Tải bản đầy đủ (.doc) (378 trang)

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG LUẬT CÁC BIỆN PHÁP NHẬP KHẨU ĐẶC BIỆT CANADA (SIMA HANDBOOK)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 378 trang )

CANADA

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG
LUẬT CÁC BIỆN PHÁP
NHẬP KHẨU ĐẶC BIỆT
(SIMA HANDBOOK)


1. CƠ CẤU TỔ CHỨC
1.1. Tổng vụ chống bán phá giá và chống trợ cấp
1.1.1. Vai trò
Vai trò cơ bản của Tổng vụ chống bán phá và chống trợ cấp là nhằm hỗ trợ cho
các nhà sản xuất Canada những người phải đối phó với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh của nước ngoài ở thị trường Canada. Sự cạnh tranh không lành mạnh này có thể
nảy sinh từ một số hành vi thương mại do các quy định về thương mại quốc tế điều
chỉnh. Nhưng hành vi này bao gồm:
(a) Hàng hóa nhập khẩu vào Canada với mức giá thấp hơn mức giá mà
hàng hóa này được bán tại thị trường trong nước hoặc với mức giá thấp hơn toàn
bộ hoặc tổng chi phí sản xuất. Hành vi này được gọi là bán phá giá; và
(b) Hàng hóa được nhập khẩu vào được hưởng lợi hoặc sẽ được hưởng lợi trực
tiếp hoặc gián tiếp từ khoản trợ giá của Chính phủ nước ngoài hoặc hàng hóa được
Chính phủ nước ngoài bù lỗ. Hành vi này được gọi là trợ giá; và
Các nhà sản xuất Canada mong muốn sự trợ giúp của Tổng vụ Chống bán phá
giá và Trợ cấp để chống lại hàng hóa nhập khẩu gây thiệt hại trầm trọng. Tổng vụ
chịu trách nhiệm quản lý Đạo luật về các biện pháp nhập khẩu đặc biệt (SIMA). Luật
này quy định những biện pháp chống lại hàng hóa bán phá giá/ hoặc được trợ cấp.
1.1.2. Mối quan hệ với các định chế quốc tế
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một nền tảng pháp lý và thể chế của hệ
thống thương mại đa phương. Tổ chức này quy định những trách nhiệm ràng buộc cơ
bản, xác định cách thức các Chính phủ xây dựng và thực thi các quy định về thương
mại trong nước, trên cơ sở đó quan hệ thương mại giữa các nước được phát triển


thông qua thảo luận, đàm phán và phán xử tập thể. WTO quản lý và thực thi các hiệp
định thương mại đa phương và các hiệp định nhiểu bên có tính chất không bắt buộc,
và tất cả các hiệp định này cùng với nhau tạo thành WTO. Canada là một thành viên
của WTO
Có hai Hiệp định có ảnh hưởng đến hoạt động của Tổng vụ: Hiệp định thực thi
Điều VI của Hiệp định GATT năm 1994 và Hiệp định về các biện pháp trợ cấp và đối
kháng.
Với mỗi Hiệp định, có một Ủy ban được thành lập, bao gồm các đại diện từ
các nước thành viên của WTO. Những ủy ban này thường họp nửa năm một lần để
thực hiện các trách nhiệm được giao theo các Hiệp định và để tạo cơ hội cho các
nước thành viên tham vấn về bất cứ vấn đề gì liên quan đến việc vận hành của Hiệp
định tương ứng này.
Phái đoàn của Canada ở mỗi Ủy ban do Bộ Tài chính đứng đầu với sự hỗ trợ
kỹ thuật của Tổng vụ Chống bán phá giá và Chống trợ cấp. Đại diện của Tổng vụ chịu
2


trách nhiệm chuẩn bị nội dung ý kiến của phía Canađa về những vấn đề gây tranh cãi
có thể nảy sinh, chuẩn bị cho các cuộc họp ở Geneva thông qua việc rà soát các tài
liệu phù hợp và tham dự các cuộc họp liên bộ để cùng thống nhất quan điểm, lập
trường của Canada về các vấn đề sẽ nêu trong cuộc họp này.
1.3. Luật và Các quy định
1.3.1. SIMA
Đạo luật về các biện pháp nhập khẩu đặc biệt, SIMA, được Quốc hội thông
qua vào 28 tháng 6 năm 1984 và có hiệu lực thi hành vào ngày 1/12/1984. Vào năm
1996, Bộ Tài chính đã tiến hành rà soát lại SIMA. Vào ngày 19/3/1998, Chính phủ đã
đề xuất Dự luật C-35 “Một đạo luật để sửa đổi Đạo luật các biện pháp nhập khẩu đặc
biệt” và “Luật Tòa án Thương mại Canada”. Dự luật này đã được Quốc hội thông qua
và được Hoàng Gia phê chuẩn vào 25 tháng 3 năm 1999, và có hiệu lực thi hành vào
15 tháng 4 năm 2000. Đạo luật này đưa ra cơ sở luật pháp cho chương trình thuế

chống bán phá giá và chống trợ cấp của Cục Quản lý Mậu biên Canada (CBSA). Việc
phá giá xảy ra khi hàng hóa được nhập khẩu vào Canada với mức giá thấp hơn mức
giá của nhà xuất khẩu bán trong nước hoặc với mức giá thấp hơn toàn bộ hoặc tổng
chi phí. Khi hàng hóa nhập khẩu bán phá giá gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đối với việc sản xuất sản phẩm tương tự của Canada, thuế chống phá giá sẽ được áp
dụng để triệt tiêu biên độ phá giá. Tương tự, khi hàng hóa nhập khẩu thuộc diện được
trợ cấp của chính phủ nước ngoài và khi những hàng hóa được trợ cấp này gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của Canada,
thông thường thuế chống trợ cấp sẽ được áp dụng để triệt tiêu khoản trợ giá. Việc áp
dụng thuế chống bán phá giá và/hoặc thuế chống trợ cấp là một biện pháp để bảo vệ
ngành công nghiệp Canada khỏi những hàng hóa nhập khẩu được định giá không
công bằng gây thiệt hại hoặc đe dọa gay thiệt hại cho việc sản xuất hàng hóa cạnh
tranh của Canada. Để xác định liệu thuế chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp nên
được áp dụng hay không Cục Quản lý Mậu biên Canada sẽ tiến hành điều tra các
hành vi định giá của nhà xuất khẩu và mức độ trợ cấp của nước ngoài.
SIMA được quản lý bởi Tổng vụ Chống phá giá và Chống trợ cấp của thuộc
phân ngành Hải quan của Cục Quản lý Mậu biên Canađa. Các cán bộ chương trình
trong Tổng vụ tiến hành các cuộc điều tra và xác định các giá trị sẽ được sử dụng để
xác định liệu mặt hàng nhập khẩu có phá giá và/hoặc được trợ cấp hay không.
Việc thực thi các phán quyết của Tòa án Thương mại Quốc tế Canađa (CITT)
được các cán bộ khu vực và các cán bộ thực thi tại trụ sở chính thực hiện.
Đạo luật này quy định việc chấp nhận cam kết tự nguyện như là một giải pháp
thay thế để loại bỏ các vấn đề về hàng hóa phá giá hoặc được trợ cấp gây ra. Các
thông tin chi tiết về cam kết tự nguyện sẽ được trình bày ở Phần 4.8.
1.3.2. Quy định về các biện pháp nhập khẩu đặc biệt (SIMR)
SIMR bao gồm 6 phần chính, không kể hai mục mở đầu là Mục 1 và 2 nêu tên
của quy định và đưa ra một số định nghĩa về SIMR.

3



Phần I của Quy định đưa ra một số điều chỉnh có thể cần thiết trong việc xác
định giá trị thông thường và giá xuất khẩu.
Phần I.1 giải quyết vấn đề xác định biên độ phá giá dựa trên cơ sở tỷ lệ phần
trăm hoặc dựa trên cơ sở lấy mẫu.
Phần II của quy định liên quan đến việc xác định khoản trợ giá.
Phần II.01 liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp đối với hàng hóa của
Hoa Kỳ và Mexico, phần này được bổ sung để phù hợp với Hiệp định tự do thương
mại Bắc Mỹ (NAFTA).
Phần II.1 liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp liên quan đến hàng hóa
của Hoa Kỳ do Hiệp định Thương mại tự do. Các điều khoản này bị vô hiệu hoá tạm
thời trong khi NAFTA được thực hiện.
Phần III bao gồm những quy định chung để giải quyết các vấn đề khác nhau
như các thông tin bắt buộc phải có trong một đơn kiện được coi là hợp lệ. các yếu tố
để xem xét đánh giá thiệt hại, tác động gây hạn chế phát triển hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho ngành sản xuất trong nước và các yếu tố rà soát cuối kỳ. Phần III quy định về
việc tham gia các cuộc điều tra, mức phí phải trả cho các bản thông tin được cung cấp
theo yêu cầu và quy định về ngày được sử dụng để xác định tỷ giá hối đoái nhằm
chuyển đổi tiền tệ.
Các quy định này đều được đưa vào trong Công văn nội bộ của Cục số D14-11.
1.3.3. Các quy định khác
1.3.3.1 Luật hải quan
Luật Hải quan quy định việc kiểm soát việc lưu thông hàng hóa, người và việc
chuyên chở vào và ra khỏi Canada; đây là công cụ hỗ trợ cho việc quản lý và thực thi
các đạo luật khác mà cấm, điều chỉnh hoặc kiểm soát việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu
hàng hóa.
Luật Hải quan quan quy định các nguyên tắc cơ bản về:
 Khai báo hàng hoá xuất nhập khẩu và hành khách xuất nhập cảnh;
 Kiểm soát vận tải và lưu giữ hàng hoá
 Thông quan, hạch toán kế toán và nộp thuế;

 Tính thuế;
 Xác định mã số phân loại biểu thuế quan và xác định trị giá hải quan;
 Miễn, giảm, hoàn thuế, không thu thuế;
 Xuất khẩu hàng hóa;
 Kiểm tra người, kiểm tra và thu giữ (tịch biên) hàng hóa
1.3.3.2. Thuế hải quan
Thuế Hải quan đánh thuế lên hàng hóa nhập khẩu và đưa ra ưu đãi thuế quan
cho những đối tác thương mại của Canada. Có những điều khoản để xác định xuất xứ
4


hàng hóa, rút lại các mức thuế ưu đãi, quy tắc về giao hàng trực tiếp, kỹ mã hiệu trên
bao bì vận chuyển, giảm thuế theo Chương trình nhập khẩu tư liệu sản xuất, khấu trừ
thuế với hàng hóa sử dụng cho ,một số mục đích theo luật định ở Canada và đánh các
khoản thuế và phí phụ thu trong một số trường hợp đã được quy định rõ.
1.3.3.3. Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt:
Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt quy định việc ấn định và thu thuế đối với bia, các
loại đồ uống có cồn (không gồm rượu vang), thuốc lá và các sản phẩm từ sợi thuốc lá.
Những vấn đề chính sách thuế thuộc trách nhiệm của Bộ Tài chính, còn CBSA chịu
trách nhiệm về việc quản lý và thực thi luật này.
1.3.3.4 Luật Thuế gián thu
Luật thuế quy định việc ấn định thuế đối với các loại hàng hóa và dịch vụ được
sản xuất tại Canada hoặc được nhập khẩu vào Canada.
1.4. Công văn nội bộ của Cục:
CBSA có một hệ thống đã được chính thức hóa để phổ biến thông tin về hướng
dẫn áp dụng luật đến tất cả các nhân viên hải quan cũng như đến công chúng. Hệ
thống này liên quan đến việc xuất bản và phổ biến các hướng dẫn thực thi pháp luật
thông qua các Công văn nội bộ của Cục. Các công văn nội bộ này chia làm 3 loại: D,
R, Tạm thời và B. Hệ thống tham chiếu kỹ thuật SIMA cũng được sử dụng để trao đổi
các hướng dẫn áp dụng đến các nhân viên thuế quan.

1.4.1. Công văn nội bộ loại D:
Công văn loại D gồm các bản thông báo về chính sách của cục trong đó có giải
thích các luật và văn bản pháp luật khác nhau. Các công văn này được đưa ra nhằm
đẩy mạnh và khuyến khích sự tự nguyện tuân thủ pháp luật của cộng đồng đối với
những luật do CBSA quản lý. Chúng còn giúp cho các nhân viên của CBSA kịp thời
nắm được những ưu tiên của Cục, những chương trình, chính sách và thủ tục của Cục
và đảm bảo cho việc giải thích và thực thi luật và các quy định được thống nhất trên
toàn quốc. Một vấn đề được Tổng vụ chống bán phá giá và tự vệ đặc biệt quan tâm là
các hướng dẫn liên quan đến việc thực thi SIMA. Chủ yếu đó là các công văn thuộc
nhóm D14 và D15.
Các văn bản hướng dẫn về chính sách và thủ tục thuộc hệ thống các văn bản
hướng dẫn được chia làm 21 nhóm hoạt động. Việc chia nhóm nhằm mục đích tập
hợp theo nhóm những văn bản hướng dẫn có chủ đề liên quan hoặc tưong tự nhau.
Danh sách đầy đủ của các nhóm đó như sau:
- D1 Các hướng dẫn chung
- D2 Xuất nhập cảnh
- D3 Vận tải
- D4 Lưu giữ hàng hoá
- D5 Thư từ quốc tế
- D6 Hoàn thuế
5


- D7 Hoàn thuế cho hàng xuất khẩu
- D8 Miễn giảm thuế và Tạm nhập
- D9 Hàng cấm nhập khẩu
- D10 Phân loại biểu thuế quan - Hàng nông sản, khoáng sản
- D11 Thông tin chung về thuế quan
- D12 Sửa đổi về thuế quan
- D13 Xác định trị giá hải quan

- D14 SIMA (Chính sách và thủ tục)
- D15 SIMA (Thông báo thực thi)
- D16 Thuế phụ thu
- D17 Thủ tục về hạch toán kế toán và Thông quan
- D18 Hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
- D19 Luật và quy định pháp luật của các cơ quan chính phú khác.
- D20 Xuất khẩu
- D21 Các chương trình quốc tế.
Các hướng dẫn đối với việc chuẩn bị các Công văn nội bộ D15 được ghi ở
phần 7.
1.5. Các tổ chức và hiệp định quốc tế
1.5.1. Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế WTO.
Phần này đang trong quá trình soạn thảo
1.5.1.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 (GATT 1994)
Phần này đang trong quá trình soạn thảo
1.5.1.2. Hiệp đinh về việc thi hành điều khoản VI của GATT 1994
Phần này đang trong quá trình soạn thảo
1.5.1.3. Hiệp định về các biện pháp chống trợ cấp và đối kháng
Phần này đang trong quá trình soạn thảo
1.5.1.4 Hiệp định về nông nghiệp
Phần này đang trong quá trình soạn thảo
1.5.1.5 Công văn nội bộ về các Quy định và Trình tự giải quyết tranh
chấp.
Sẽ được thực hiện.
1.5.2. Các hiệp định thương mại với các nước cụ thể
Canada đã ký một số hiệp định thương mại với các nước khác. Phần này trình
bày chi tiết các hiệp định thương mại liên quan đến hoạt động của Tổng vụ Chống
bán phá giá và tự vệ. Để diễn giải các quy định trong bất kỳ hiệp định thương mại,
nên tham khảo ý kiến của cán bộ chịu trách nhiệm trong Ban Chính sách. Nội dung
các hiệp định thương mại với từng nước được liệt kê dưới đây có thể tìm thấy trong

trang web của Bộ Thương mại Quốc tế tại địa chỉ sau:
/>1.5.2.1. Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ
Phần này đang trong quá trình soạn thảo
1.5.2.2. Hiệp định tự do thương mại Canada- Bắc Mỹ
Hiệp định này bị tạm thời vô hiệu khi hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ có
hiệu lực.
1.5.2.3. Hiệp định tự do thương mại Canada-Chile
Từ ngày mồng 1 tháng 1 năm 2003, hàng hóa từ Chile bắt đầu được hưởng
miễn trừ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá theo SIMA. Theo khoản 14(2) của
6


SIMA, Tổng Thủ hiến Canađa, trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính, có thể ban hành
các quy định loại trừ bất kỳ một loại hay là một chủng loại hàng hóa nào ra khỏi
phạm vi áp dụng của Luật hay bất kỳ điều khoản nào của Luật này. Khoản 14(2) này
nói rằng việc miễn trừ chỉ liên quan đến việc bán phá giá hàng hóa đó hay là nhóm
hàng hóa đó. Thế nhưng hàng hóa của Chile sẽ không được hưởng miễn trừ trong
trường hợp áp dụng các biện pháp thuế đối kháng.
Khoản 14(3) của Đạo luật quy định rằng các quy định pháp luật được lập theo
khoản 14(2) có thể quy định thời hạn cho việc miễn trừ và có thể đưa ra các điều kiện
hưởng miễn trừ.
Quy định miễn trừ hàng hóa của Chile ra khỏi phạm vi điều chỉnh của quy
định về các biện pháp chống bán phá giá được ban hành phù hợp với khoản 14(2) của
Đạo luật. Phần 1 của các quy định pháp luật này quy định rằng hàng hóa mà được coi
là hàng xuất xứ từ Chile theo những quy tắc được đưa ra trong Những Quy định về
Xuất xứ Hàng hóa của CCFTA (Hiệp định tự do thương mại Canada-Chile) và được
hưởng ưu đãi cho hàng hóa của Chile trong Quy định Ưu đãi Thuế quan CCFTA sẽ
được miễn trừ áp dụng của các biện pháp chống bán phá giá.
Như vậy có hai điều kiện mà một hàng hóa phải thỏa mãn để được miễn trừ áp
dụng biện pháp chống bán phá giá, đó là:

(a) Hàng hóa phải được coi là hàng hóa có nguồn gốc từ Chile theo những quy
tắc của Những quy định về xuất xứ đã được nói phía trên. Và
(b) Hàng hóa phải được hưởng ưu đãi thuế quan đối với Chile trong Quy định
về Ưu đãi thuế quan đã được nói ở trên.
Nếu có thắc mắc về việc liệu một hàng hóa có thỏa mãn các điều kiện theo quy
định về xuất xứ hay áp dụng thuế quan đối với Chile hay không, thì câu hỏi này phải
được gửi đến Tổng vụ Chính sách thương mại và Giải thích, một bộ phận của Cục
chịu trách nhiệm về phân loại xuất xứ và thuế quan.
Trong trường hợp hàng hóa được xuất gián tiếp từ Chile đến Canada, có nghĩa
là hàng hóa có xuất xứ từ Chile đó đã tham gia vào hoạt động thương mại của một
nước khác trước khi được xuất sang Canada, hàng hóa này phải được xác định xem
nó có được tiếp tục được miễn trừ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá không.
Hàng hóa sẽ được hưởng miễn trừ khi cả hai điều kiên trên được thỏa mãn. Trong
trường hợp hàng hóa đó không còn được coi là xuất xứ từ Chile hoặc là không còn
được hưởng chế độ thuế quan đối với hàng hóa của Chile nữa thì hàng hóa đó sẽ
không được hưởng miễn trừ.
1.5.2.4. Hiệp định tự do thương mại Canada- Costa Rica
Hiệp định tự do thương mại Canada- Costa Rica có hiệu lực thực thi từ ngày
mồng 1 tháng 11 năm 2002, trong đó có một chương quy định về các Biện pháp
Chống bán phá giá (xem chương 7). Chương này nhấn mạnh một số nghĩa vụ của
Canada theo WTO, mà cụ thể là những quy định trong Hiệp định về việc thực thi
điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại 1994 (GATT) để đảm bảo
sự công bằng và minh bạch trong thủ tục.
Trong hiệp định này có một quy định về nghĩa vụ liên quan của CBSA, đó là
trong trường hợp việc điều tra có liên quan đến Costa Rica, thì cơ quan điều tra phải
gửi một công văn thông báo đến chính phủ Costa Rica để liên lạc về trường hợp điều
tra đó.
7



Chú ý rằng hiệp định này chỉ gồm các điều khoản quy định về các biện pháp
chống phá giá, điều này có nghĩa là không có điều khoản nào quy định về các biện
pháp thuế đối kháng.
2. GIỚI THIỆU VỀ SIMA
2.1. Tóm tắt quy trình của SIMA
2.1.1. Giói thiệu
Luật Các biện pháp Nhập khẩu đặc biệt (SIMA) của Canada giúp bảo vệ các
nhà sản xuất Canada không bị thiệt hại do hành vi bán phá giá và/hoặc trợ giá và là
một trong những công cụ chính sách thương mại chủ yếu của Canada. Trước khi đi
vào quy trình điều tra của SIMA, chúng ta cần hiểu khái quát về phá giá và trợ giá
như sau.
Phá giá có thể được hiểu là việc bán hàng hóa sang thị trường nước ngoài với
mức giá thấp hơn mức giá hàng hóa “tương tự” được bán trong thị trường nội địa của
nhà xuất khẩu. Việc có tồn tại hành vi bán phá giá hay không có thể được kiểm chứng
qua việc so sánh hai mức giá của hàng hóa bị điều tra. Mức giá mà hàng hóa được
bán cho người nhập khẩu ở Canada được gọi là giá xuất khẩu, mức giá của hàng hóa
tương tự được bán trong nước xuất khẩu được gọi là giá thông thường của hàng hóa.
Biên độ bán phá giá là bằng giá thông thường trừ đi giá xuất khẩu của hàng hóa.
Hành vi bán hàng còn được coi là bán phá giá khi giá xuất khẩu nhỏ hơn tổng các chi
phí của hàng hóa đó.
Trợ giá xảy ra trong trường hợp có hỗ trợ về tài chính của một chính phủ
không phải của nước nhập khẩu đem lại lợi ích mà lợi ích này được tích lũy lại cho
hàng xuất khẩu. Giá trị của khoản trợ giá về cơ bản là giá trị thực tế tìm được từ việc
xem xét các chương trình trợ giá cụ thể của chính phủ đó.
Trong trường hợp CITT xác nhận có thiệt hại đối với ngành sản xuất hàng hóa
tương tự ở Canada, thì hậu quả của hành vi bán phá giá hoặc trợ giá chỉ có thể được
bù đắp bằng việc áp dụng thuế SIMA. Việc đánh giá thiệt hại của cơ quan này bao
gồm đánh giá những vấn đề như thiệt hại doanh thu, giảm giá, kìm hãm giá, suy giảm
lợi nhuận, mất thị phần, sa thải công nhân và không tận dụng được hết năng lực sản
xuất.

SIMA còn quy định cả khung thời gian cho việc thực hiện từng giai đoạn của
quá trình điều tra. Hơn nữa, còn có các điều khoản quy định về:
(a)
(b)
(c)
quyết đó.
(d)
(e)

Việc chấp nhận các cam kết giá và cam kết số lượng.
Việc tiết lộ thông tin.
Phán quyết của CITT và việc rà soát tư pháp đối với các phán
Quá trình xác định lại thuế SIMA (kháng nghị).
Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ với Hoa Kỳ và Mexico.

2.1.2. Khái quát về quy trình
Phần dưới đây trình bày khái quát về quy trình SIMA. Chi tiết về quy trình
SIMA được in trong tài liệu “Công bố về quy trình quản lý hành chính cho SIMA”, có
thể truy cập tại trang web của CBSA, trương mục Các ấn phẩm SIMA.
2.1.2.1. Nhận hồ sơ
Việc điều tra chống phá và trợ giá thường được bắt đầu từ khiếu nại của các
nhà sản xuất của Canada. Quá trình nhận và xem xét hồ sơ được tính từ khi một nhà
8


sản xuất đầu tiên khiếu nại lên Tổng vụ cho đến khi quyết định được đưa ra về việc
liệu có bắt đầu điều tra hay không. Theo luật quá trình này được chia làm hai giai
đoạn. Giai đoạn đầu xem xét xem hồ sơ khiếu nại có đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về
thông tin, tài liệu chưa. Khi đơn khiếu nại được gửi lên, SIMA quy định rằng trong
vòng 21 ngày, phải quyết định xem các hồ sơ đã nộp có hợp lệ không. Nếu không đủ

thông tin, người khiếu nại sẽ được thông báo về sai sót đó và yêu cầu cung cấp các
thông tin và tài liệu được quy định. Về cơ bản, không có quy định hạn chế số lần bổ
sung hồ sơ. Mỗi lần một hồ sơ khiếu nại được đệ trình lại thì Tổng vụ phải quyết định
xem hồ sơ có hợp lệ không.
Khi hồ sơ khiếu nại được xác định là hợp lệ, SIMA quy định rằng trong vòng
30 ngày Tổng vụ phải quyết định hoặc bác bỏ khiếu nại hoặc tiến hành điều tra. Thời
hạn 30 ngày này có thể được kéo dài đến 45 ngày nếu chưa đủ căn cứ để kết luận đơn
kiện đã đáp ứng được hai điều kiện sau hay chưa. Thứ nhất, điều tra sẽ chỉ được tiến
hành nếu tổng sản lượng của các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện lớn hơn tổng sản
lượng của các nhà sản xuất phản đối đơn kiện. Thứ hai, các nhà sản xuất ủng hộ đơn
khiếu nại phải chiếm tối thiểu 25% tổng sản lượng hàng hóa tương tự của Canada.
2.1.2.2. Điều tra
Điều tra bán phá giá hay trợ giá về cơ bản kéo dài 180 ngày, chia đều làm hai
giai đoạn với điểm chuyển giao là thời điểm ban hành quyết định sơ bộ về mức độ
bán phá giá hay khoản trợ giá. Kể từ ngày bắt đầu tiến hành điểu tra, CBSA có thời
hạn 90 ngày để đưa ra quyết định ngừng việc điều tra hay hoặc kểt luận sơ bộ về việc
bán phá giá hay trợ giá. Trong thời hạn 90 ngày đó, cán bộ của Cục liên lạc với các
nhà xuất khẩu và nhập khẩu yêu cầu cung cấp các thông tin cần thiết để sơ bộ xác
định giá thông thường và giá xuất khẩu. Trong trường hợp điều tra trợ giá, CBSA sẽ
liên lạc với chính phủ nước xuất khẩu và nhà xuất khẩu để ước tính khoản trợ giá.
Các thông tin hữu ích thu thập trong giai đoạn này sẽ được sử dụng để tính biên độ
phá giá hoặc khoản trợ giá trong quyết định sơ bộ. Quy định về điều tra cũng có một
điều khoản cho phép kéo dài thời hạn điều tra trong giai đoạn này từ 90 ngày tới 135
ngày. Tuy nhiên việc kéo dài thời hạn này chỉ hạn chế cho một số rất ít các trường
hợp.
Về phía CITT, khi nhận được thông báo bắt đầu điều tra của CBSA, họ sẽ
thực hiện điều tra sơ bộ về thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Trong điều tra
này CITT xác định xem liệu có chứng cớ “hợp lý” về việc bán phá giá, trợ giá này đã
gây thiệt hại, hoặc kìm hãm sự phát triển hoặc đe dọa gây thiệt hại cho nền sản xuất
trong nước hay không. CITT phải hoàn tất việc điều tra trong vòng 60 ngày.

Nếu CITT nhận định rằng có chứng cứ hợp lý về việc bán phá giá hoặc trợ giá
đã gây thiệt hại, hay kìm hãm sự phát triển, hay đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản
xuất trong nước, thì CITT sẽ đưa ra phán quyết có thiệt hại và Cục trưởng CBSA sẽ
tiếp tục việc điều tra bán phá giá hoặc trợ giá đó. Nếu không có đủ chứng cứ rằng
việc bán phá giá hay trợ giá gây thiệt hại, cản trở hoặc đe dọa gây thiệt hại, Tòa sẽ
chấm dứt điều tra về thiệt hại và đồng thời Cục trưởng CBSA cũng đình chỉ việc điều
tra phá giá hoặc trợ giá.
Khi Cục trưởng đưa ra quyết định sơ bộ về việc bán phá giá và trợ giá, tất cả
hàng nhập khẩu là đối tượng trong quyết định khi thông quan sẽ phải nộp thuế tạm
thời với giá trị thuế không lớn hơn mức độ bán phá giá hoặc khoản tiền trợ giá. Người
nhập khẩu có thể lựa chọn việc đặt cọc thay cho việc nộp thuế. Thời kỳ này bắt đầu
9


vào ngày Cục trưởng ra quyết định sơ bộ về việc bán phá giá hoặc trợ giá và kết thúc
vào ngày Cục trưởng cho đình chỉ việc điều tra hoặc CITT ra phán quyết về việc có
thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, theo khoản 8(5) trong trường
hợp Cục trưởng chấp nhận cam kết ngừng bán phá giá hoặc trợ giá, việc thu thuế tạm
thời đối với hàng hóa là đối tượng điều tra được ngừng lại trong thời kỳ cam kết đó có
hiệu lực.
SIMA còn quy định việc xem xét và chấp nhận cam kết được đưa ra trong thời
kỳ sau khi có kết luận sơ bộ về hành vi bán phá giá hoặc trợ giá nhưng trước khi
quyết định chính thức. Để được Cục trưởng chấp nhận, cam kết phải loại bỏ được
hành vi bán phá giá hoặc trợ giá hoặc là hạn chế ảnh hưởng đến ngành sản xuất ở
Canada. Trong trường hợp điều tra về bán phá giá, người xuất khẩu phải đệ trình lên
CBSA cam kết tăng giá hàng hoá xuất khẩu sang Canađa trong các giao dịch với nhà
nhập khẩu. Trong trường hợp điều tra về trợ giá, người xuất khẩu cũng có thể đệ tình
những cam kết về giá, nhưng những cam kết này phải được sự chấp thuận của chính
phủ nước xuất khẩu. Ngoài ra, chính phủ nước xuất khẩu cũng có thể đệ trình cam kết
loại bỏ trợ giá hoặc hạn chế số lượng hàng trợ giá được xuất sang Canada.

Nếu cam kết được chấp nhận, quá trình điều tra thông thường được ngừng lại
trừ trường hợp người xuất khẩu (trong trường hợp điều tra bán phá giá) hoặc chính
phủ nước xuất khẩu (trong trường hợp trợ giá) đề nghị CITT tiếp tục hoàn tất quá
trình điều tra. Những cam kết này có thể được sửa đổi theo thời gian đảm bảo cho các
điều kiện của cam kết phù hợp với sự thay đổi của thị trường. Nếu cam kết không
được chấp nhận và quá trình điều tra không bị đình chỉ, thông tin thu thập được trong
quá trình điều tra sẽ được sử dụng để đưa ra kết luận cuối cùng hoặc để chấm dứt quá
trình điều tra.
Cục trưởng chỉ có thể đưa ra kết luận cuối cùng nếu trên cơ sở các bằng chứng
đã có, Cục trưởng nhận thấy hàng hóa đã bị bán phá giá hoặc trợ giá, và biên độ bán
phá giá hoặc khoản trợ giá của hàng hóa đó của nước bị điều tra đó hoặc của một
trong số các nước bị điều tra là đáng kể. Như vậy, quá trình điều tra sẽ bị chấm dứt
nếu Cục trưởng thấy có đủ bằng chứng cho rằng hàng hóa đó không bị bán phá giá
hoặc trợ giá hoặc biên độ phá giá hoặc khoản trợ giá là không đáng kể.
Trong trường hợp việc điều tra không bị đình chỉ, SIMA quy đinh CBSA có
thời hạn tối đa 90 ngày kể từ ngày có quyết định sơ bộ để hoặc đưa ra quyết định cuối
cùng hoặc là chấm dứt vụ việc. Giai đoạn thứ hai trong quá trình điều tra là thời gian
để CBSA đánh giá kỹ hơn và thông qua lần cuối cùng mọi tính toán về các giá trị,
biên độ bán phá giá hoặc hoặc khoản trợ giá đã được ước tính trong quyết định sơ bộ.
Trong suốt giai đoạn này, các cuộc họp công khai với các bên của vụ việc sẽ được tổ
chức để giải thích quy trình và kết quả tính toán giá thông thường, giá xuất khẩu hoặc
khoản trợ giá.
Khi Cục trưởng đưa ra quyết định sơ bộ về việc bán phá giá hoặc trợ giá, CITT
sẽ bắt đầu điều tra về thiệt hại cuối cùng. Khi điều tra thiệt hại cuối cùng, CITT yêu
cầu các bên liên quan cung cấp thông tin, làm việc với đại diện của các bên và tổ chức
các cuộc điều trần công khai. Các quy định trong SIMA có nêu rõ các yếu tố mà CITT
phải xem xét để đưa ra phán quyết liệu việc bán phá giá hoặc trợ giá có gây ra thiệt
hại, cản trở sự phát triển hay đe doạ gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong
nước. Các yếu tố này bao gồm số lượng hàng bị bán phá giá hay trợ giá, hậu quả của
việc bán phá giá hoặc trợ giá đối với giá cả của hàng hoá tương tự ở Canađa và tác

động của việc bán phá giá, trợ giá đối với sản lượng, doanh thu, thị phần, lợi nhuận,
tuyển dụng lao động và công suất sản xuất của các nhà sản xuất Canađa.
10


2.1.2.3. Phán quyết thiệt hại của CITT và các Quyết định sau đó
CITT phải ban hành phán quyết về thiệt hại trong vòng 120 ngày kể từ ngày có
quyết định sơ bộ của Cục trưởng. Một phán quyết của CITT cho thấy có thiệt hại, kìm
hãm sự phát triển hoặc đe doạ gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước là
cơ sở pháp lý cho CBSA để đánh thuế chống bán phá giá hoặc thuế đối kháng.
Nếu CITT ban hành phán quyết không có thiệt hại, CBSA sẽ phải chấm dứt
điều tra ngay lập tức, bao gồm cả những cam kết, và hoàn trả lại các khoản thuế tạm
thời đã được nộp, giải phóng các khoản đặt cọc của nhà nhập khẩu thay cho việc nộp
thuế. Tuy nhiên nếu CITT ban hành phán quyết có thiệt hại thì trong vòng 6 tháng
CBSA sẽ phải đưa ra mức thuế cho từng lô hàng đã nhập khẩu trong thời kỳ đánh
thuế tạm thời. Mức thuế này thông thường được tính dựa trên mức giá thông thường
hoặc khoản trợ giá được xác định trong quyết định cuối cùng của Cục trưởng. Tuy
nhiên nếu những giá trị đó bị coi là không còn phù hợp do có sự biến động trên thị
trường nội địa, CBSA sẽ phải rà soát để đưa ra mức giá thông thường hoặc khoản trợ
giá mới.
2.1.2.4. Công tác thực thi
Nếu CITT đưa ra phán quyết có thiệt hại và không có cam kết nào được đưa ra
thì tất cả hàng hóa là đối tượng điều tra được nhập khẩu sau giai đoạn tạm thời sẽ
được áp thuế trên cơ sở mức giá thông thường mới nhất hoặc khoản trợ giá mới nhất.
Khi mới áp dụng, những giá trị này được quy định trên quyết định cuối cùng của Cục
trưởng, tuy nhiên trong quá trình thực thi chúng sẽ được rà soát và cập nhật theo định
kỳ.
Nếu CITT có phán quyết về việc hàng hoá được bán phá giá hoặc trợ giá gây
thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước thì người nhập khẩu hàng hóa đó phải nộp
thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng bằng với biên độ bán phá giá hoặc khoản

trợ giá. Hàng hoá nhập khẩu vào Canada trong vòng 30 ngày kể từ khi được khai báo
theo Luật Hải quan sẽ thuộc thẩm quyền quyết định của cán bộ hải quan. Trước tiên,
cán bộ hải quan phải xác định liệu hàng hóa đó có phải đối tượng áp dụng phán quyết
có thiệt hại của CITT hay không. Nếu phải, cán bộ Hải quan sẽ phải xác định giá
thông thường và giá xuất khẩu, và hoặc khoản trợ giá để xác định mức thuế SIMA mà
người nhập khẩu phải trả. Nếu trong thời hạn 30 ngày này, cán bộ Hải quan không
đưa ra quyết định về những vấn đề này thì người nhập khẩu đó được coi là đã khai
báo chính xác về hàng hóa.
Xem thêm Phần 6 “Công tác thực thi và Kháng nghị” để biết thêm chi tiết về
vấn đề này.
2.1.2.5. Các kết luận lại
Nhà nhập khẩu có thể kháng nghị kết luận của Cán bộ Hải quan, hoặc việc
được coi là đã đưa ra kết luận, lên một cán bộ được chỉ định của Cục (DO) trong thời
hạn 90 ngày. Tương tư, quyết định của DO cũng có thể bị kháng nghị lên Cục trưởng
trong thời hạn 90 ngày.
DO cũng có thể tự mình đưa ra kết luận lại đối với bất kỳ một kết luận nào,
hoặc việc được cọi là đã ra kết luận, của cán bộ hải quan trong vong 2 năm kể từ khi
có kết luận đó hoặc được coi là đã ra kết luận đó. Tương tự, trong vòng 2 năm kể từ
khi có quyết định của DO, Cục trưởng CBSA cũng có quyền tự đưa ra kết luận lại đối
với quyết định đó.
11


Tất cả các kết luận lại của Cục trưởng đều có thể bị kháng nghị lên CITT, hoặc
lên ban Hội thẩm hai nước nếu là hàng hoá của Hoa Kỳ hoặc Mêxicô. Các kết luận
cuối cùng của Cục trưởng, các quyết định chấm dứt điều tra, các phán quyết của
CITT, và các quyết định về việc gia hạn hoặc không gia hạn cam kết đều có thể bị
kháng nghị lên Toà Liên bang Canađa, hoặc lên ban Hội thẩm 2 nước nếu là hàng hoá
của Hoa Kỳ và Mêxicô. Hình thức kháng nghị cuối cùng trong quy trình SIMA là
kháng nghị đối với khia cạnh thủ tục pháp lý của quy trình ra phán quyết của CITT

lên Toà Phúc thẩm liên bang, ban Hội thẩm hai nước, hoặc một uỷ ban kháng nghị
đặc biệt,
Điều 77.01(1) xác định tất cả những quyết định cuối cùng của CITT và Cục
trưởng CBSA mà có thể bị kháng nghị lên ban Hội thẩm hai nước. Trong trường hợp
có một vụ việc vừa được kháng nghị lên ban Hội thẩm vừa được kháng nghị ra toà
án, thì bên kháng nghị sẽ chỉ được chọn một kênh kháng nghị duy nhất và quy trình
kháng nghị ban hội thẩm sẽ được ưu tiên. Các phán quyết của ban hội thẩm không thể
bị kháng nghị ra toà án, nhưng có thể bị kháng nghị lên Uỷ ban Kháng nghị đặc biệt.
Tuy nhiên, đây không phải là một kênh kháng nghị phổ biến, mà là một quy trình
dành riêng cho các trường hợp thực sự đặc biệt.
2.2 Định nghĩa các thuật ngữ chính
Các trang tiếp theo đây sẽ đề cập đến các định nghĩa của các thuật ngữ chính
trong SIMA mà các cán bộ vụ việc thường gặp phải trong các cuộc điều tra bán phá
giá và trợ cấp. Một số định nghĩa dưới đây giống với các định nghĩa đã được nói đến
trong Phần “Định nghĩa” của SIMA, còn một số khác thì có cung cấp thêm thông tin
cần thiết.
Hiệp định chống bán phá giá
Kể từ phần này trở đi, thuật ngữ hiệp định được hiểu là Hiệp định Chống bán
phá giá. Tên chính thức của hiệp định này là “Hiệp định về việc thực thi điều VI của
Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch 1994”. Nó được WTO thông qua để thay
thế cho “Hiệp định về việc thực thi điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và
Mậu dịch” trước đây, vốn được mọi người biết đến dưới cái tên là Bộ luật chống bán
phá giá của GATT.
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Kể từ phần này trở đi, thuật ngữ hiệp định này được hiểu là Hiệp định chống
trợ cấp. Hiệp định này được WTO thông qua để thay thế cho Bộ luật về trợ cấp và
thuế đối kháng trước đây của GATT (được biết đến dưới cái tên Hiệp định về việc
diễn giải và áp dụng các Điều VI, XVI và XXIII của Hiệp định chung về Thuế quan
và Mậu dịch).
Theo quy định của SIMA, các quy định trong Hiệp định này sẽ được xem xét

kỹ lưỡng khi đưa ra quyết định liên quan đến việc xác định xem một hành vi có phải
là trợ cấp hay không, là hành vi trợ cấp trong nước hay là hành vi trợ cấp bị cấm, và
liệu có cần áp dụng biện pháp đối kháng hay không.
12


Mức trợ cấp
Theo định nghĩa tại khoản 1, Điều 2, mức trợ cấp là mức được xác định theo
quy định tại khoản 4, Điều 30. Phần đầu của Điều 30.4 này quy định về việc xác định
mức trợ cấp theo quy định của luật, tức là xác định theo SIMR. SIMR quy định cách
tính mức trợ cấp đối với một số loại trợ cấp nhất định. Tuy nhiên, có thể có một số
loại trợ cấp biến tướng mà SIMR chưa điều chỉnh. Nếu hành vi trợ cấp không nằm
trong phạm vi điều chỉnh của SIMR thì sẽ áp dụng phần thứ hai của Điều 30.4. Phần
này cũng được áp dụng trong 03 trường hợp: khi SIMR không đưa ra các quy định về
cách xác định mức trợ cấp; khi người xuất khẩu hoặc chính phủ nước ngoài không
cung cấp đầy đủ thông tin; và hoặc khi không có thông tin liên quan. Trong các
trường hợp như vậy, việc xác định mức trợ cấp sẽ do Bộ trưởng quyết định. Phần thứ
ba của Điều 30.4 quy định rằng mức trợ cấp được xác định không bao gồm khoản trợ
cấp được phép tự do sử dụng mà không bị kiện (trợ cấp xanh) 1. Xem thêm chi tiết tại
các khái niệm “hàng hóa được trợ cấp”, “trợ cấp” và “các khoản trợ cấp được phép tự
do sử dụng” được định nghĩa trong khoản 1, Điều 2 của SIMA và Phần II của SIMR
liên quan đến mức trợ cấp. Ngoài ra, có thể xem thêm Phần 5.15 đề cập đến việc xác
định mức trợ cấp.
Những chủ thể liên kết
Việc giải thích thuật ngữ này được quy định tại các khoản 2, 3 và 4, Điều 2
Luật SIMA. Việc xác định xem liệu hai chủ thể có quan hệ liên kết với nhau hay
không đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định giá xuất khẩu và giá thông
thường. Cụ thể là mục (b), khoản (1) Điều 25 Luật SIMA có quy định cho rằng hoạt
động mua bán giữa các chủ thể liên kết có thể làm mất đi tính tin cậy của việc khai
báo giá bán, do đó phải sử dụng các phương thức khác để xác định giá xuất khẩu.

Ngoài ra, một trong những yêu cầu cơ bản khi lựa chọn giá bán tại thị trường nội địa
để xác định giá thông thường theo như quy định tại Điều 15 là giá bán trong nước
phải là giá mà người xuất khẩu bán cho những người mua không có quan hệ liên kết
gì với mình xét tại thời điểm diễn ra hoạt động mua bán đó. Khoản (2), Điều 2 Luật
SIMA mô tả “các chủ thể liên kết” hay các chủ thể có liên quan với nhau là :
các chủ thể có liên quan với nhau ; hoặc
(a) những chủ thể không có liên quan với nhau hoặc không giao dịch với nhau
một cách độc lập.
Quy định chi tiết về hai trường hợp này có tại các khoản 3 và 4, Điều 2 Luật
SIMA. Các tiêu chí quy định tại khoản 3, Điều 2 Luật SIMA sẽ được áp dụng để xác
định xem các chủ thể có liên quan với nhau hay không. Theo quy định của tiêu chí
đầu tiên, cần phải làm rõ mối liên hệ của các cá nhân xét theo quan hệ huyết thống,
1

Người dịch : Theo Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO (SCM), trợ cấp được phân làm
3 loại : trợ cấp bị cấm sử dụng (prohibited subsidy - trợ cấp đỏ) ; trợ cấp được phép sử dụng nhưng có thể bị
kiện (actionable subsidy - trợ cấp vàng) và trợ cấp được phép tự do sử dụng (non-actionable subsidy - trợ cấp
xanh).

13


quan hệ hôn nhân, quan hệ đối tác theo quy định của thông luật, hoặc quan hệ con
nuôi trong phạm vi quy định của khoản 6, Điều 251 Luật Thuế thu nhập.
Khoản 4, Điều 2 quy định về các trường hợp khác được đề cập trong khoản 2,
Điều 2, nghĩa là về các trường hợp mà các chủ thể không có liên quan đến nhau
nhưng cũng không giao dịch với nhau một cách độc lập. Theo quy định tại khoản 4,
Điều 2, vấn đề các chủ thể có giao dịch với nhau một cách độc lập hay không phải
được xem xét dựa trên thực tiễn. Dù hai công ty không liên quan với nhau nhưng
chúng vẫn có thể được coi là có quan hệ liên kết nếu chúng không giao dịch với nhau

một cách độc lập, ví dụ nếu như :
các bên cùng phối hợp hành động, và những lợi ích thương mại giữa các bên là
không tách biệt ;
(a) một bên là nhà phân phối cho bên kia, trong trường hợp người nhập khẩu
hoạt động chỉ nhằm mục đích nhập khẩu và phân phối các sản phẩm cho người xuất
khẩu.
Các nhân tố như vậy có thể cho thấy rằng lợi ích của người xuất khẩu và các
khách hàng trong nước, hoặc của người xuất khẩu và người nhập khẩu là một. Khi đó
không có gì bảo đảm được rằng mức giá áp dụng giữa các chủ thể kinh doanh này là
đáng tin cậy.
Tòa án Thương mại quốc tế Canađa
Phần này liên quan đến Tòa án Thương mại quốc tế Canađa (CITT). Cơ quan
này bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 31 tháng 12 năm 1988 sau khi được hợp nhất
giữa ba cơ quan là Tòa án Nhập khẩu Canađa, Ban Thuế quan và Ban Dệt may.
Xem thêm Phần 3 của Sổ tay này để biết thêm chi tiết về CITT.
Nước
Trừ khi ngữ cảnh yêu cầu phải diễn giải khác, thuật ngữ “nước” dùng để chỉ :
(a) một vùng lãnh thổ bên ngoài hoặc độc lập của một nước và bất kỳ một
vùng lãnh thổ nào khác theo quy định của Tổng Thủ hiến Canađa, và
(b) một liên minh thuế quan, trừ trường hợp điều tra liên quan đến bán phá giá
hàng hóa.
Nước xuất khẩu
Thuật ngữ này được quy định trong khoản 1, Điều 2 Luật SIMA. Nó cũng xuất
hiện trong Điều 30 liên quan đến hàng hóa xuất khẩu vào Canađa qua một nước trung
gian, Điều 34 liên quan đến gửi thông báo tiến hành điều tra cho chính phủ của nước
xuất khẩu và trong nhiều phần khác của Luật SIMA và các Quy tắc hướng dẫn xác
14


định giá thông thường. Định nghĩa này giúp xác định nước có liên quan đến hàng hoá

đang được tính toán biên độ phá giá hay mức trợ cấp.
Trong trường hợp bán phá giá hàng hóa, nước xuất khẩu là nước từ đó hàng
hóa được xuất trực tiếp sang Canađa, có nghĩa là, địa điểm từ đó hàng hóa bắt đầu
một hành trình liên tục tới Canađa. Thường thì địa điểm được ghi trên bộ chứng từ
vận tải (mà thường là Vận đơn) cũng là địa điểm được thể hiện trên chứng từ Hải
quan. Các sự việc làm chậm trễ hoạt động xuất khẩu đó, như tạm gửi hàng vào kho
hàng để gửi dần làm nhiều chuyến, gửi hàng vào kho hàng để đóng gói xuất khẩu và
chuyển tải hàng hóa đều không được coi là các sự việc gây gián đoạn hành trình liên
tục của hàng hóa được xuất khẩu sang Canađa. Trong trường hợp trợ cấp hàng hóa,
nước xuất khẩu được xác định là nước xuất xứ của khoản trợ cấp.
Cao ủy
Xem định nghĩa về “Cục trưởng”
Ngành sản xuất trong nước
Thuật ngữ này dùng để chỉ hoặc toàn bộ các nhà sản xuất trong nước đối với
hàng hóa tương tự hoặc một số các nhà sản xuất trong nước có sản lượng chiếm một
phần chủ yếu trong tổng sản lượng hàng hóa tương tự được sản xuất trong nước. Một
nhà sản xuất trong nước có thể không được coi là nằm trong ngành sản xuất trong
nước nếu nhà sản xuất này có quan hệ liên kết với người xuất khẩu hay người nhập
khẩu hoặc nếu nhà sản xuất đó lại là người nhập khẩu hàng hóa là đối tượng bị điều
tra chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp.
Trong một số trường hợp đặc biệt, khái niệm ngành sản xuất trong nước có thể
dùng để chỉ một số thị trường tính theo vùng, miền nếu như các nhà sản xuất ở các thị
trường đó bán ra thị trường tất cả hay gần như tất cả lượng hàng hóa tương tự mà họ
sản xuất ra và không có một nhà sản xuất nào khác trên lãnh thổ Canađa cung cấp
hàng hóa tương tự với số lượng đáng kể để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Thuế
Thuế bao gồm thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, và thuế tạm thời. Thuật
ngữ này được quy định trong nhiều điều khoản khác nhau của Luật SIMA, mà nhiều
nhất là trong các điều khoản quy định về nghĩa vụ liên quan đến thuế. Các loại thuế
đó là cơ chế chủ yếu cho phép đền bù thiệt hại mà hành vi bán phá hoặc trợ cấp gây ra

cho ngành sản xuất của Canađa. Theo quy định của Luật Hải quan, khái niệm thuế
bao gồm cả các loại thuế được quy định trong Luật SIMA.
Rà soát đối với các nhà xuất khẩu mới

15


Luật SIMA quy định về rà soát đối với các nhà xuất khẩu mới tại khoản 2,
Điều 13. Việc rà soát này được tiến hành trong giai đoạn thực thi khi có yêu cầu từ
các nhà xuất khẩu mà trong các giai đoạn trước đó không có liên quan gì đến vụ việc
bán phá giá hoặc trợ cấp. Trong quá trình việc rà soát này được tiến hành, nghĩa vụ về
thuế đối với các lô hàng của các nhà xuất khẩu mới này được đảm bảo bằng một số
hình thức như ký quỹ tiền mặt, séc bảo chứng hay bảo lãnh cho đến khi quá trình rà
soát này kết thúc (Xem thêm Quy tắc 56).
Hỗ trợ tài chính
Theo quy định của Điều 2 Luật SIMA về khái niệm “trợ cấp”, một trong các
nhân tố chủ yếu cần phải có trước khi có trợ cấp, đó là cần phải có sự hỗ trợ tài chính
từ phía chính phủ một nước không phải là Canađa. Khái niệm “hỗ trợ tài chính” được
quy định chi tiết tại khoản 1.6, Điều 2.
Chính phủ
Định nghĩa của thuật ngữ này được quy định tại khoản 1, Điều 2 Luật SIMA và
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc xác định nguồn gốc của các khoản
trợ cấp. Thuật ngữ này không chỉ dùng để chỉ chính phủ cấp trung ương của nước
xuất khẩu mà còn để chỉ cơ quan các cấp của chính phủ, các cá nhân hay tổ chức hành
động nhân danh một chính phủ, hoặc một hiệp hội gồm nhiều nước, ví dụ như các
nước thuộc Liên minh châu Âu.
Phó Cục trưởng
Vào ngày 12 tháng 12 năm 2003, trách nhiệm thực thi chương trình hải quan
của CCRA được chuyển cho một cơ quan mới được thành lập vào cùng ngày có tên là
Cơ quan Quản lý Mậu biên Canađa (CBSA). Tất cả các công việc liên quan đến thực

thi SIMA, trước đây thuộc trách nhiệm của Trợ lý Cao ủy, Ngành Hải quan thuộc
CCRA, thì nay được Cục trưởng CBSA trao lại cho Phó Cục trưởng của CBSA phụ
trách ngành Hải quan, Chống bán phá giá, Chống trợ cấp và giải quyết Kháng nghị.
Người/Nhà nhập khẩu
Theo định nghĩa tại khoản 1, Điều 2 Luật SIMA, người/nhà nhập khẩu là
người thực tế nhập khẩu hàng hóa. Trong phần lớn các vụ việc, việc ai là người nhập
khẩu là khá rõ ràng. Nhưng trong một số trường hợp, việc xác định nhà nhập khẩu lại
không dễ dàng như vậy. Trong trường hợp đó, cán bộ phụ trách vụ việc phải tìm hiểu
kỹ lưỡng các chứng từ nhập khẩu và xem xét giao dịch một cách cẩn thận. Người
nhập khẩu là chủ thể tại Canađa có trách nhiệm nộp thuế theo quy định của Luật
SIMA và có thể không phải là người nhập khẩu theo như quy định của Luật Hải quan.
Thiệt hại
16


Khái niệm thiệt hại, thường được hiểu là thiệt hại đáng kể đối với ngành sản
xuất trong nước, xuất hiện ở khắp nơi trong Luật SIMA. Đương nhiên, về cơ bản, các
Thỏa thuận trong khuôn khổ WTO và pháp luật của Canađa đều quy định rằng chỉ có
thể quy kết là một hàng hoá được bán phá giá hoặc trợ cấp nếu như hành vi đó đã gây
ra thiệt hại hay làm kìm hãm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại. Vì vậy, vấn đề cơ bản khi tiến hành điều tra bán phá giá hoặc trợ cấp
là xác định xem liệu có thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước do hàng hóa nhập
khẩu được bán phá giá hay được trợ cấp gây ra hay không.
Có thể lấy ví dụ về một số nhân tố cấu thành nên thiệt hại như suy giảm doanh
thu hay lợi nhuận, kìm hãm tăng giá, giảm số lượng việc làm, giảm giá hay trượt giá,
vv… Xem thêm Phần 4.2.3 và khoản 1, Điều 37 của SIMR để có một danh sách chi
tiết hơn về các nhân tố cần xem xét khi đánh giá thiệt hại.
Biên/Mức độ không đáng kể
Thuật ngữ này, trong trường hợp bán phá giá, được dùng để chỉ một biên độ
phá giá thấp hơn 2% của giá xuất khẩu. Còn trong trường hợp trợ cấp, mức trợ cấp

được coi là không đáng kể nếu thấp hơn 1% giá xuất khẩu của mặt hàng có liên quan.
Hàng hóa tương tự
Thuật ngữ này dùng để chỉ hàng hóa giống hệt xét trên mọi khía cạnh. Còn nếu
không có hàng hóa như vậy thì hàng hóa tương tự là hàng hóa có các tính năng sử
dụng hoặc các đặc tính khác giống với các hàng hóa khác. Trong Hiệp định về Chống
bán phá giá và Hiệp định về Trợ cấp, có thể tìm thấy khái niệm tương đương với
“hàng hóa tương tự”, đó là “sản phẩm tương tự”. Về điểm này thì cách quy định trong
Luật SIMA, trong Hiệp định về Chống bán phá giá (Điều 2.6) và Hiệp định về Trợ
cấp (phần chú thích của Điều 15.1) cũng tương tự như nhau. Cả hai Hiệp định nói trên
đều quy định rằng thuật ngữ “sản phẩm tương tự” được diễn giải để chỉ một sản phẩm
giống hệt xét trên mọi khía cạnh so với sản phẩm đang được xem xét. Trong trường
hợp không có sản phẩm như vậy, “sản phẩm tương tự” dùng để chỉ một sản phẩm
khác mà dù không giống hệt xét trên mọi khía cạnh nhưng cũng mang những đặc tính
gần giống với các đặc tính của sản phẩm đang được xem xét.
Khái niệm hàng hóa tương tự là một khái niệm cơ bản đối với việc áp dụng
Luật SIMA. Theo quy định tại Điều 42 của đạo luật này, CITT sẽ tiến hành điều tra về
thiệt hại đối với các hàng hóa đã được Cục trưởng CBSA đưa ra kết luận sơ bộ coi là
hàng hóa tương tự. Thông thường, CITT sẽ xem xét một số nhân tố, bao gồm các đặc
tính vật lý của hàng hóa, phương pháp sản xuất, các đặc điểm của thị trường và khả
năng các hàng hóa khác nhau có cùng nhằm thỏa mãn một nhu cầu của khách hàng
hay không.
Biên độ phá giá
17


Biên độ phá giá là mức chênh lệch giữa giá thông thường và giá xuất khẩu.
Biên độ phá giá thường được thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm so với giá xuất khẩu để
xác định nghĩa vụ về thuế, đặc biệt là trong trường hợp áp dụng quy định của Bộ
trưởng. Thuật ngữ này xuất hiện tại nhiều điều luật, ví dụ như trong các điều quy định
về nghĩa vụ về thuế, về kết luận sơ bộ và kết luận cuối cùng. Các Điều 30.1, 30.2 và

30.3 đưa ra các hướng dẫn cụ thể về cách xác định biên độ phá giá đối với một nước,
một nhà xuất khẩu và trong các trường hợp có tiến hành chọn mẫu. Xem Phần 5.14
của cuốn Sổ tay này để biết thêm chi tiết về cách xác định biên độ phá giá.
Bộ trưởng
Thuật ngữ này dùng để chỉ Bộ trưởng Bộ An toàn công cộng và Đối phó tình
trạng khẩn cấp. Trách nhiệm chủ yếu và thường xuyên nhất của Bộ trưởng theo SIMA
là ban hành các quyết định cấp Bộ nhằm đưa ra đường hướng xử lý các trường hợp
thông tin không được cung cấp đầy đủ hay không có thông tin để áp dụng các Điều từ
15 đến 28 của Luật SIMA. Trong các trường hợp như vậy, Bộ trường sẽ đưa ra cách
xác định giá thông thường hay giá xuất khẩu theo như quy định tại Điều 29 của Luật
SIMA. Khoản 4, Điều 30 quy định về cách xác định mức trợ cấp. Khi thông tin được
cung cấp không đầy đủ hay khi không có thông tin, mức trợ cấp sẽ được xác định
theo quy định của Bộ trưởng.
Khối lượng không đáng kể
Theo như cách định nghĩa trong Luật SIMA, thuật ngữ này chỉ được dùng để
chỉ khối lượng hàng hóa được bán phá giá. Trong trường hợp hàng hóa bán phá giá
của một nước, khối lượng không đáng kể là khối lượng nhỏ hơn 3% tính trên tổng
khối lượng hàng hóa tương tự được nhập khẩu vào Canađa từ tất cả các nước. Tuy
nhiên, trong trường hợp có 3 nước trở lên bán phá giá vào Canađa, dù khối lượng
hàng hóa được bán phá giá của từng nước tính trên tổng khối lượng hàng hóa nhập
khẩu đều thấp hơn ngưỡng 3% nhưng đều không được coi là không đáng kể nếu tổng
khối lượng nhập khẩu từ các nước này tính trên tổng khối lượng nhập khẩu vào
Canađa lớn hơn 7%. Quy định về các ngưỡng nói trên không thay đổi dù hàng hóa
bán phá giá là từ một nước phát triển hay đang phát triển. Khối lượng không đáng kể
được quy định tại khoản 8, Điều 5 trong Hiệp định chống bán phá giá.
Phần 4.6.2.1 của cuốn Sổ tay này có cung cấp chi tiết về khoảng thời gian
trong đó lượng hàng nhập khẩu được ghi nhận nhằm giúp cho việc xác định xem liệu
lượng hàng hóa bán phá giá có được coi là không đáng kể hay không.
Đối với việc điều tra trợ cấp, dù cũng phải xét đến khối lượng hàng hóa được
trợ cấp không đáng kể nhưng Luật SIMA không đưa ra các quy định về ngưỡng.

Khoản 9, Điều 11 của Hiệp định về trợ cấp có đề cập đến khối lượng không đáng kể
trong quá trình điều tra về trợ cấp nhưng lại không đưa ra một ngưỡng cụ thể nào cả.
Trong trường hợp điều tra về trợ cấp đối với các nước không thuộc diện nước đang
phát triển, Tổng vụ chủ trương áp dụng các ngưỡng giống như khi điều tra về bán phá
giá để xác định khối lượng không đáng kể.
18


Tuy nhiên, theo như quy định tại khoản 2, Điều 41 Luật SIMA, đối với mọi
cuộc điều tra liên quan đến trợ cấp bất kỳ một loại hàng hóa nào, Cục trưởng CBSA
phải xem xét các quy định tại các khoản 10 và 11, Điều 27 Hiệp định về trợ cấp.
Khoản 11, Điều 27 đã hết hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 2002. Do vậy, điều
khoản này không còn giá trị áp dụng đối với các cuộc điều tra về trợ cấp. Khoản 10,
Điều 27 định ra các ngưỡng liên quan đến hàng hóa được trợ cấp của các nước đang
phát triển, cụ thể là các mức 4% và 9% thay vì 3% và 7% áp dụng đối với các cuộc
điều tra bán phá giá như đã được giải thích ở trên. Xem thêm Phần x.x. của cuốn Sổ
tay để biết thêm chi tiết về các ngưỡng xác định khối lượng không đáng kể đối với
các nước đang phát triển.
Trợ cấp được tự do sử dụng
Đây là những loại trợ cấp được Hiệp định trợ cấp cho phép sử dụng. Vì vậy,
thuế đối kháng sẽ không được áp dụng đối với các loại trợ cấp này. Chúng bao gồm,
nhưng không phải là duy nhất, những loại trợ cấp được định nghĩa tại các khoản (7.1)
đến (7.4), Điều 2 Luật SIMA, tức là một số trợ cấp dành cho nghiên cứu, cho các
vùng khó khăn và một số biện pháp hỗ trợ cho nước dành cho lĩnh vực nông nghiệp.
Lưu ý : phần (b) của định nghĩa về trợ cấp loại này đã tạm đình chỉ áp dụng từ ngày
23 tháng 1 năm 2001.
Phán quyết hay kết luận của Toà án
Thuật ngữ này dùng để chỉ quyết định chính thức của CITT liên quan đến vấn
đề thiệt hại. Phán quyết hay quyết định này được đưa ra sau khi CBSA đã có kết luận
cuối cùng và sau khi CITT đã tiến hành điều tra chi tiết, bao gồm cả việc mở các

phiên điều trần công khai. Thuật ngữ này không dùng để chỉ các quyết định của CITT
theo quy định tại Điều 37 Luật SIMA, là khi mà CITT đưa ra khuyến nghị.
Chủ thể
Trong Luật SIMA, thuật ngữ này được dùng để chỉ cả cá nhân và tổ chức, ví
dụ như tại điểm (b)(i), khoản 1, Điều 25 có nói đến các chủ thể có quan hệ liên kết.
Khoản 1, Điều 2 Luật SIMA không đưa ra định nghĩa mà chỉ giải thích thuật ngữ này,
trong đó có bao gồm cả quan hệ đối tác và hiệp hội.
Theo quy định
Khi được sử dụng liên quan đến một mẫu đơn hay văn bản, thuật ngữ này có
nghĩa là “được Cục trưởng CBSA ban hành”. Ví dụ : Cục Tổng vụ trưởng hành các
mẫu đơn cam kết giữ bí mật về thông tin được tiết lộ dành cho các bên tham gia vào
quy trình ban hội thẩm hai nước. Thuật ngữ mẫu đơn theo quy đinh của Cục trưởng
CBSA cũng xuất hiện tại các điều khoản liên quan đến các kết luận lại của Cục
trưởng. Trong bất kỳ một trường hợp nào khác, thuật ngữ này có nghĩa là “theo quy
định”.
19


Cục trưởng
Vào ngày 12 tháng 12 năm 2003, trách nhiệm thực thi chương trình hải quan
của CCRA được chuyển cho một cơ quan mới được thành lập vào cùng ngày có tên là
Cục Quản lý mậu biên Canađa (CBSA). Cũng vào ngày này, tất cả các trách nhiệm
liên quan đến việc thực thi Luật SIMA của nguyên Cao ủy CCRA đã được chuyển
giao lại cho Cục trưởng CBSA.
Cho đến khi Luật SIMA được sửa đổi, thuật ngữ “Cao ủy” vốn được quy định
tại nhiều điều khoản khác nhau trong Luật thì nay có nghĩa là “Cục trưởng” của
CBSA. Khoản 9, Điều 2 Luật SIMA thừa nhận thực tế là cá nhân Cục trưởng CBSA
không thể hoàn thành tất cả các chức năng và nhiệm vụ được giao cho mình. Vì vậy,
khoản 9, Điều 2 có cho phép Cục trưởng được ủy quyền cho các chuyên viên khác
thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ được giao cho Cục trưởng. Tham khảo tài liệu

liên quan đến việc ủy quyền tại đường dẫn: G: 3550/common/operational
policy/delegation of authority.
Trợ cấp bị cấm
Theo Hiệp định về trợ cấp (và Luật SIMA), một khoản trợ cấp thuộc diện bị
cấm nếu đó là một khoản trợ cấp dành cho xuất khẩu hoặc nếu khoản trợ cấp đó hay
một phần của khoản trợ cấp được cấp với điều kiện phải sử dụng hàng hóa được sản
xuất hay có xuất xứ từ nước xuất khẩu. Trong một cuộc điều tra về trợ cấp, nếu CITT
xác định rằng thiệt hại có nguyên nhân từ việc nhập khẩu ồ ạt các hàng hóa được
hưởng trợ cấp thuộc diện bị cấm trước khi có kết luận sơ bộ, thì khi đó có thể áp một
khoản thuế đối kháng có hiệu lực hồi tố với mức bằng với mức của khoản trợ cấp bị
cấm đó.
Hồ sơ đầy đủ, hợp lệ
Định nghĩa này cho biết những yếu tố cần phải có trong một bộ hồ sơ khiếu nại
của các nhà sản xuất Canađa liên quan đến việc bán phá giá hoặc trợ cấp hàng hóa.
Khi nhận được hồ sơ khiếu nại, CBSA phải so sánh bộ hồ sơ này với các tiêu chí
được liệt kê trong định nghĩa này rồi thông báo với bên khiếu nại nếu hồ sơ của họ
thiếu bất kỳ một yếu tố nào.
Định nghĩa về “hồ sơ đầy đủ, hợp lệ” được quy định tại khoản 1, Điều 2 Luật
SIMA. Theo quy định tại điểm (a)(i) của định nghĩa này, bộ hồ sơ khiếu nại phải :
(a) đưa ra cáo buộc là hàng hóa đã được hay đang được bán phá giá hay được
hưởng trợ cấp;
(b) xác định rõ hàng hóa là đối tượng bị khiếu nại;
(c) đưa ra cáo buộc là việc bán phá giá hay trợ cấp như vậy đã gây ra thiệt hại hay
kìm hãm sự phát triển của ngành sản xuất nội địa hay đe dọa gây ra thiệt hại.
20


Điểm (a)(ii) của định nghĩa quy định rằng bộ hồ sơ khiếu nại phải nêu ra được
các tình tiết làm cơ sở cho lời cáo buộc của mình với dẫn chứng hợp lý. Mức độ hợp
lý của dẫn chứng được xác định trên cơ sở xem xét tất cả các tình tiết của mỗi vụ việc

cụ thể.
Liên quan đến các lời cáo buộc về bán phá giá hoặc trợ cấp, bên khiếu nại phải
có sự cố gắng thích hợp để thu thập các thông tin cần thiết. Đôi khi bên khiếu nại
không thể thu thập được thông tin cụ thể nhưng CBSA, qua quá trình tìm hiểu độc
lập, lại có thể có được các thông tin khác để chứng minh cho các lời cáo buộc đó. Hồ
sơ được coi là đầy đủ, hợp lệ khi bên khiếu nại viện dẫn được các thông tin cần thiết
về việc bán phá giá hay trợ cấp trong hồ sơ của mình, hay khi thông tin của bên khiếu
nại cộng với thông tin mà CBSA có được từ quá trình tự thu thập đã ứng đầy đủ yêu
cầu luật định. Tuy nhiên, nếu thông tin mà bên khiếu nại viện dẫn là không đủ dẫn
chứng chi tiết và CBSA không thể thu thập đủ thông tin về việc bán phá giá hoặc trợ
cấp, thì hồ sơ do bên khiếu nại nộp sẽ không được coi là đầy đủ, hợp lệ.
Bên khiếu nại là chủ thể có điều kiện thuận lợi nhất để tìm kiếm và đưa ra các
tình tiết chứng minh cho thiệt hại hay sự kìm hãm phát triển hoặc đe dọa gây thiệt hại
đối với ngành sản xuất trong nước. Do vậy, bên khiếu nại có trách nhiệm đưa ra dẫn
chứng đầy đủ để chứng minh cho cáo buộc của mình.
Điểm (a)(iii) của định nghĩa này quy định rằng bên khiếu nại cũng có thể liệt
kê trong hồ sơ các thông tin khác mà họ cho là cần thiết.
Điểm (b) của định nghĩa đưa ra quy định về thông tin, hay ở đây còn gọi là
chứng cứ để chứng minh cho những nhận định và cáo buộc đã được đưa ra theo quy
định tại điểm (a). Điểm (b)(i) của định nghĩa quy định rằng bên khiếu nại phải cung
cấp thông tin để chứng minh cho các nhận đinh được nêu ra tại điểm (a)(ii). Bên
khiếu nại được cho là đã đáp ứng được yêu cầu này khi cung cấp được tất cả các
thông tin liên quan mà mình có được. Tuy nhiên, cần lưu ý là thông tin được cung cấp
phải có khả năng chứng minh cho các nhận định đã nêu tại điểm (a)(ii) của định
nghĩa, nếu không các thông tin đó sẽ không được coi là chứng cứ mà chỉ là những
nghi ngờ chưa được chứng minh (trừ khi CBSA có thông tin để chứng minh cho
những lời cáo buộc đó của bên khiếu nại).
Điểm (b)(ii) quy định về thông tin bắt buộc phải có trong hồ sơ khiếu nại. Về
điểm này, Điều 37 SIMR liệt kê chi tiết về các thông tin bắt buộc phải có trong hồ sơ,
trong đó có thông tin về sản lượng và giá trị của hàng hoá tương tự do bên khiếu nại

sản xuất, danh sách của tất cả các nhà sản xuất hàng hóa tương tự tại Canađa và tên
của các nhà sản xuất nước ngoài hoặc các nhà xuất khẩu và nhập khẩu.
Điểm (b)(iii) quy định rằng Cục trưởng CBSA có thể yêu cầu hồ sơ khiếu nại
phải cung cấp thông tin bổ sung như thông tin về marketing hoặc thông tin về ngành
sản xuất nói chung. Tuy nhiên việc yêu cầu này phải hợp lý.
Thuế tạm thời
21


Thuật ngữ này mô tả mức thuế được thu từ các hàng hóa được bán phá giá
hoặc được trợ cấp trong giai đoạn điều tra sơ bộ. Thuế tạm thời không được lớn hơn
biên độ phá giá ước tính hoặc mức trợ cấp ước tính đối với hàng hóa. Khoản thuế này
được thu trong giai đoạn điều tra sơ bộ, có nghĩa là được tính từ ngày đưa ra kết luận
sơ bộ về việc bán phá giá hoặc trợ cấp và kết thúc vào ngày CITT đưa ra kết luận về
thiệt hại. Do CITT có 120 ngày kể từ ngày có kết luận sơ bộ để đưa ra phán quyết hay
kết luận về thiệt hại nên trên thực tế giai đoạn điều tra sơ bộ được giới hạn trong vòng
120 ngày. Tuy nhiên, chiểu theo khoản 5, Điều 8 Luật SIMA, nếu Cục trưởng chấp
nhận cam kết của phía nước ngoài thì việc thu thuế tạm thời đối với hàng hóa đang
được điều tra sẽ được tạm đình chỉ trong khoảng thời gian mà cam kết đó có hiệu lực.
Bán hàng
Theo quy định tại Điều 2 Luật SIMA, thuật ngữ này bao gồm cả hoạt động cho
thuê tài chính và cho thuê bất động sản, một thỏa thuận nhằm mục đích bán, cho thuê
tài chính hoặc cho thuê bất động sản và tham gia đấu thầu không hủy ngang. Thuật
ngữ “bán hàng” thường hay xuất hiện trong các điều khoản về giá thông thường và
giá xuất khẩu. Thuật ngữ này có ý nghĩa quan trọng do nó xác định loại hình giao
dịch được coi là bán hàng. Ví dụ : thuật ngữ ‘bán hàng’ bao hàm cả chào hàng không
hủy ngang, chẳng hạn bỏ thầu kèm theo khoản bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Điều này
đặc biệt có ý nghĩa khi liên quan đến trang thiết bị, tài sản có giá trị lớn. Trong các
trường hợp như vậy, quyết định mua hàng của người mua thường dựa trên cơ sở lời
mời thầu không hủy ngang. Đặc trưng của thị trường trang thiết bị, tài sản giá trị lớn

là có khoảng cách về thời gian khá lớn từ lúc đưa ra lời mời thầu không hủy ngang và
thời gian giao hàng thực tế. Trong các trường hợp đó, thiệt hại phát sinh không phải
tại thời điểm công bố trúng thầu mà ngay từ khi có hành vi bỏ thầu.
Hàng hóa được trợ cấp
Thuật ngữ này mô tả các loại hàng hóa được hưởng trợ cấp hoặc được Chính
phủ nước ngoài tác động làm cho giá của hàng hóa đó thấp hơn mức giá hợp lý trên
thị trường. Thuật ngữ này cũng bao hàm cả các loại hàng hóa mà các nguyên vật liệu
hoặc linh, phụ kiện được dùng sản xuất nên hàng hóa này, hoặc các nguyên vật liệu
hoặc linh, phụ kiện được sử dụng dưới một hình thức nào khác để tạo ra hàng hóa đó
được hưởng trợ cấp.
Trợ cấp
Trợ cấp là một khoản hỗ trợ tài chính mà một chính phủ nước ngoài dành cho
các chủ thể tham gia vào việc sản xuất, chế tạo, phát triển, chế biến, mua vào, phân
phối, vận chuyển, bán ra, xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hóa. Khoản trợ cấp có thể
được xác định thông qua việc chính phủ không thu một khoản chi phí mà một doanh
nghiệp đáng ra phải nộp và/hoặc giảm chi phí hoạt động cho doanh nghiệp đó. Các
khoản thuế hoàn thuế nội địa (thuế tiêu thụ hoặc thuế gián thu đánh vào hàng hóa
xuất khẩu) không được dùng để tính toán mức trợ cấp. Xem thêm Phần 5.15 để biết
thêm chi tiết về cách tính toán mức trợ cấp.
22


(Đơn kiện) đại diện cho ngành
Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ mức độ ủng hộ đối với đơn khiếu nại của
các nhà sản xuất trong nước. Theo quy định của Luật SIMA, một đơn kiện được coi là
có tính đại diện khi tổng sản lượng của các nhà sản xuất sản phẩm tương tự của
Canađa ủng hộ đơn kiện lớn hơn tổng sản lượng của những nhà sản xuất phản đối đơn
khiếu nại2. Ngoài ra, đơn khiếu nại phải có được sự ủng hộ của các nhà sản xuất
chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng của tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự của
Canađa. Xem Phần 4.1.4 để biết thêm chi tiết về việc thẩm tra tính đại diện của đơn

kiện.
Cam kết hoặc các cam kết
Thuật ngữ này dùng để chỉ một lời hứa bằng văn bản mang tính ràng buộc liên
quan đến hàng hóa đang được điều tra. Trong trường hợp bán phá giá hàng hóa, chỉ
có các nhà xuất khẩu là người đưa ra cam kết. Trong trường hợp trợ cấp hàng hóa,
người đưa ra cam kết là chính phủ của nước trợ cấp hoặc là nhà xuất khẩu nhưng phải
được sự chấp thuận của chính phủ nước xuất khẩu. Mục đích của cam kết là loại bỏ
việc bán phá giá, trợ cấp, hoặc thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự
của Canađa. Theo quy định của Luật SIMA, cam kết chỉ được xem xét nếu được đệ
trình sau khi có kết luận sơ bộ nhưng trước khi có kết luận cuối cùng. Xem thêm Phần
4.8 để có được thông tin giải thích chi tiết về các biện pháp cam kết.

2.3. Quyền hạn, nghĩa vụ và chức năng của Cục trưởng Cục Quản lý Mậu
biên Canađa (CBSA)
Một số quyền hạn, nghĩa vụ và chức năng của Cục trưởng CBSA theo quy định
của Luật SIMA đã được Cục trưởng chính thức ủy quyền thực hiện cho các cán bộ
CBSA. Có thể tìm thấy thông tin về việc phân cấp quản lý này tại đường dẫn G:
3550/common/operational policy/delegation of authority.
2.4. Việc phân cấp quản lý của Cục trưởng CBSA
Xin lưu ý rằng văn bản liên quan đến việc phân cấp quản lý sẽ không trong
Cuốn sổ tay về Luật SIMA nữa. Có thể tìm thấy văn bản tại đường dẫn sau : G:
3550/common/operational policy/delegation of authority.
2.5. Cung cấp thông tin
2.5.1. Giới thiệu
2

Người dịch: Trên thực tế sẽ có những nhà sản xuất sản phẩm tương tự không ủng hộ cũng không phản đối đơn
kiện.

23



Dù phần lớn thông tin liên quan đến vụ kiện bán phá giá và chống trợ cấp là
thông tin cần bảo mật, CBSA cũng có trách nhiệm cung cấp một số thông tin bảo mật
theo các quy định có liên quan của Luật SIMA và Luật về tiếp cận thông tin (AIA).
Các Điều từ 82 đến 88 của Luật SIMA đưa ra quy định về việc cung cấp thông
tin cho các chủ thể có liên quan trực tiếp đến vụ kiện bán phá giá hoặc chống trợ cấp.
Thông thường, thông tin không bảo mật liên quan đến vụ kiện bán phá giá và chống
trợ cấp có thể được cung cấp cho bất kỳ một chủ thể nào nếu chủ thể này có yêu cầu
và nộp lệ phí theo quy định. Thông tin cần bảo mật liên quan đến các vụ kiện SIMA
có thể được cung cấp cho luật sư độc lập của các bên liên quan đến vụ kiện trong một
số hoàn cảnh nhất định. Điều này nhìn chung là để thực hiện các cam kết trong một số
hiệp định quốc tế, ví dụ các Hiệp định của WTO về các biện pháp thuế chống bán phá
giá và thuế đối kháng. Mục đích là để cung cấp tất cả các bên tiếp cận thông tin tới
mức cao nhất có thể để họ hiểu được nền tảng và cơ sở của những quyết định được
đưa ra trong một vụ việc cụ thể.
Việc cung cấp thông tin được quy định trong tất cả các điều khoản trong Luật
SIMA đều chỉ liên quan đến thông tin mà các bên thứ ba cung cấp cho Cục trưởng
CBSA. Trong khuôn khổ của cuốn Sổ tay này, thông tin mà một bên cung cấp cho
Cục trưởng và được một bên khác yêu cầu cung cấp thì sẽ được coi là thông tin của
bên thứ ba.
Trong bản chỉ dẫn đi kèm bản câu hỏi dành cho nhà xuất khẩu và nhập khẩu
bao giờ cũng có phần giải thích cho các quy định về cung cấp thông tin trong SIMA.
Tuy nhiên, trong các cuộc điều tra tại hiện trường, cán bộ điều tra phải nhắc lại các
quy định này cho doanh nghiệp khi họ đệ trình tài liệu để đảm bảo chắc chẵn sẽ
không có sự hiểu lầm.
Luật về tiếp cận thông tin (AIA), mặc dù không đề cập trực tiếp đến việc tiết lộ
thông tin trong quy trình SIMA, nhưng có quy định về việc cung cấp thông tin thuộc
sở hữu của chính phủ cho các yêu cầu cung cấp thông tin được tiến hành theo luật
AIA và một số trường hợp hạn chế và miễn trừ cụ thể. Về điểm này, có thể nói điều

khoản pháp quy quan trọng nhất trong AIA có liên quan đến hoạt động của Tổng vụ
Chống bán phá giá và chống trợ cấp là khoản 1, Điều 20. Điều khoản này cấm cung
cấp thông tin thương mại của bên thứ 3 nếu việc cung cấp đó có thể gây ra tổn hại tài
chính hoặc cản trở công việc đàm phán của bên thứ ba đó. Điều khoản này cho phép
CBSA từ chối yêu cầu cung cấp thông tin theo quy định của AIA khi thông tin này
thuộc diện cần phải bảo mật vì lợi ích của bên thứ ba.
Tuy nhiên, đối với bất kỳ một yêu cầu cung cấp thông tin nào được đệ trình
theo quy định của AIA, thông tin của bên thứ ba sẽ không được coi là cần bảo mật và
phải được công bố nếu nó không thuộc trường hợp miễn trừ được quy định trong
Luật. Xem Phần 2.5.7 để có thêm thông tin về trình tự thủ tục cần tiến hành khi xử lý
một yêu cầu cung cấp thông tin theo quy định của AIA.
2.5.2. Thông tin của CBSA

24


Thông tin của CBSA là những thông tin do cán bộ CBSA tổng hợp, ví dụ như
báo cáo của điều tra viên, bản phân tích vụ việc, tài liệu kế toán của Hải quan và
thông tin từ các cơ quan khác.
Thông tin của CBSA có thể thuộc diện bảo mật hoặc không. Những thông tin
luôn được coi là không cần bảo mật và thuộc diện phải cung cấp, nhìn chung, thường
là các tài liệu được viết ra để công chúng nghiên cứu, tham khảo, ví dụ như các Văn
bản giải thích lý do ra quyết định (SOR), hoặc thông tin đã được rà soát và xác nhận
là phù hợp cho công bố công khai như các tài liệu tham khảo chung, hay phần lớn các
quy định của Bộ trưởng về việc xác định mức trợ cấp.
Khi nhận được một yêu cầu cung cấp thông tin mà mình đang nắm giữ, nhìn
chung CBSA sẽ không ngay lập tức yêu cầu chủ thể có quan tâm phải nộp đơn theo
đúng trình tự quy định trong AIA. Thường thì, CBSA sẽ xem xét và xác định xem tài
liệu được yêu cầu có thuộc diện cần bảo mật không. Nếu tài liệu không thuộc diện
bảo mật và được yêu cầu cung cấp với số lượng hạn chế, thì CBSA sẽ cung cấp mà

không yêu cầu nộp đơn chính thức theo quy định của AIA. Thông tin thuộc diện bảo
mật của CBSA được AIA bảo hộ, không phải cung cấp. Các tài liệu nội bộ của CBSA
tổng hợp trong quá trình điều tra bán phá giá thường chứa thông tin liên quan đến bên
thứ ba và cũng không được cung cấp theo quy định của AIA.
Nếu các cán bộ của CBSA được yêu cầu xác nhận thông tin xem liệu có phải
họ đang tiến hành thu thập thông tin ban đầu đối với một đơn kiện hay không thì cách
trả lời tốt nhất là không xác nhận cũng không phủ nhận. Có một trường hợp ngoại trừ:
đó là khi chính bên nguyên đơn đã công khai việc mình nộp đơn khiếu nại. Trong các
trường hợp như vậy, các các bộ của CBSA có thể xác nhận về việc đã nhận đơn khiếu
nại nhưng không được bình luận gì về sự việc đó. Xem Phần 2.5.4.4 để biết thêm
thông tin liên quan đến việc cung cấp thông tin trong giai đoạn điều tra điều tra ban
đầu.
CBSA không được cung cấp thông tin cho công chúng hoặc các bên của vụ
việc về các ngày dự kiến đưa ra quyết định về vụ việc bán phá giá và trợ cấp. Thông
tin này bao gồm ngày bắt đầu và kết thúc vụ việc và ngày đưa ra kết luận sơ bộ và kết
luận cuối cùng. Về điểm này, thông tin duy nhất mà CBSA có thể cung cấp là đưa ra
xác nhận rằng sẽ đưa ra các quyết định về một vụ việc trong khuôn khổ thời gian theo
luật định.
Ngoại trừ duy nhất đối với quy tắc này: đó là CBSA phải thông báo bằng văn
bản cho CITT về các ngày CBSA dự kiến đưa ra quyết định về các vụ việc bán phá
giá và trợ cấp. Nếu các chuyên viên của các cơ quan khác trong chính phủ có quan
tâm đến kết quả của một vụ việc cụ thể hoặc có yêu cầu cung cấp thông tin về ngày
dự kiến đưa ra quyết định, việc này sẽ được chuyển cho Tổng vụ trưởng xem xét, giải
quyết
(bổ sung khái niệm tại Điều 107 của Luật Hải quan).
2.5.3.Chỉ định thông tin cần bảo mật
25



×