Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.5 KB, 12 trang )

1

Chủ thể đặc biệt của tội phạm trong Luật Hình sự Việt Nam

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng. Để xã hội đi theo đúng
định hướng, con người đặt nó trong sự ràng buộc bởi những quy định của pháp
luật nhằm giáo dục và răn đe, trừng phạt đối với những chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật, đặc biệt là người phạm tội - thực hiện hành vi mang tính nguy
hiểm đáng kể cho xã hội. Song để pháp luật đạt đúng được mục đích của nó là
răn đe, giáo dục những người có lỗi, trừng phạt đúng người, đúng tội, bên cạnh
các yếu tố động cơ, mục đích, hành vi,.. cần xác định chính xác chủ thể của tội
phạm hay cụ thể hơn là những dấu hiệu đặc trưng, cần và đủ để trở thành chủ thể
của tội phạm hay một số loại tội phạm nhất định.
Với tư cách là người học luật, mong muốn tìm hiểu các chế định của pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, phần trình bày dưới đây
xin được trình bày về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong Luật Hình sự Việt
Nam thông qua các vấn đề lý luận chung, các quy định trong Luật Hình sự Việt
Nam cùng với một số điểm mới, hạn chế về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong
Luật hình sự Việt Nam & kiến nghị hoàn thiện về vấn đề này.
B/ NỘI DUNG
I. CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM
1. Khái niệm chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Căn cứ
theo Điều 2 BLHS về cơ sở của trách nhiệm hình sự, có thể rút ra khái niệm như
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018



2

sau: Chủ thể của tội phạm là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn các điều kiện nhất định trong BLHS.
Như vậy không phải chủ thể nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
cũng là chủ thể của tội phạm. Nếu như đối với pháp nhân thương mại, phải thỏa
mãn các điều kiện nhất định gắn với hành vi phạm tội thì khi nhắc đến chủ thể là
cá nhân, chúng ta sẽ quan tâm đến các dấu hiệu về chủ thể tương ứng với mỗi
loại tội phạm được quy định trong Luật Hình sự. Do vậy khi nhắc đến dấu hiệu
chủ thể tội phạm, chúng ta hiểu đó là dấu hiệu đối với chủ thể là cá nhân.
2. Dấu hiệu của chủ thể của tội phạm
a. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Điều 12 BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, theo đó người
chưa đủ 14 tuổi trong mọi trường hợp đều không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về những tội
phạm nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong phạm vi
28 tội danh như tội giết người, tội cưới tài sản,..Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu TNHS về mọi tội phạm.
b. Năng lực trách nhiệm hình sự
Luật hình sự Việt Nam không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm
hình sự. Song có thể dựa trên căn cứ theo quy định của BLHS về tình trạng
không có năng lực TNHS (Điều 21) và độ tuổi chịu TNHS (Điều 12), chúng ta
có khái niệm như sau: Người có năng lực TNHS là người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội khi đã đạt độ tuổi chịu TNHS, có khả năng nhận thức được tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển
được hành vi ấy. Ngược lại khi xác định một người không có năng lực trách
nhiệm hình sự phải thỏa mãn dấu hiệu về tâm lý và bệnh lý theo quy định tại
Điều 21 BLHS. Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thực hoặc
khả năng điều khiển hành vi do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác
thì vẫn phải chịu TNHS (Điều 13 BLHS) trừ trường hợp người phạm tội bị say

rượu bệnh lý hoặc chứng minh được việc không có chủ ý dùng chất kích thích.
c. Dấu hiệu khác
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


3

Trong dấu hiệu chủ thể của tội phạm, dấu hiệu về độ tuổi và năng lực
TNHS được xem là dấu hiệu bắt buộc. Bất kỳ chủ thể nào để trở thành chủ thể
của tội phạm được BLHS quy định đều phải thỏa mãn hai dấu hiệu đó. Tuy
nhiên cũng có một số loại tội phạm mà bắt buộc chủ thể phải có thêm những dấu
hiệu khác thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm đó. Ngược lại nếu
không có thêm những dấu hiệu đó thì chủ thể không bị truy cứu TNHS hoặc bị
truy cứu TNHS về một tội danh khác. Các dấu hiệu khác ở đây có thể là dấu
hiệu về chức vụ, độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính,…
Ví dụ: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS) áp dụng với chủ thể
không chỉ thỏa mãn về độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự mà còn phải đáp ứng dấu
hiệu về nhân thân là người mẹ sinh ra người con đó. Ngược lại, nếu là một chủ thể
khác như người bố, người hàng xóm thì dù có hành vi thỏa mãn mặt khách thể CTTP
tội này thì sẽ vẫn áp dụng điều luật khác để xử lý.

II. CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM
1. Khái niệm chủ thể đặc biệt của tội phạm
Như đã phân tích, thông thường, trong các cấu thành tội phạm, yếu tố chủ
thể của tội phạm là cá nhân có hai dấu hiệu, tuy nhiên, ở một số CTTP, ngoài hai
dấu hiệu bắt buộc, chủ thể của tội phạm còn có thêm những dấu hiệu đặc trưng
khác mà không có nó thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không
thể bị truy cứu TNHS về tội phạm đó được. Những chủ thể đòi hỏi dấu hiệu đặc
trưng khác như vậy gọi là chủ thể đặc biệt.
Chủ thể đặc biệt của tội phạm, theo đó là chủ thể mà ngoài các dấu hiệu

của chủ thể thông thường (độ tuổi chịu TNHS và năng lực trách nhiệm hình sự)
thì còn có thêm dấu hiệu riêng biệt khác trong CTTP.
2.

Sự

Chủ thể đặc biệt = chủ thể thường + các dấu hiệu đặc biệt

cần

thiết của các chế định có chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt trong
Luật hình sự Việt Nam
Quy định về chủ thể đặc biệt của tội phạm xuất phát từ một thực tế là có
những hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi những cá nhân mà phải
là những chủ thể có đặc điểm nhân thân nhất định mới có khả năng và điều kiện
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


4

thực hiện hành vi phạm tội. Do đó dù là trường hợp cá biệt, ít xảy ra hay chủ thể
chỉ là một nhóm nhỏ trong xã hội thì pháp luật hỉnh sự luôn phải tính đến và quy
định một cách rõ ràng các chủ thể của tội phạm nhằm xử lý triệt để các hành vi
xâm phạm đến các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ.
Đồng thời việc quy định các chế định có chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc
biệt là cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật đối với chủ thể có hành vi vi
phạm, cùng một hành vi nhưng với chủ thể khác nhau, thể hiện bản chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi khác nhau, các loại hình phạt áp dụng và mức hình
phạt theo đó cũng có sự khác nhau thì cần có những cơ sở pháp lý phù hợp đối
với mỗi chủ thể. Ví dụ: Đối với hành vi giết người dưới 16 tuổi, chủ thể có thể phải

chịu mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm nhưng nếu chủ thể là người mẹ do ảnh
hưởng tư tưởng lạc hậu mà giết con mới đẻ (dưới 16 tuổi) thì có khung hình phạt tù
thấp hơn và được xem là loại tội phạm ít nghiêm trọng.

Sau cùng, việc xác định chủ thể đặc biệt trong CTTP được khẳng định có ý
nghĩa quyết định trong việc định tội danh, đồng thời trong một số trường hợp
các chủ thể đặc biệt được đề cập với tư cách là tình tiết định khung thì chủ thể
đặc biệt còn có ý nghĩa trong quyết định khung hình phạt.
II. CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Tội phạm có chủ thể là chủ thể đặc biệt được quy định trong Bộ luật hình sự
2015 sửa đổi, bổ sung 2017 với tư cách là đạo luật gốc và một số văn bản pháp
luật khác liên quan.
1. Hình thức
BLHS hiện hành đã thể hiện có nhiều quy định về chủ thể đặc biệt của tội
phạm, phần lớn nằm trong các điều luật ở phần các tội phạm.Trong CTTP, các
dấu hiệu của chủ thể được thể hiện đơn giản qua khái niệm “người nào”. Khái
niệm này chứa đựng tất cả nội dung của hai dấu hiệu chung của chủ thể của tội
phạm. Ngoài hai dấu hiệu có tính chất chung, chủ thể của tội phạm còn được mô
tả thêm dấu hiệu đặc biệt khác. Trong CTTP phản ánh tội phạm có chủ thể đặc
biệt, các dấu hiệu đặc biệt của “người nào” có thể được mô tả trực tiếp (chẳng
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


5

hạn, Điều 147 BLHS 2015 quy định tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
khiêu dâm: Người nào từ đủ 18 tuổi trở lên) hoặc gián tiếp qua việc mô tả tính chất

hành vi phạm tội (người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết

định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ) hay gián tiếp thông qua hành vi của chủ

thể (người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn).
2. Nội dung
Trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành, đối với chủ thể đặc biệt của tội
phạm, ngoài hai dấu hiệu thông thường còn có thêm những dấu hiệu khác đặc
trưng, có thể được chia thành các nhóm dấu hiệu như sau:
 Các dấu hiệu liên quan đến chức vụ, quyền hạn
Điều 352 BLHS quy định: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do
bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không
hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất
định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”
Tại BLHS, các tội danh có chủ thể đặc biệt là người có chức vụ quyền hạn
được quy định chủ yếu trong Mục 1. Các tội phạm về tham nhũng và một số loại
tội phạm khác trong Mục 2.Các tội phạm khác về chức vụ như tội đào nhiệm (Điều
363), tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 360),.. tại Chương
XXIII ; một số tội danh trong Chương XXIV. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
như tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 368), tội ra bản án
trái pháp luật (Điều 370),.. và một số loại tội phạm khác nằm rải rác trong các điều
luật như tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái
pháp luật (Điều 162); tội vi phạm quy định về cung ứng điện(Điều 199),..

Trong số các tội danh có yếu tố lợi dụng chức vụ để phạm tội, có những
tội phạm mà trong CTTP của nó đã chỉ rõ dấu hiệu về chức vụ của chủ thể đặc
biệt thông qua hành vi của người phạm tội như tội tham ô tài sản (Điều 353); tội
nhận hối lộ (Điều 354); tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166),…
Một số tội phạm khác tuy không chỉ rõ hành vi phạm tội do người có chức vụ,
quyền hạn thực hiện trong CTTP cơ bản nhưng khi phân tích bản chất của hành
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018



6

vi phạm tội qua các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể thì dấu hiệu này được xác
định rõ. Ví dụ: Tội làm sai lệch kết quả bầu cử kết, kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161
BLHS) thì chỉ người có chức vụ nhất định trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử
mới có thể là chủ thể của tội phạm này như: Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng bầu cử;


Ngoài ra, trong CTTP tăng nặng của một số tội danh có quy định tình tiết
“lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để phạm tội. Lúc này, dấu hiệu chủ thể đặc biệt
của tội phạm có ý nghĩa quyết định trong định khung hình phạt như tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản (Điểm đ khoản 2 Điều 174 BLHS 2015); tội xâm phạm chỗ ở
của người khác (Điểm b khoản 2 Điều 158 BLHS 2015),…
 Các dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp, công việc
Các chủ thể trong trường hợp này phải là những người có nghề nghiệp, công
việc nhất định và thực hiện các hành vi phạm tội xuất phát từ tính chất công việc
họ đang làm.
Các tội danh có chủ thể đặc biệt có dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp,
công việc trong BLHS 2015 như tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (Điều
375); tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối (Điều 382); tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy
tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139); tội vô ý làm chết người do
vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 129); tội vi phạm
quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý công trình giao thông (Điều 281); tội hành
hung đồng đội (Điều 398); Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy
định về hàng hải của nước Cộng hào XHCN Việt Nam (điều 223 BLHS)…
Ngoài ra, dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp, công việc của chủ thể đặc biệt
còn có ý nghĩa trong quyết định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng
nặng của một số loại tội phạm như tội giết người (Điểm k khoản 1 Điều 123:

“Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp”); tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điểm
d khoản 2 Điều 149: “lợi dụng nghề nghiệp”); ..


Cần chú ý phân biệt tình tiết định khung “lợi dụng nghề nghiệp” để phạm

tội và “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để phạm tội bởi vì chức vụ, quyền hạn bao
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


7

giờ cũng gắn với một công việc cụ thể, một nghề nghiệp nhất định nên thường
dễ gây nhầm lẫn. Ở đây, người lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội chưa chắc đã
là người có chức vụ mà việc phạm tội này chỉ gắn với công việc mang tính chất
chuyên môn của họ như bác sỹ cố tình không cứu chữa bệnh nhân dẫn đến hậu
quả nạn nhân chết (Điểm k khoản 1 Điều 123 BLHS). Còn người lợi dụng chức
vụ để phạm tội phải là người có chức vụ, họ được giao thực hiện một công việc
liên quan đến lợi ích của cộng đồng và đã sử dụng chức vụ được giao để thực
hiện tội phạm. (Chẳng hạn: Cùng là người bác sỹ nêu trên, nếu họ chỉ đơn thuần
thực hiện chức năng khám chữa bệnh cho mọi người thì họ không được coi là người có
chức vụ mà chỉ được coi là người có nghề nghiệp, nhưng nếu họ được trưng dụng để
thực hiện nhiệm vụ khám sức khoẻ tuyển dụng vào biên chế cho cán bộ nhân viên một
công ty nào đó thì họ lại trở thành người có chức vụ, người có quyền quyết định một
vấn đề nào đó liên quan đến lợi ích chung của cộng đồng.)

 Các dấu hiệu liên quan đến độ tuổi. Trong CTTP, dấu hiệu độ tuổi là dấu
hiệu bắt buộc của chủ thể của tội phạm. Yếu tố độ tuổi trở thành dấu hiệu khác
của chủ thể khi độ tuổi của chủ thể đó được giới hạn so với độ tuổi quy định
thông thường như tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với

người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145)); tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa
chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325); tội sử dụng người dưới 16 tuổi
vào mục đích khiêu dâm (Điều 147),… quy định chủ thể đủ 18 tuổi trở lên.
 Các dấu hiệu liên quan đến quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân.
Một số tội phạm đòi hỏi giữa người phạm tội với nạn nhân phải có quan hệ gia
đình, họ hàng như trong mối quan hệ cha mẹ, vợ chồng, con cái,…Trong phạm
vi mối quan hệ này, người thực hiện hành vi phạm tội, theo đó có thể được định
vào các tội danh trong BLHS như tội loạn luân (Điều 184); tội ngược đãi hoặc
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng
mình (Điều 185); tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 186) 
Quy định này xuất phát từ thực tiễn mối quan hệ giữa những người trong gia
đình có sự chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau song lại cũng là môi trường dễ phát sinh
các hành vi vi phạm phạm luật mà khó bị phát hiện do đó cần phải có những quy
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


8

định riêng đối với các chủ thể mà nạn nhân của họ là những người có quan hệ
thân thích nhằm đưa ra mức hình phạt thích đáng, mang tính răn đe, không bỏ
lọt tội phạm.
Ngoài ra, BLHS còn quy định về các tội bức tử (Điều 130), tội hành hung
người khác (Điều 140),.. mà giữa người phạm tội và nạn nhân có mối quan hệ lệ
thuộc, theo đó nạn nhân là người bị lệ thuộc đốì với người có hành vi phạm tội
về một hoặc nhiều mặt như lệ thuộc về kinh tế; công tác; tôn giáo; các mặt khác:
bệnh nhân đôi với thầy thuốc, học sinh đối với thầy cô giáo…
 Các dấu hiệu liên quan đến giới tính. Đối với dấu hiệu về giới tính, BLHS
quy định tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124) đòi hỏi chủ thể phải là
người mẹ, tức có giới tính nữ.
 Các dấu hiệu liên quan đến quốc tịch. Đối với tội phản bội tổ quốc (Điều

108 BLHS 2015), chủ thể ngoài có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
luật định thì còn phải là công dân nước Việt Nam. Điều này phù hợp với quy
định về nghĩa vụ trung thành với tổ quốc (Điều 44 Hiến pháp 2013) cũng được
áp dụng đối với chủ thể là công dân nước Việt Nam.
 Các dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ. Chủ thể có dấu hiệu liên quan đến
nghĩa vụ có thể hiểu là khi thực hiện hành vi phạm tội thì đang được gắn với
một nghĩa vụ nhất định. Theo đó, BLHS quy định các tội danh có dấu hiệu của
chủ thể liên quan đến nghĩa vụ như tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 332),
tội không chấp hành án (Điều 380), tội không cứu giúp người đang ở trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132), tội bỏ vị trí chiến đấu hoặc không
làm nhiệm vụ trong chiến đấu (Điều 401),…


Các dấu hiệu khác như dấu hiệu chủ thể bị HIV và biết mình bị HIV đối

với tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 149 BLHS); dấu hiệu nhân thân
đặc biệt như đã từng bị xử lý kỉ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính đối với tội
xâm phạm bí mật thư tín hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức
trao đổi thông tin riêng tư với người khác (Điều 159 BLHS), dấu hiệu chủ thể có
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng

TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


9

của nạn nhân đối với người đó đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh (Điều 125 BLHS),..



Lưu ý: Trong trường hợp đồng phạm, các dấu hiệu của chủ thể đặc

biệt chỉ đòi hỏi đối với người thực hành, những người đồng phạm khác không
cần thỏa mãn các dấu hiệu chủ thể đặc biệt của tội phạm đó. Ví dụ: Trong vụ án
đồng phạm, A là người xúi giục, B là người mẹ giết đứa con mình mới đẻ, tức B
là người thực hành thì A dù không phải là mẹ của nạn nhân nhưng vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS
2015).
IV. QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VỀ ĐIỂM MỚI NỔI BẬT VÀ MỘT SỐ HẠN
CHẾ VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Điểm mới nổi bật
So với BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009, BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017
đã có những thay đổi tích cực sau đây:


Về dấu hiệu của chủ thể thực hiện hành vi giao cấu. Mặc dù các tội danh có

chủ thể thực hiện hành vi giao cấu như tội hiếp dâm, cưỡng dâm,.. trong BLHS
1999 vẫn quy định chủ thể là “Người nào” nhưng do vướng phải khái niệm
“Giao cấu” trong Bản tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao số 329/HS2 ngày
11/5/1967 nên đã ràng buộc chủ thể chỉ có thể là nam giới. Đến nay, BLHS 2015
vẫn giữ nguyên quy định về chủ thể nhưng theo Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật 2015 thì khi Bộ luật Hình sự 1999 hết hiệu lực thi hành thì các
văn bản hướng dẫn cho Bộ luật này cũng hết hiệu lực nên có thể linh hoạt hiểu
rằng chủ thể của các tội như hiếp dâm, cưỡng dâm,.. có thể là nam giới hoặc nữ
giới  Điều này được xem phù hợp với thực tế xã hội hiện nay.


Về khái niệm người có chức vụ. So với BLHS 1999, BLHS hiện hành đã


thay đổi khái niệm người có chức vụ: một là, người có chức vụ là người được
giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định thay vì thực hiện công vụ nhất định; hai
là, bổ sung không chỉ có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ mà
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


10

còn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ  Sự thay đổi này là phù hợp bởi thực tế
xã hội cũng như pháp luật quốc tế cho thấy những người lợi dụng chức vụ để
phạm tội không chỉ là người có chức vụ trong hoạt động công vụ.
 Về những người phải chịu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân. BLHS 2015 đã bổ sung thêm hai chủ thể là công
nhân và viên chức quốc phòng.


Về chủ thể có dấu hiệu độ tuổi. Một số tội như tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa

chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp; Tội mua dâm người dưới 18 tuổi,.. đã được
BLHS 2015 cụ thể hóa hơn khi ấn định chủ thể là người đủ 18 tuổi trở lên thay
vì chỉ quy định “Người nào” như BLHS trước đây  Phù hợp với thực tiễn.
2. Quan điểm cá nhân về một số hạn chế về chủ thể đặc biệt của tội phạm
trong luật hình sự việt nam hiện nay


Các chủ thể có chung dấu hiệu liên quan đến chức vụ, nghề nghiệp,… nằm

rải rác trong các điều luật song một phần không nhỏ các chế định còn quy định
về dấu hiệu của chủ thể một cách gián tiếp, trong khi đó lại chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể khiến việc áp dụng pháp luật khó khăn, đôi khi mang tính suy
diễn. Do đó kiến nghị cần có các văn bản hướng dẫn trong đó chỉ rõ về chủ thể
của tội phạm hoặc khoanh nhóm các chủ thể có cùng dấu hiệu lại để thuận lợi
cho việc áp dụng pháp luật.


Trong những văn bản hướng dẫn BLHS sắp tới, cần đưa ra khái niệm “giao

cấu”, trước là để thuận lợi cho việc xác định thế nào là hành vi giao cấu, sau là
cơ sở để xác định rõ chủ thể của tội phạm có hành vi giao cấu này, khắc phục
hạn chế cho rằng chủ thể thực hiện giao cấu chỉ có thể là nam giới như trước
đây.


Độ tuổi của chủ thể thực hiện hành vi dâm ô; sử dụng người dưới 16 tuổi

vào mục đích khiêu dâm; giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
với người từ đủ 13 tuối đến dưới 16 tuổi là người đủ 18 tuổi trở lên, tức người từ
đủ 16 tuổi trở lên và dưới 18 tuổi không phải chịu TNHS về hành vi này. Câu
hỏi đặt ra: quy định này có còn phù hợp với thực tiễn hiện nay hay không khi số
vụ xâm hại tình dục trẻ em ngày càng tăng và đối tượng xâm hại tình dục trẻ em
TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


11

ở độ tuổi từ 17 đến 40 chiếm tỉ lê lớn (thống kê của Viện kiểm sát từ năm 2015
đến nay)
 Cần xem xét và giảm độ tuổi chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự với các
danh tội trên đây nhằm răn đe và không bỏ lọt tội phạm.

C/ KẾT LUẬN
Tóm lại, chủ thể đặc biệt của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam có ý
nghĩa quan trọng trong truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi
phạm pháp luật. Trong quá trình áp dụng pháp luật, cần xác định rõ dấu hiệu của
chủ thể trên thực tế để ấn định vào các tội dnah có chủ thể mang dấu hiệu tương
ứng đồng thời cần có những quy định rõ ràng và hợp lý hơn nữa về dấu hiệu chủ
thể của tội phạm trong các quy định của Luật hình sự Việt Nam để chủ thể đặc
biệt của tội phạm phát huy đúng vai trò của nó.
DANH MỤC VIẾT TẮT
BLHS 2015 : Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017
CTTP: Cấu thành tối phạm
TNHS: Trách nhiệm hình sự
BLHS 1999: BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009

TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018


12

DANH MỤC THAM KHẢO


Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung) , Trường Đại học Kiểm



sát Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014;
Sách chuyên khảo Tội phạm và cấu thành tội phạm,

• Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017

• BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009
• Link tham khảo trên các trang mạng chính thống:

TIỂU LUẬN HÌNH SỰ | 2018



×