ngoài trời, thăm quan, toạ đàm
- Phương pháp thực nghiệm dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp
mà mình đề ra
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
a. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu là:
- Tìm hiểu quá trình dạy và học bộ môn Mĩ thuật ở lớp Ba.
- Tìm hiểu những vấn đề cơ bản thường gặp, những tình huống, ưu điểm,

hạn chế qua quá trình dạy và học bộ môn Mĩ thuật áp dụng phương pháp mới ở
khối 3, trường Tiểu học số 1 Hướng Hiệp
b. Kế hoạch nghiên cứu
- Từ năm học 2016 - 2017 đến tháng 4 năm học 2017 – 2018
- Thu thập nghiên cứu tài liệu
- Xác định vấn đề nghiên cứu
- Xây dựng kế hoạch nghiên cứu
- Thiết kế các câu hỏi để khảo sát điều tra
- Tiến hành khảo sát điều tra
- Xử lý số liệu
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

6


1.1 Những định hướng và mục tiêu giáo dục mĩ thuật bậc Tiểu học
Với sự phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi
những con người năng động sáng tạo để đáp ứng với tình hình đổi mới của đất
nước, nhà nước ta ban hành Luật giáo dục “Khẳng định mục tiêu giáo dục toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản trên cơ sở của
mục tiêu đó nhiệm vụ trọng tâm là dạy đủ các môn học bắt buộc và triển khai
đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có môn Mĩ thuật.
Luật Giáo dục điều 24.2 đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh". Đồng thời còn nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục Tiểu
học nhằm giúp cho học sinh những cơ sở ban đầu nhưng rất quan trọng cho sự
hình thành và phát triển nhân cách một con người, chuẩn bị tốt cho các em về

các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao động để học sinh tiếp tục học
lên trung học hoặc đi vào cuộc sống tùy theo nhu cầu và nguyện vọng bằng
những hình thức thích hợp”. Điều này khẳng định giáo dục thẩm mĩ trong
trường tiểu học là một nội dung có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các mặt giáo
dục khác, tạo nên sự hoàn thiện trong việc phát triển nhân cách của học sinh.
Chính vì vậy việc giáo dục và bồi dưỡng cho học sinh có trình độ văn hoá thẩm
mĩ phổ thông là hết sức cần thiết.
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai Dự án Hỗ trợ
giáo dục mĩ thuật cấp tiểu học (SAEPS) thử nghiệm tại các trường tiểu học ở
một số tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng miền trên cả nước.
Năm học 2014 - 2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển khai phương
pháp dạy - học mĩ thuật mới sử dụng những quy trình dạy - học mĩ thuật của
SAEPS ở tất cả trường tiểu học trên toàn quốc. Theo đó, năm học 2015 – 2016
Bộ Giáo dục & đào tạo tiếp tục chỉ đạo các trường: Tiếp tục triển khai thử
nghiệm dạy học mĩ thuật theo phương pháp mới tại các trường tiểu học. Từ năm
học 2016 – 2017 phòng Giáo dục và Đào tạo Đakrông đã chỉ đạo các trường tiểu
học áp dụng phương pháp dạy học mĩ thuật Đan Mạch vào giảng dạy, và năm
học 2017 – 2018 là năm học tiếp tục học theo phương pháp dạy học mĩ thuật
mới – phương pháp mĩ thuật Đan Mạch.
Qua sự chỉ đạo trực tiếp của nhà trường cùng sự kết hợp tổ khối và sự phối
hợp với các đồng nghiệp tại cơ sở đó là động lực để bản thân thực hiện đề tài
này.
1.2. Một số vấn đề về phương pháp dạy học mĩ thuật theo phương pháp
mới
7



* Về mục tiêu: Mục tiêu chính của phương pháp này nhằm giúp học sinh
hình thành và phát triển các năng lực:
+ Năng lực trải nghiệm: Cho các em được làm việc với những chủ đề liên
quan đến kinh nghiệm đã có của bản thân.
+ Năng lực kỹ năng và kỹ thuật thông qua các hoạt động : Vẽ cùng nhau,
chân dung biểu đạt, vẽ theo nhạc, tạo hình từ vật tìm được, nặn hoặc uốn tạo
dáng, xây dựng cốt truyện (xây dựng bối cảnh câu chuyện).
+ Năng lực biểu đạt: Có nghĩa là học sinh ứng dụng ngôn ngữ mĩ thuật để
diễn đạt sự trải nghiệm và thái độ của bản thân.
+ Năng lực phân tích và trình bày: Thông qua các hoạt động trình bày về tác
phẩm của mình, tham gia giải thích, phân tích, nhận xét về nghệ thuật, kỹ thuật
thể hiện tác phẩm.
+ Năng lực giao tiếp và đánh giá: Học sinh tham gia giao tiếp, thảo luận và
đánh giá tất cả các hoạt động trong tiết mĩ thuật, đánh giá những gì đã làm được,
có như mong muốn hay không.
* Nội dung chương trình: Điểm nổi bật của phương pháp dạy học này là
giáo viên có thể chủ động theo từng nội dung tiết dạy mà kết hợp nhiều kỹ thuật
trong một bài dạy. Nội dung chương trình giáo dục mĩ thuật theo phương pháp
mới không theo trình tự các bài như chương trình hiện hành, mà giáo viên căn
cứ vào đó để xây dựng các chủ đề cho phù hợp. Mỗi chủ đề tạo thành một quy
trình mỹ thuật tương tác và tích hợp giữa 5 nội dung: Vẽ theo mẫu, Vẽ trang trí,
Vẽ tranh, Tập nặn tạo dáng, Thường thức Mỹ thuật. Mỗi chủ đề sẽ lồng ghép
giáo dục nhiều mục tiêu và được thực hiện ít nhất là 2 tiết, nhiều nhất là 5 tiết
hoặc cũng có thể hơn.
* Các quy trình mĩ thuật: Trên cơ sở lý thuyết giáo dục và giảng dạy mĩ
thuật, giáo viên sẽ tổ chức dạy cho các em học mĩ thuật qua các hoạt động Vẽ
cùng nhau, Vẽ theo nhạc, Vẽ biểu đạt, tạo hình 3D từ các vật tìm được, Xây
dựng cốt truyện... Thông qua các hoạt động tạo hình sẽ khơi gợi và phát huy
được năng khiếu thẩm mỹ vốn có ở trẻ, gây hứng thú cho các em trước cái đẹp,
tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mỹ của học sinh trong cuộc sống. Hoạt động

giáo dục mĩ thuật còn góp phần đem lại nhận thức mới, niềm vui, hứng thú và
sáng tạo học tập cho trẻ. Việc sử dụng nền nhạc trong các hoạt động mĩ thuật
cũng tạo cho học sinh hứng thú, không khí lớp học vui vẻ, thân thiện.
* Hình thức tổ chức của lớp học: Hình thức tổ chức lớp học chủ yếu là
thực hành theo nhóm, cần không gian rộng để học sinh có thể vận động và di
chuyển. Phải có nơi trưng bày tranh, sản phẩm để học sinh dễ dàng quan sát,
nhận xét, đánh giá.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC BỘ MÔN MĨ
THUẬT TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1 HƯỚNG HIỆP
2.1 Thuận lợi và khó khăn.
a. Thuận lợi:
8


- Giáo viên dạy mĩ thuật luôn được sự quan tâm của Ngành cấp trên, đặc biệt
là Ban Giám hiệu nhà trường. Hằng năm giáo viên được bồi dưỡng về nghiệp vụ
chuyên môn do các cấp tổ chức (cấp Tỉnh, Phòng Giáo dục, nhà trường tổ chức)
- Tài liệu dạy học mĩ thuật tương đối đầy đủ hướng dẫn từng quy trình dạy
học cô động, dễ hiểu tạo thêm sự tự tin cho giáo viên.
- Giáo viên đạt chuẩn về trình độ quy định yêu nghề nhiệt tình, chủ động
trong nhiệm vụ được giao của mình (Giảng dạy môn Mĩ thuật ).
b. Khó khăn.
- Việc học tập mĩ thuật theo chủ đề không có được phòng riêng nên ảnh
hưởng đến các sản phẩm khi các em thực hiện xong tiết học
- Việc tiếp cận với phương pháp mới ban đầu còn lúng túng khi thực tế thực
hiện giảng dạy hàng ngày và những tình huống sư phạm xảy ra với người giáo
viên. Phương pháp mới nên giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm. Thời gian đầu
tư cho môn học còn hạn chế, việc tiếp cận những phương pháp dạy học mới
chưa nhiều, tính đồng bộ phối hợp với các môn học khác chưa cao.
- Việc học sinh đi lại về mùa mưa khó khăn bởi giao thông vùng núi đường

sá chưa thuận tiện, đồ dùng học tập của một số em chưa đầy đủ.
2.2 Thực trạng vấn đề cần nghiên cứu.
a. Về cơ sở vật chất :
Tuy nhà trường đã có rất nhiều cố gắng nhưng cơ sở vật chất trang thiết bị
dạy học đối với môn Mĩ thuật còn nhiều thiếu thốn cụ thể như:
Chưa có phòng chức năng để thực hiện giảng dạy và bảo quản vật dụng sau
khi học sinh học xong tiết thứ nhất.
Các vật dụng làm mẫu, để học sinh quan sát, nhận biết và chia sẻ chưa nhiều
và phong phú.
b. Về con người:
Học sinh vùng sâu nên việc tiếp thu kiến thức và thực hiện còn nhiều hạn
chế. Ít được tiếp xúc với các sân chơi thiếu nhi về vẽ tranh, làm các mô hình
sáng tạo.
Giáo viên kinh nghiệm giảng dạy còn ít. Dạy học theo phương pháp mới có
những khó khăn nhất định đòi hỏi người giáo viên phải thực sự tìm tòi, chuẩn bị
chu đáo, chủ động vận dụng linh hoạt vào từng bài học khác nhau, nhằm thu hút
sự tham gia của tất cả các em học sinh.
Học sinh bước đầu thực hiện phương pháp học mới sẽ gặp lúng túng trong
việc trao đổi nội dung để thống nhất chủ đề vẽ tranh phác họa bố cục các mảng
chính trước khi vẽ họa tiết.
Bảy quy trình dạy – học mĩ thuật chủ yếu là đề cao khả năng tự học của học
sinh, nhưng để thực hiện được một quy trình các em phải chuẩn bị rất nhiều vật
dụng như: giấy A0, A4, giấy bồi, kẽm, băng keo, hộp giấy, vật dụng tìm được…
9


Điều này quả là khó khăn cho cả giáo viên và học sinh vùng sâu, vùng xa. Khi
thực hiện giảng dạy theo những quy trình này không phải học sinh nào cũng sẵn
sàng sáng tạo khi mà bản thân chưa hiểu, chưa nắm được cách vẽ, cách thể hiện
qua các đường nét, màu sắc…để đạt yêu cầu bài học. Học sinh chưa phát huy

được sự sáng tạo, chưa mạnh dạn tham gia các hoạt động trên lớp. Từ khi vận
dung phương pháp dạy học theo phương pháp mới Đan Mạch bước đầu đã có
được những khởi sắc nhất định, nhưng trong thực tế khi thực hiện thì khó khăn.
Việc dạy học theo chủ đề tiếp cận phương pháp mới còn hạn chế. Giáo viên
chưa đầu tư nghiên cứu nhiều về phương pháp, việc tuyên truyền đến phụ huynh
và cộng đồng chưa nhiều nên ảnh hưởng tới chất lượng học tập học sinh, qua
nhận xét đánh giá hằng ngày hàng tháng và bảng tổng hợp nghiên cứu ghi lại sau
đây có kết quả như sau :
TSHS

KIẾN THỨC – KỸ NĂNG : TS / TỶ LỆ
Hoàn thành các nội
dung của môn học.

Hoàn thành tốt các
nội dung của môn
học, có sáng tạo.

Hoàn thành tốt các nội dung
của môn học, tạo hình đẹp,
sinh động.

45 em

13 em

12 em

64,3%


18,6%

17,1%

70

Qua bảng tổng hợp trên ta thấy tất cả mọi chỉ số yêu cầu của môn học đạt
chưa cao. Điều đó đặt ra nhiệm vụ cho người giáo viên một trách nhiệm thách
thức và cũng là một trải nghiệm quyết tâm để tôi thực hiện nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch qua thời gian thực
hiện tôi đã thực hiện một số biện pháp như sau:
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
3.1. Các giải pháp
Giải pháp 1: Vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới phù hợp với khả
năng nhận thức của học sinh
Như chúng ta đã biết bảy quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới bao gồm:
Quy trình Vẽ cùng nhau và sáng tạo các câu chuyện; Quy trình Vẽ biểu cảm;
Quy trình trang trí và vẽ tranh qua âm nhạc; Quy trình Xây dựng cốt truyện;
Quy trình Tạo hình 3D – Tiếp cận theo chủ đề (tạo hình từ vật tìm được); Quy
trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình không gian; Quy trình Tạo hình con rối và
biểu diễn nghệ thuật.
Trong các quy trình dạy học mĩ thuật sáng tạo, giáo viên phải luôn chỉ ra cho
học sinh thấy rằng sẽ có vô vàn cách thức biểu đạt khác nhau chứ không phải chỉ
có một cách duy nhất. Những quy trình dạy học mĩ thuật này không phải là công
thức cố định mà chúng ta phải làm theo. Những quy trình này tạo cảm hứng cho
giáo viên và nó còn có thể điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh và
điều kiện thực tế tại địa phương. Giáo viên có thể phát triển khả năng của học
10



sinh ở các mức độ khác nhau trong các quy trình này như khả năng trải nghiệm,
sáng tạo, biểu đạt, giao tiếp và đánh giá. Với bất kì quy trình dạy học mĩ thuật
nào, giáo viên cũng cần quan tâm đến việc dẫn dắt học sinh trao đổi, thảo luận
trong suốt quy trình với các hoạt động học như thế nào và trưng bày tác phẩm
hoàn thành ra sao. Cùng lúc với việc phát triển những khả năng nói trên, học
sinh cũng có thể phát triển các giác quan, các kỹ năng sống, các năng lực hợp
tác, kinh nghiệm và khả năng giải quyết vấn đề, năng lực tự học và tự đánh giá.
Giáo dục mĩ thuật giúp học sinh có khả năng khám phá ra năng lực của mình
thông qua các phương tiện khác nhau cũng như trải nghiệm những niềm vui
thích khi tạo ra những sản phẩm, những biểu đạt mang tính độc lập và đặc sắc
của mình. Điều này giúp học sinh có thể sử dụng và ứng dụng ngôn ngữ mĩ thuật
để có thể biểu đạt kinh nghiệm và thái độ của các em bằng nhiều cách khác nhau
cụ thể qua năng lực giao tiếp được phát triển thông qua việc thảo luận, làm việc
nhóm và năng lực đánh giá được phát triển qua quá trình quan sát, trải nghiệm
và thưởng thức các sản phẩm mĩ thuật do chính các em tạo nên.
Sản phẩm mĩ thuật của các em từ việc vẽ, xây dựng câu chuyện... tạo cho
các em phương thức tư duy hình ảnh liên hệ thực tế, tự tin diễn thuyết tăng khả
năng ngôn ngữ biểu cảm vốn sống thực tế của các em, giúp phát triển ở học sinh
các khả năng giao tiếp và hợp tác, đóng kịch, di chuyển vị trí nhân vật trong
tranh, nhân cách hoá hình ảnh, hoặc vẽ lại một tác phẩm nghệ thuật. Mỗi nhóm
học sinh trình bày câu chuyện của mình giống như một vở kịch ngắn. Tuy nhiên,
do cơ sở vật chất, không gian học tập, khả năng nhận thức của học sinh lớp Ba
chưa thể đáp ứng được yêu cầu khi dạy theo phương pháp mới nên giáo viên chỉ
có thể áp dụng 5 quy trình, còn 2 quy trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình
không gian, Tạo hình con rối và biểu diễn nghệ thuật chỉ có thể thực hiện ở các
khối lớp 4,5. Cụ thể thực hiện các quy trình như sau:
- Vẽ cùng nhau:
Quy trình này có 6 hoạt động: vẽ quan sát, trưng bày ngân hàng hình ảnh,
sáng tác tranh theo chủ đề, chia sẻ nội dung câu chuyện, tô màu làm phong phú
câu chuyện, tổ chức trưng bày và thuyết trình về bức tranh học sinh biến những

quan sát của mình thành các bức vẽ cá nhân. Tất cả các bài vẽ cá nhân sẽ là ngân
hàng hình ảnh của nhóm để các em lựa chọn, sắp xếp theo một câu chuyện và vẽ
cùng nhau, tạo thành một tác phẩm lớn hơn. Khi tạo ngân hàng hình ảnh, các em
sẽ vẽ vào vở khổ giấy A4. Đối với điều kiện không gian phòng học còn chật hẹp
chúng ta có thể cho học sinh vẽ ở ngoài sân trường hoạt động này không chỉ tạo
hứng thú cho học sinh mà còn mang tính giáo dục cao học sinh sẽ có điều kiện
để áp dụng những hoạt động tạo dáng kí họa thực tế trong cuộc sống với không
gian thoải mái. Mặt khác đối với học sinh miền núi như ở trường Tiểu học số 1
Hướng Hiệp điều kiện kinh tế nhiều học sinh còn khó khăn nên việc chuẩn bị
giấy vẽ A4 nhiều khi chưa đáp ứng được nhu cầu học tập. Để khắc phục vấn đề
này, giáo viên nên kêu gọi sự hỗ trợ của các đồng nghiệp, văn phòng trong nhà
trường, thu gom các giấy khổ A4 đã qua sử dụng in 1 mặt cho học sinh vẽ vừa
không để lãng phí vừa giúp ích rất nhiều cho các em.
11


- Vẽ biểu cảm: Học sinh sẽ tập trung quan sát, sử dụng kết hợp mắt và tay,
vẽ không nhìn giấy. Học sinh thường sợ vẽ không đúng, không đẹp nên hay lén
nhìn giấy, nên giáo viên cần lưu ý ngay từ đầu rằng, mục đích không phải vẽ cho
đúng với mẫu mà chúng ta quan sát, ghi nhớ và truyền cảm xúc qua tay, thể hiện
lên giấy tạo ra bức vẽ ấn tượng và hài hước. Điều quan trọng là giáo viên phải
duy trì được không khí tập trung trong suốt hoạt động này và hổ trợ các em khi
gặp khó khăn. Đồng thời giáo viên cần khuyến khích, tuyên dương các em học
sinh vẽ đúng yêu cầu của phương pháp, không nhìn giấy khi vẽ để các em còn
lại cố gắng thực hiện theo.
- Vẽ theo nhạc: Khi vẽ theo nhạc giáo viên tổ chức cho học sinh đứng xung
quanh mép bàn theo từng nhóm khoảng 5 em trở lên, trước mỗi học sinh là một
bảng màu. Giáo viên lựa chọn nhạc (nhạc không lời, nhạc thiếu nhi, nhạc sôi
động..), tuy nhiên tùy theo tình hình thực tế có thể dùng nhạc có lời, tiếng vỗ tay,
nghe hát…từ nhẹ nhàng chuyển sang nhanh, mạnh, sôi nổi và ngược lại. Học

sinh lắng nghe và cảm nhận giai điệu, vẽ theo hướng dẫn của giáo viên: thứ tự
các màu từ sáng sang đậm. Ví dụ: Theo thứ tự vàng, cam, đỏ, xanh… và kết thúc
bằng màu nâu, đen và ngược lại. Sau khi hoàn thành bức tranh lớn, mổi học sinh
dùng một khung giấy theo các hình tùy ý được trổ từ khổ giấy A4 và dịch
chuyển trên bức tranh lớn để tìm kiếm phần màu sắc, đường nét mình thích rồi
dán khung giấy vào vị trí đó trên bức tranh lớn học sinh tưởng tượng và lần lượt
kể trước lớp về câu chuyện trong bức tranh mình đã lựa chọn. Giáo viên có thể
khuyến khích và hổ trợ học sinh giúp các em có thể tưởng tượng.
Quy trình nên được thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo khi lựa chọn màu sắc,
cỡ giấy và thể loại âm nhạc. Điều quan trọng là giáo viên xây dựng kế hoạch,
thực hiện và đánh giá quy trình mỹ thuật này tùy vào khả năng của học sinh, vật
liệu sẵn có và tùy vào địa phương, tùy vào độ tuổi, năng lực của học sinh. Học
sinh có thể vẽ thêm vào bức tranh lớn để làm nổi bật nội dung chủ đề hoặc bỏ
bớt các chi tiết, để cuối cùng tác phẩm đạt được theo trí tưởng tượng của mình
có thể là: bưu thiếp, thiệp mừng, bìa sách, họa tiết trang trí đồ vật, tranh đề tài…
- Quy trình Tạo hình 3D – Tiếp cận theo chủ đề (tạo hình từ vật tìm
được):
Nói rõ hơn có nghĩa là tạo hình bằng lắp ghép, trang trí từ những vật liệu phế
thải, uốn dây thép và giấy bồi… thông qua sự liên tưởng về thế giới xung quanh
để tạo thành các tác phẩm biểu đạt hai chiều hoặc ba chiều. Đối với học sinh lớp
Ba, quy trình tạo hình bằng dây thép là khó thực hiện được vì các em chưa thể
sử dụng kìm cắt, uốn dây thép theo ý muốn mà chỉ có thể tạo hình từ vật phế
thải ở một số chủ đề như Ngôi nhà của em, Em sáng tạo với đồ vật...Tuy nhiên
giáo viên cũng nên giới thiệu về cách thực hiện và sáng tạo với dây thép để học
sinh có điều kiện làm ở nhà với sự hỗ trợ từ phụ huynh và phụ huynh tham gia
vào thu thập vật liệu tìm được. Khi giáo viên thực hiện việc tìm vật liệu cho học
sinh lớp Ba cần chú ý tùy điều kiện của học sinh và những vật liệu dể kiếm ở địa
phương cụ thể:
Loại vật liệu nào có thể sẵn có?
Loại nào phù hợp sử dụng theo từng lứa tuổi ở lớp Ba?

Cái gì khó, nguy hiểm cho học sinh?
12


Cái gì dễ tìm?
- Xây dựng cốt truyện: Khi chọn nội dung để xây dựng cốt truyện, giáo
viên cần lưu ý về nhân vật, bối cảnh, sự kiện…chủ đề của tình huống câu
chuyện là dựa trên những gì có thật, có thể đánh thức trí tò mò và sự thu hút
tham gia tìm hiểu của học sinh nội dung câu chuyện có thể được điều chỉnh sao
cho phù hợp với lứa tuổi, sỏ thích của học sinh cũng như nội dung của bài học.
Đối với học sinh lớp Ba thì tình huống truyện phải dễ hình dung, gần gũi và
quen thuộc dễ trình bày để học sinh có thể sắm vai, đóng kịch và xây dựng ố
cảnh bằng hình thức vẽ, cắt dán, xé dán, tạo hình 2D,…Ví dụ một số nội dung
như: Thiên nhiên, nhà cửa, quần áo, đồ dùng hay các con vật...
Giải pháp 2: Giáo viên tổ chức hoạt động dạy học thiết kế sáng tạo và
linh hoạt ở một số hoạt động dạy học:
a. Giới thiệu bài phong phú, đa dạng để lôi cuốn học sinh tham gia tích
cực vào tiết học.
Nhiều giáo viên quan niệm: Giới thiệu chỉ cần ngắn gọn, cứ nêu ngay tên bài
là xong mà chưa chú ý nhiều đến tác dụng giáo dục của việc này. Nếu làm phép
thử nghiệm để so sánh giữa hai hình thức giới thiệu bài trực tiếp và giới thiệu
bài gián tiếp sẽ thấy rõ ngay hiệu quả như thế nào. Ví dụ khi giới thiệu chủ đề 8
lớp 3 “Trái cây bốn mùa”
+ Cách 1:
- Giới thiệu trực tiếp: Hôm này thầy và các em cùng tìm hiểu về chủ đề Trái
cây bốn mùa
- Hiệu quả: Học sinh nắm được tên bài học. Không khí lớp học không thay
đổi, học sinh chăm chú nghe nhưng chưa nắm được thêm bất cứ kiến thức gì
ngoài tên bài.
+ Cách 2:

- Giới thiệu gián tiếp: Giáo viên tổ chức trò chơi
- Trò chơi: Ai nhanh hơn. Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ nhiều
loại quả. Học sinh dưới lớp hát một bài quả gì. Khi hát hết bài thì các đội thi vẽ
phải ngừng tay. Đội nào có học sinh vẽ nhanh, vẽ nhiều loại quả (hoặc tranh đẹp
nhất) là đội thắng cuộc… Kết thúc trò chơi, giáo viên giới thiệu: Đây là những
loại quả trái cây quen thuộc. Để giúp các em có thể tạo hình được những loại
quả mà mình thích, cũng như hiểu thêm các loại quả các mùa khác nhau hôm
nay cô và các em cùng tìm hiểu qua chủ đề “Trái cây bốn mùa”.
Hiệu quả: học sinh nắm được tên bài học, biết được những loại quả trái cây,
không khí lớp học sinh động, học sinh thích thú khi được tham gia trò chơi. Vậy
nên giáo viên cần chú ý giới thiệu bài thông qua nhiều hình thức như: thông qua
trò chơi, hát một bài hát kể một câu chuyện nhỏ, một tình huống hay đóng vai,
tạo dáng, trải nghiệm thực tế…vừa tạo hứng thú học tập cho học sinh vừa cung
cấp kiến thức một cách dễ hiểu nhất.
13


Chính vì vậy khi giới thiệu bài, giáo viên nên tạo không khí phấn khởi cho
giờ học, thu hút sự chú ý, tạo tâm lý chờ đón, hồi hộp cho học sinh, không nên
“đi ngay” vào nội dung.
b. Xây dựng các nội dung giúp học sinh trải nghiệm.
Khi học sinh tiếp thu kiến thức qua các hoạt động giáo viên không nên sử
dụng hình thức thuyết giảng mà nên dạy học tích cực, dạy học tương tác, lý
thuyết gắn với thực hành. Học sinh được nói, được làm và vận dụng ngay thì sẽ
dễ dàng tiếp thu kiến thức và nhớ lâu bền. Trong giáo dục mĩ thuật, học sinh
được phát triển không ngừng và có sự khác biệt ở mỗi em về khả năng quan sát,
trí tưởng tượng, trí nhớ, cách thức thể hiện con người, con vật, đồ vật về hình
dáng, đặc điểm, cấu trúc, tỉ lệ...Học sinh được kích thích thông qua các khả năng
của bản thân cũng như trải nghiệm với người khác như: những thành viên trong
gia đình, bạn bè và thậm chí những người mới quen biết, với con vật yêu thích,

đồ vật thân quen. Học sinh bị ảnh hưởng thông qua tiếp xúc với sự vật, hiện
tượng xung quanh thông qua các kênh thông tin như: ti vi, tạp chí, sách vở,
truyện tranh, quảng cáo, internet và các tác phẩm điêu khắc công cộng. Dần dần
học sinh nhận biết được những cách thức thể hiện hình ảnh con người khác nhau
về hình dáng, cấu trúc, tỉ lệ như: phác họa con người, biểu cảm của nhân vật,
biểu tượng người khái quát... Do đó việc để học sinh trải nghiệm rất quan trọng,
tùy theo từng chủ đề mà giáo viên lựa chọn các hoạt động cho phù hợp giúp học
sinh nhớ lại kiến thức, những kỷ niệm và tưởng tượng, đồng thời cho các em cơ
hội chia sẻ những gì các em đã biết khi trình bày về sở thích, mối quan tâm, mơ
ước hay ý tưởng. Qua quá trình này học sinh sẽ có được những kiến thức thực tế
để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tò mò, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát
triển sức sáng tạo và biểu đạt thông qua việc được nghe kể chuyện, chia sẻ
những trải nghiệm của bản thân về chủ đề liên quan, xem tranh ảnh, hoặc tổ
chức các trò chơi phù hợp với từng lớp học.
Ví dụ: Ở chủ đề con vật quen thuộc giáo viên nên tổ chức cho học sinh kể
về con vật em thích nhất (hình dáng, màu sắc, đặc điểm nổi bật…). Hay chủ đề
Lễ hội quê em giáo viên có thể cho học sinh xem qua một số hình ảnh, video về
lễ hội có liên quan đến vùng miền nơi mình sinh sống, tổ chức cho học sinh vẽ
cùng nhau tạo dáng hoạt động trong lễ hội sẽ thấy ngay hiệu quả bất ngờ. Vì tạo
dáng gây hứng thú học tập, giúp cho học sinh nâng cao hiểu biết về những tình
huống sự kiện thực tế từ đời sống hàng ngày ở địa phương của các em. Học sinh
tự tạo lại các dáng hoạt động từ những tình huống trong hoạt động chơi, làm
việc hoặc học tập. Các em dễ dàng nắm bắt được hình dáng, tư thế của người khi
hoạt động để vẽ.
c. Kế hoạch giảng dạy một chủ đề (giáo án):
Mặc dù không có bất cứ một hướng dẫn cụ thể nào về việc xây dựng kế
hoạch dạy học, nhưng theo tôi mỗi chủ đề cần được thực hiện các tiết theo thứ tự
các hoạt động như sau:

14



- Hoạt động 1: Học sinh tìm hiểu về chủ đề thông qua các hoạt động trải
nghiệm, tham quan, quan sát thực tế…để hình thành ý tưởng, cách thực hiện cho
tác phẩm của mình.
- Hoạt động 2: Học sinh thể hiện ý tưởng thông qua việc tạo hình 2D (vẽ
biểu đạt, tạo ngân hàng hình ảnh)
- Hoạt động 3: Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm (vẽ cùng nhau, vẽ theo
nhạc, tạo hình 3D…)
- Hoạt động 4: Trưng bày và giới thiệu sản phẩm
Ví dụ: Chủ đề Lễ hội quê em (Mĩ thuật 3) – thực hiện 4 tiết. Trong đó:
Tiết 1: Hoạt động 1
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chủ đề. Giáo viên gợi ý học sinh tìm hiểu các
lễ hội truyền thống thông qua các câu hỏi, hình ảnh gợi ý để các em thảo luận.
Tổ chức trò chơi Thi vẽ nhanh một vài dáng người, hình ảnh trong lễ hội. Học
sinh tìm ra cách vẽ các dáng người sau khi trải nghiệm trò chơi. Học sinh trong
nhóm trao đổi và học hỏi cách vẽ cách thực hiện chủ đề.
Tiết 2: Hoạt động 2
Vẽ cùng nhau, xé dán những dáng người trong lễ hội (được lựa chọn từ
những dáng người các em đã vẽ ở tiết trước). Có thể chọn một số bạn lên làm
mẩu tạo dáng để vẽ
Tiết 3: Hoạt động 3
Tạo hình 3D. Học sinh nặn kết hợp vẽ, xé dán hình các dáng người theo chủ đề
nhóm.
Tiết 4: Hoạt động 4
Trưng bày sản phẩm. Các nhóm tiếp tục hoàn thành bài vẽ và trưng bày giới
thiệu sản phẩm. Giáo viên tổ chức cho học sinh xem và nêu cảm nhận của cá
nhân, nhóm mình, nhóm bạn
Nhưng đối với chủ đề có 2 hoặc 3 tiết thì chúng ta có thể kết hợp ghép hoặc
cắt bớt các hoạt động lại phân bố chia tiết học cho hợp lý ví dụ như chủ đề 6:

Bốn mùa (Mĩ thuật 3) có thời lượng 3 tiết
Tiết 1:
(Kết hợp hoạt động 1 và hoạt động 2) Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chủ đề,
cách thực hiện chủ đề, thực hành cá nhấn tạo hình 2D.
Tiết 2: Học sinh vẽ theo nhóm, làm việc theo nhóm, tạo hình 3D. Học sinh
nặn kết hợp vẽ, xé dán hình các dáng người theo nhóm.
Tiết 3: Trưng bày sản phẩm. Các nhóm tiếp tục hoàn thành bài vẽ và trưng
bày giới thiệu sản phẩm. Giáo viên tổ chức cho học sinh xem và nêu cảm nhận
của cá nhân, nhóm mình, nhóm bạn
15


Giải pháp 3: Khắc phục cơ sở vật chất đồ dùng học tập cho môn học.
Hình thành thói quen làm việc cho học sinh.
a. Khắc phục cơ sở vật chất, đồ dùng học tập cho môn học
Nói đến cơ sở vật chất thì có lẽ tất cả các trường tiểu học trong huyện
Đakrông đều chưa đáp ứng được với môn Mĩ thuật dạy theo phương pháp mới
của Đan Mạch (có phòng riêng và các vật dụng cơ bản phục vụ môn học). Vậy
để dạy và học diễn ra bình thường tùy vào điều kiện thực tế của nhà trường
người giáo viên phải làm sao, làm như thế nào. Một câu hỏi mà bản thân tôi luôn
trăn trở và cuối cùng cũng đã tìm được câu trả lời qua trải nghiệm dạy và học
thực tế hàng ngày:
Thứ nhất: phối kết hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn
khác về bố trí góc học tập và bảo quản vật dụng phục vụ cho môn học.
Thứ hai: Triển khai tiết học thực tế ngoài lớp học (Vẽ ngoài trời trong sân
trường) để học sinh thực hiện tạo nét mới và hứng thú cho các em. Nhưng mang
lại hiệu quả rất cao và không ảnh hưởng nhiều đến cơ sở vật chất phục vụ môn
học.
Trước đây khi chưa triển khai giảng dạy mĩ thuật theo phương pháp mới Đan
Mạch thì tất cả những gì người giáo viên cần dặn dò và chuẩn bị chỉ là nhắc nhở

học sinh đem đầy đủ dụng cụ học tập mỗi khi đến tiết học, bởi mỗi tiết một bài
học cứ xong một tiết là hết bài sang hôm sau là đến bài học khác. Nhưng đối với
cách dạy và học mới đòi hỏi người giáo viên phải có sự bao quát định hướng để
học sinh chuẩn bị và chuẩn bị xuyên suốt cho một chủ đề bài học. Chuẩn bị chu
đáo đầy đủ đem lại thành công càng cao và quan trọng là các em có vật dụng để
làm việc và sáng tạo theo từng khả năng của cá nhân, nhóm khi thực hành
Ví dụ: Giảng dạy chủ đề 12: lớp 3. Trang phục của em
Chuẩn bị của giáo viên
- Không gian bố trí hợp lý cho hoạt động dạy và học phù hợp với chủ đề
- Cách sắp xếp, bảo quản sau khi học xong để tiết học sau chuẩn bị học tập
tiếp, bảo quản các sản phẩm khi thực hiện xong chủ đề làm trực quan cho lớp
học năm sau (Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm bố trí góc trưng bày sản phẩm
ngay trong lớp học)
Chuẩn bị của học sinh
- Các đồ vật phế thải bỏ đi như lọ, chai, bao, bìa, giấy, báo cũ, hồ và một số
vật dụng khác từ thiên nhiên như lá cây, vỏ cây….(giáo viên có thể nhờ đến sự
giúp đỡ của phụ huynh thu thập đồ vật, phế liệu an toàn để có thể tái sử dụng
phục vụ học tập)
b. Hình thành thói quen làm việc cho học sinh
Từ trước tới nay đối với học trò học mĩ thuật duy nhất chỉ có một bài vẽ cho
một tiết học xong rồi là kết thúc cái khái niệm và cách học này trong mĩ thuật
hiện nay đã không còn phù hợp nhiều. Nên chúng ta đã phải vận dụng cách học
16


tiên tiến của Đan Mạch. Vậy là người tiếp nhận và cung cấp kiến thức cho học
sinh trước hết ta phải hình thành thói quen làm việc cho học sinh, ví dụ như:
+ Có được sự thoải mái về tâm lý khi tham gia vào các hoạt động giáo dục
Mĩ thuật. (Vui vẻ, khỏe mạnh, đoàn kết, không có những biểu hiện bất thường
về mọi mặt)

+ Thói quen chủ động chuẩn bị đầy đủ các vật dụng phục vụ cho chủ đề, bài
học. (Như màu sắc, giấy cũ, vỏ chai nước, vỏ hộp diêm, đất nặn các vật dụng
khác có thể sáng tạo)
+ Thói quen sắp xếp sản phẩm sau khi thực hiện một cách khoa học, nhanh
chóng không làm ảnh hưởng đến những môn học khác tiếp theo. (Như sắp xếp
bài vẽ, mô hình đang thực hiện, hay ý tưởng đang sáng tạo trang trí trên đồ vật
sản phẩm để tiết học sau tiếp tục công việc học tập).
+ Thói quen quan tâm đến những người xung quanh, biết chia sẻ, giúp đỡ
bạn bè trong công việc luôn hoàn thành nhiệm vụ (giúp bạn thu dọn các sản
phẩm đồ vật sau tiết học, sắp xếp ngăn nắp sạch sẽ, gọn gàng)
Giải pháp 4 : Luôn phối kết hợp tạo sân chơi để học sinh thực hiện, tạo
hứng thú học tập cho học sinh thông qua các hoạt động thi đua, trò chơi.
a. Luôn phối kết hợp tạo sân chơi để học sinh thực hiện
Đại đa số học sinh tiểu học, nhất là đối với các em lớp Ba, các em mới bước
vào môi trường học tập thực sự nên các em rất ngại tiếp xúc với thầy cô, thậm
chí có em sợ thầy cô hơn cả cha mẹ. Vậy làm thế nào để các em mạnh dạn hơn
thì giáo viên phải gần gũi, thân tình để các em dễ hoà đồng vào môi trường tập
thể. Nếu các em nhận ra ở thầy cô một sự bao bọc che chở, nhất là sự quan tâm,
cảm thông thực sự, các em sẽ dần dần quấn quýt, tin cậy gần như tuyệt đối và
thầy cô như là thần tượng của các em. Để làm được điều này thì cách nói, âm
vực lời nói là vô cùng quan trọng. Giáo viên phải biết điều chỉnh, tạo không khí
hào hứng trong lớp học song vẫn giữ được tính kỉ luật, trật tự. Cho phép các em
trao đổi ý kiến, xem, nhận xét bài bạn, nhưng giáo viên phải nhắc nhở những
học sinh mải chơi, nói chuyện riêng ngoài việc học vẽ.
Mặt khác mĩ thuật là một bộ môn phụ thuộc nhiều vào năng khiếu của từng
cá nhân, do đó giáo viên không nên đòi hỏi quá nhiều ở các em. Học sinh hoàn
thành sản phẩm đúng theo nội dung chủ đề, qua mỗi giờ học các em có thể nhận
xét, đánh giá cái đẹp cái chưa đẹp đã là thành công. Mỗi lời động viên, khích lệ
dù rất nhỏ của giáo viên cũng có thể là một động lực lớn để các em cố gắng.
Khi học sinh thực hành, giáo viên cần phải theo dõi, quán xuyến chung, điều

chỉnh, bổ sung những gì mà đa số học sinh chưa rõ hoặc còn lúng túng. Theo dõi
giúp học sinh kém, động viên khích lệ học sinh khá, cụ thể là:
+ Gợi ý học sinh nhận ra những thiếu sót ở bài vẽ để học sinh rút kinh
nghiệm và tự sửa chữa.
+ Động viên, khích lệ học sinh khá, giỏi tạo điều kiện cho các em suy nghĩ
tìm tòi thêm, nâng cao hiệu quả sáng tạo ở bài vẽ.
17


Mặt khác phối kết hợp tạo sân chơi để học sinh thực hiện là biện pháp vô
cùng quan trọng đối với học sinh bởi ở lứa tuổi các em học luôn gắn liền với
“Học và chơi , chơi và học” chơi nó sẽ phát huy hết hiệu quả nếu ta biết cân
bằng, điều tiết và kết hợp với các đoàn thể, nhà trường cha mẹ học sinh trong
công tác giáo dục nói chung và học tập môn Mĩ thuật nói riêng.
Kết hợp với bài học, chủ đề cho các em thực hiện qua công tác giáo dục
ngoại khóa như vẽ tranh, trình diễn thời trang tuyên truyền về môi trường nơi
các em đang học tập và sinh hoạt.
+ Tạo điều kiện để học sinh tham gia những cuộc thi do các cấp tổ chức như
vẽ chiếc ô tô mơ ước, ý tưởng trẻ thơ, vẽ tranh giải thưởng mỹ thuật cấp huyện
….để các em có được cơ hội sáng tạo với ước mơ vào nét vẽ của mình.
+ Xây dựng những tiết học mang tính vui nhộn hài ước có tính giáo dục cao
như:
Đóng vai các nhân vật trong tranh (khi vẽ xong tranh và xây dựng hình ảnh
giáo viên có thể cho các nhóm tự phân vai dựa trên bức tranh của nhóm diễn tả
lại và chia sẻ cùng mọi người )
Đóng vai các anh hùng lịch sử (chủ đề:Thưởng thức xem tranh các tác phẩm
Mĩ thuật nói về các anh hùng có công dựng nước và bảo vệ đất nước)
+ Tạo một khoảng thời gian nhất định để học sinh được trình bày và chia sẻ
trình bày và chia sẻ nó giúp học sinh thể hiện được khả năng giao tiếp một cách
tự tin và thân thiện xóa được khoảng cách trầm lặng trong lớp học tạo nên không

gian sôi nổi cái quan trọng nhất là các em được nói lên ý tưởng của mình với
mọi người:
Trình bày thuyết trình về bức tranh, sản phẩm cá nhân hoặc nhóm thực hiện.
Các em khác có cơ hội trao đổi, chia sẻ cùng bạn qua chủ đề bài học ( Trước đây
chỉ khoảng 5 phút nên vấn đề này thực tế là sơ sài nhưng với phương pháp mới
giáo viên có thể linh động xây dựng trong vòng 1 tiết học).
b. Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua các hoạt động tổ chức
trò chơi.
Bên cạnh hoạt động học là chủ đạo thì nhu cầu chơi, giao tiếp với bạn bè của
các em học sinh lớp Ba cũng không thể thiếu. Nếu giáo viên biết phối hợp nhịp
nhàng giữa nhiệm vụ của hoạt động học với sự thỏa mãn nhu cầu chơi, giao tiếp
của các em "Học mà chơi, chơi mà học" thì các em sẽ hăng hái, say mê học tập
và một điều tất yếu là kết qủa học tập của các em sẽ được nâng lên. Đây cũng là
một phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học
sinh trên cơ sở khai thác đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Khi tổ chức trò
chơi,giáo viên cần lưu ý:
+ Lựa chọn trò chơi vừa sức với học sinh. Các em học đấy nhưng phải vui,
khi vui thích thì việc học tập sẽ là tự nguyện, không bị gò ép, thúc bách. Khi học
mà như chơi thì việc học sẽ trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, học sẽ trở thành là một
trong những nhu cầu của học sinh. Giáo viên cần lưu ý cần lựa chọn các trò chơi
18


làm cho học sinh tự khám phá ra nội dung bài học một cách chủ động, thích thú
và ghi nhớ được kiến thức một cách tự nhiên và sâu sắc. Trò chơi có chứa đựng
những chủ đề, nội dung nhất định, có những quy chế nhất định mà học sinh phải
tuân thủ. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi giải trí song đồng thời lại có ý
nghĩa giáo dục. Dạy học bằng phương pháp tổ chức trò chơi là đưa học sinh đến
với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung gắn liền với bài học.
+ Tổ chức vào thời điểm thích hợp. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường

tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức
cho học sinh chơi các trò chơi để giới thiệu bài hay hình thành kiến thức, kỹ
năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài
học mới. Do đó giáo viên nên linh hoạt tổ chức ở những thời điểm khác nhau
nhằm tạo sự bất ngờ và giảm căng thẳng của giờ học.
+ Lôi cuốn tất cả học sinh của lớp cùng tham gia. Trò chơi học tập là một
hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh nên duy trì tốt hơn sự chú ý
của các em với bài học. Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt
động trí tuệ, do đó giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học
kiến thức mới. Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ
năng học tập hợp tác cho học sinh, tăng cường khả năng giao tiếp và giúp các
em rèn kỹ năng hợp tác. Có thể nói điều khiển tiến trình một cuộc chơi với học
sinh lớp Ba sao cho sôi nổi, sinh động, hấp dẫn lôi cuốn được tất cả các em tham
gia chơi một cách thích thú nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu tiết học là không dễ. Vì
nếu tổ chức sơ sài hoặc mang tính chất hình thức thì học sinh tham gia một cách
miễn cưỡng, có em còn nhân dịp này để làm việc riêng, đùa giỡn gây mất trật tự
lớp học. Còn nếu tổ chức quá chú trọng vào phần chơi mà quên đi phần học thì
giáo viên sẽ khó mà quản lý lớp học đi đúng hướng.
Một số trò chơi có thể áp dụng như: thi vẽ nhanh, vẽ đẹp, tưởng tượng từ
hình có sẵn, ghép tranh… vào đầu, cuối tiết học hoặc trước khi thực hành. Đây
chính là thời gian để các em luyện vẽ và tăng cường khả năng vẽ nhanh, vẽ đẹp
và giúp các em phấn chấn tinh thần, hăng hái khắc sâu kiến thức học tập hơn.
Cách tiến hành như sau :
- Trò chơi Tưởng tượng đoán đồ vật đối với bài học chủ đề 8, Mĩ thuật lớp 3
Trái cây bốn mùa: Giáo viên có thể bỏ các loại quả bằng nhựa vào 1 thùng giấy
kín (không cho học sinh thấy các loại quả bên trong) cho học sinh dùng tay bỏ
vào thùng rồi đoán tên các loại quả bạn nào đoán chính xác và nhanh sẻ thắng
cuộc. Từ hoạt động này học sinh nắm bắt khắc sâu hơn được đặc điểm hình dáng
các loại quả để chuẩn bị cho phần thực hành
- Trò chơi : Ai nhanh hơn đối với bài chủ đề 3, Mĩ thuật lớp 3: con vật quen

thuộc. Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ nhiều con vật nuôi ( hoặc vẽ
một tranh). Học sinh dưới lớp hát 1 bài. Khi hát hết bài thì các đội thi vẽ phải
ngừng tay. Đội nào có học sinh vẽ nhanh, vẽ nhiều con vật (hoặc tranh đẹp nhất)
là đội thắng cuộc…

19


Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần đánh giá cao phần tham gia của các đội,
không làm qua loa đại khái, có khen thưởng, tuyên dương kịp thời cũng là một
biện pháp làm cho học sinh thêm tích cực vì em nào cũng thích được khen, được
thầy cô quan tâm đến việc làm của mình. Bên cạnh đó cần động viên những đội
còn lại để các em cố gắng hơn ở lần sau. Sau mỗi lần chơi giáo viên cần nhận
xét đánh giá kết quả của học sinh. Dựa vào yêu cầu, nội quy chơi, kết quả cuộc
chơi giáo viên đánh gía cuộc chơi và phân loại thắng thua thật công bằng, rõ
ràng. Giáo viên phải hết sức lưu ý vấn đề này vì đôi khi có giáo viên nêu yêu
cầu và luật chơi rất khắt khe nhưng khi đánh giá kết quả lại đại khái, không
chính xác hoặc không công bằng vì vậy sẽ làm cho học sinh mất phấn khởi, cần
sự đánh giá nhẹ nhàng mang tính chất động viên, khích lệ là chính, tránh tình
trạng đánh giá để các em buồn và xấu hổ với bạn bè khi không thắng trò chơi.
Giải pháp 5: Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên các môn học
khác tăng cường sự tuyên truyền đến phụ huynh và cộng đồng
Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp hàng ngày tiếp xúc trực tiếp từng lớp
mà tiếng nói, lời nhắc nhở của họ là liều thuốc hữu hiệu cho học sinh thực hiện
và thực hiện tốt nội dung học tập. Đối với các đoàn thể như: Đội thiếu niên,
Đoàn thanh niên, các tổ chức trong nhà trường là người luôn phát động những
cuộc thi, tìm hiểu tuyên truyền do các cấp tổ chức và không có gì tốt hơn học
sinh thực hiện đó là thước đo về kiến thức, kĩ năng và thái độ học tập của học
sinh môn Mĩ thuật.
Bất cứ một đổi mới nào cũng gặp sự khó khăn ban đầu từ người làm chuyên

môn đến dự luận xã hội và phụ huynh học sinh. Đó là họ đã và đang quan tâm
đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Đối với sự đổi mới của phương pháp dạy và
học môn Mĩ thuật theo phương pháp của Đan Mạch cũng không năm ngoài sự tò
mò quan tâm của phụ huynh học sinh ngay từ khi hướng dẫn các em tìm kiếm
các vật dụng, mua sắm bổ sung đồ dùng và các vật dụng phục vụ học tập đây là
yếu tố rất quan trọng khi học bộ môn Mĩ thuật là người giáo viên trước hết
chúng ta phải thực hiện một số nội dung cụ thể như trao đổi chia sẻ về tính ưu
việt của phương pháp mới (Đan Mạch): Từ học chỉ sử dụng tư duy sang học kết
hợp tư duy và vận động với các giác quan, từ cách học cá nhân sang hoạt động
tương tác theo nhóm, từ không gian phòng học đến không gian trải nghiệm linh
hoạt ở cuộc sống. Để trả lời và giải thích trao đổi được với phụ huynh học sinh
thì trước hết người giáo viên cần có một kiến thức nhất định về mĩ thuật và hiểu
rằng tại sao cần đổi mới, đổi mới mang lại cho học sinh những thuận lợi và sáng
tạo gì trong học tập, cũng là những tình huống mà người giáo viên cần phải xử
lý để phụ huynh và cộng đồng hiểu và cùng đồng tình ủng hộ với phương pháp
dạy và học mới.
3.2 Kết quả thực hiện
Tính tới thời điểm hiện tại, học sinh đã quen và thực hiện tốt mô hình học
tập mới này, áp lực học tập không còn là vấn đề với các em. Đây chính là hình
thức dạy học theo phương pháp mở (kết thúc bài học này là mở ra một bài học
mới), tăng cường dạy học hợp tác nhưng vẫn coi trọng cá thể hóa học sinh. Tạo
20


cơ hội cho học sinh thực hành các bài tập ứng dụng thiết thực, phục vụ cho học
tập và cuộc sống.
Qua việc học tập áp dụng các giải pháp vào phương pháp mới Đan Mạch
giúp cho học sinh có được những trải nghiệm để gợi mở cách nhìn nhận, cảm
giác, sự tò mò, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát triển sức sáng tạo và biểu đạt, vì
vậy học sinh sẽ có được những hình ảnh và động lực mang tính tinh thần. Hạn

chế được cảm giác lo sợ vì không biết vẽ của các em. Học sinh biết bảo vệ ý
thức chủ quan của bản thân khi vẽ tranh, không bị ảnh hưởng bởi lời chê bai
của các bạn khác. Học sinh được bồi dưỡng rèn luyện khả năng quan sát, cách
so sánh sự vật hiện tượng, giúp các em tìm tòi thể hiện để vươn tới cái đẹp. Các
em cảm nhận được cái đẹp và chưa đẹp một cách rõ ràng qua việc nhận xét hình
ảnh, tranh vẽ…Biết tạo ra các sản phẩm làm đẹp phục vụ cho sinh hoạt như:
trang trí đồ vật, trang trí góc học tập…Một điều không thể không nhắc tới đó là
học sinh yêu thích môn học hơn, vẽ một cách say sưa hơn, hứng thú với nhiều
sáng tạo, khiến cho tiết học trở nên thoải mái, nhẹ nhàng. Quan trọng hơn cả là
các em đã thấy tự tin khi vẽ, tạo được những câu chuyện ngộ nghĩnh mang hiệu
quả bất ngờ, đẹp mắt.
Số học sinh còn tẩy xóa bài vẽ giảm đi đáng kể, hiện tượng sao chép cũng
không còn. Đặc biệt là không có học sinh nào không hoàn thành được bài thực
hành theo nội dung yêu cầu của bài học. Xem sản phẩm của các em chúng ta sẽ
thấy ngay những tiến bộ vượt bậc mà các em đã có được. Tính sáng tạo, độc đáo
được học sinh thể hiện qua từng chủ đề sinh động, phong phú và đa dạng.
Những bức tranh có tạo hình tự tin, ngộ nghĩnh xuất hiện ngày càng nhiều. Điều
quan trọng là giáo viên đã tạo được không khí hào hứng, say mê vẽ ở học sinh.
Cụ thể kết quả như sau:
TSHS

KIẾN THỨC – KỸ NĂNG : TS / TỶ LỆ
Hoàn thành các nội dung
của môn học.

Hoàn thành tốt các
nội dung của môn
học,có sáng tạo.

Hoàn thành tốt các nội

dung của môn học, tạo
hình đẹp, sinh động.

29

22 em

19 em

41,4%

31,5%

27,1%

70

Qua những kết quả trên, chứng tỏ giải pháp này có hiệu quả và khả quan.
Đồng thời cũng khẳng định một điều đó là dạy mĩ thuật theo phương pháp Đan
Mạch cho học sinh lớp Ba không khó. Cái khó chính là giáo viên phải lựa chọn
phương pháp giáo dục sao cho phù hợp và để làm được điều này trước hết đòi
hỏi giáo viên phải là người có lòng yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi để nâng cao
trình độ, tích cực áp dụng các giải pháp vào giảng dạy và quyết tâm thực hiện
theo đúng tinh thần đổi mới giáo dục mĩ thuật tiểu học do Bộ Giáo dục và đào
tạo đã triển khai.
21


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

Mĩ thuật là môn học nghệ thuật, kết quả của nó là kết quả của cảm xúc, chứ
không đơn giản là kỹ thuật hay kỹ năng. Muốn tạo ra cái đẹp, học sinh phải có
cảm xúc. Cảm xúc phải xuất phát từ sự rung động của học sinh trước vẻ đẹp của
đối tượng cùng với phương pháp giảng dạy hấp dẫn, lôi cuốn của giáo viên. Cái
đẹp phù hợp với cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận của mỗi học sinh. Trẻ em
có cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận riêng, không giống cách nhìn, cách nghĩ,
cách cảm nhận của người lớn.
Việc áp dụng các giải pháp vào dạy học phương pháp mới giúp cho giáo
viên và học sinh đã thực hiện tốt mô hình học tập mới phương pháp mĩ thuật
Đan Mạch, áp lực học tập không còn là vấn đề với giáo viên và học sinh. Giáo
viên không còn băn khoăn, lúng túng, đã thực hiện đúng tinh thần đổi mới đạt
hiệu quả, cách thực hiện các quy trình sáng tạo . Tăng cường dạy học hợp tác
nhưng vẫn coi trọng cá thể hóa học sinh. Học sinh đã tiếp thu được kiến thức,
phát triển tư duy, sáng tạo ra những sản phẩm mĩ thuật, thực hành các bài tập
ứng dụng thiết thực, phục vụ cho học tập và cuộc sống. Qua quá trình áp dụng
phương pháp dạy học mĩ thuật mới tôi nhận thấy cái hay của phương pháp này
là đặt người học vào vị trí chủ động phải tìm hiểu vấn đề và tìm ra cách giải
quyết hiệu quả, sáng tạo nhất. Việc đánh giá học sinh cũng không còn bị đặt quá
nặng vào sản phẩm của các em mà nó được đánh giá dựa trên cả quá trình mà
các em tham gia. Đây là một chương trình giáo dục mĩ thuật tiểu học năng động,
phát huy, rèn luyện được nhiều kỹ năng cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng sống.
Giáo viên cần cho học sinh mang sản phẩm về nhà để trưng bày thành góc mĩ
thuật ở gia đình, nhà trường có thể tổ chức triển lãm, trưng bày sản phẩm của
học sinh vào các ngày sinh hoạt tập thể. Tập cho học sinh thói quen sưu tầm và
cất giữ những vật dụng, vỏ hộp, chai nhựa...không còn sử dụng để khi cần có thể
tái sử dụng. Làm tốt công tác tư tưởng với phụ huynh để phụ huynh tham gia
chuẩn bị tốt họa phẩm và vật liệu phục vụ cho phương pháp dạy mĩ thuật Đan
Mạch, có thể tận dụng tối đa các phương tiện, đồ dùng học tập sẵn có, sử dụng
linh hoạt các chất liệu học sinh đã có, hướng dẫn học sinh sưu tầm các chất liệu
sẵn có ở địa phương, những vật dụng bỏ đi để tạo ra nhiều chất liệu phong phú

trong các hoạt động dạy học mĩ thuật.
2 Kiến nghị
* Đối với giáo viên:
Không ngừng học tập nghiên cứu nâng cao chuyên môn nghiệp vụ nhất là
việc đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp mới Đan Mạch hiện nay.
Khắc phục những khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, vận dụng
những gì sẵn có tại mỗi lớp học để thực hiện dạy và có hiệu quả.
* Đối với nhà trường :
Quan tâm chỉ đạo tạo điều kiện hơn nữa để giáo viên tự chủ động xây dựng
kế hoạch thực hiện về thời khóa biểu môn Mĩ thuật. Hằng năm cần đầu tư thêm
22


kinh phí để mua sắm tài liệu tham khảo, vật dụng phục vụ cho việc dạy và học
mĩ thuật. Tổ chức nhiều sân chơi ngoại khóa lồng ghép môn Mĩ thuật để học
sinh được tham gia, chia sẻ những kiến thức mà các em được thể hiện mình sau
khi tiếp nhận kiến thức đã học .
* Đối với cấp trên:
Tổ chức các buổi tập huấn rút kinh nghiệm qua quá trình áp dụng để giáo
viên nắm vững thêm về phương pháp mới. Xây dựng nội dung, chương trình cụ
thể nhằm định hướng tổ chức dạy học tốt hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

23


1. Hà Tuệ Hương (2006) Tài liệu Mĩ thuật – phương pháp giảng dạy Mĩ
thuật ở Tiểu học– Nhà xuất bản giáo dục.
2. Nguyễn Thị Nhung (2016) Dạy Mĩ thuật theo định hướng phát triển

năng lực – Nhà xuất bản Giáo dục
3. Nguyễn Thị Nhung (2016) Tài liệu dạy học Mĩ thuật dành cho giáo
viên Tiểu học (Dự án SAEPS) – Nhà xuất bản Giáo dục
4. Nguyễn Quốc Toản (2004) Sách giáo viên Nghệ thuật 3 - Nhà xuất bản
Giáo dục.

24



×