Tải bản đầy đủ (.doc) (176 trang)

Vấn đề hình thành con người mới việt nam trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.32 KB, 176 trang )

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Mậu Tuyển


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tính cách là tổng hòa các quan hệ xã hội con người đặc trưng cho
trình độ hoàn thiện của chế độ xã hội. Sự phát triển con người là mục đích tối
thượng của xã hội, là chỉ báo quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của xã hội
loài người. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xét đến
cùng cũng là nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất cho sự phát triển, sự hoàn
thiện con người và ngược lại, chính điều đó là động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Văn kiện Hội nghị Trung ương V Ban chấp hành Trung ương khóa
VIII đã khẳng định: “Nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là
nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân
tộc Việt Nam”[25, 93]
Khẳng định trên, được Đảng ta nhấn mạnh lại lần nữa tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX “nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo
đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung,


tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình cộng
đồng xã hội”[26, 114].
Trong công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng, vấn đề con
người luôn được đặc biệt quan tâm. Bởi chúng ta hiểu rằng đổi mới trước hết
phải bắt đầu từ việc đổi mới con người, sẽ không có sự đổi mới xã hội nếu
không có sự đổi mới từ chính bản thân con người. Đổi mới bắt đầu từ con người
không phải được xây dựng một cách chung chung, trừu tượng mà phải hướng
vào từng con người cụ thể. Đây là nền tảng sâu xa để xã hội phát triển, bởi mục
đích xã hội nếu không chuyển thành những động cơ tư tưởng bên trong của các
cá nhân thì không thể thực hiện được, không có những con người để thực hiện
thì mục đích đó mãi là lý tưởng mà không trở thành hiện thực được. Vì “Muốn


2
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
[87, 130], nên chúng ta phải thông qua việc phát triển từng cá nhân với tư cách
là chủ thể có ý thức đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện mục tiêu đó.
Ngày nay, trước sự tác động của của toàn cầu hóa và thời đại công nghệ
thông tin, cũng như do thực tiễn phát triển của sự nghiệp đổi mới ở nước ta, con
người Việt Nam đã có những biến đổi nhất định cả trong thực tiễn và trong lý
luận về con người mới, con người cần xây dựng để đáp ứng được yêu cầu phát
triển mới của đất nước.. Cùng với những biến đổi ấy, so với trước đây, vị trí và
vai trò của con người trong sự nghiệp đổi mới cũng được đánh giá lại. Trong đó,
con người được xem là nhân tố nội tại, cơ bản, quyết định sự nghiệp đổi mới,
được xem là nguồn lực của mọi nguồn lực giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ sự
nghiêp đổi mới hiện nay
Nhìn lại sau hơn hai mươi lăm năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam thì vấn đề đào tạo và sử dụng con người đã có những bước
phát triển vượt bậc, đời sống vật chất và tinh thần của con người không ngừng
được nâng lên. Tuy vậy, để đáp ứng xu hướng phát triển của thời đại, thực hiện

thành công sự nghiệp đổi mới, thì vấn đề hình thành và phát triển con người mới
vẫn còn là vấn đề cần được tiếp tục được giải quyết.
Trong thực tế cuộc sống hiện nay, vấn đề dạy “người”, dạy “chữ”, dạy
“nghề” trong giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội vẫn là vấn
đề chưa được giải quyết một cách thấu đáo. Trong nội dung giáo dục hầu như
chỉ chú ý tới trang bị tri thức khoa học, nghề nghiệp chuyên môn mà còn xem
nhẹ giáo dục đạo lý làm người, trách nhiệm công dân. Điều đó đang làm méo
mó nhân cách của một bộ phận không ít thanh niên, viên chức, cán bộ, đảng viên
khi ra công tác và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về mặt đạo đức của xã hội.
Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang đi
vào chiều sâu. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra và đòi hỏi các nhà
khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau phải nghiên cứu và giải quyết; trong đó
có vấn đề hình thành và xây dựng chiến lược về con người thực sự khoa học,


3
phù hợp với thời đại và hoàn cảnh nước ta, nhằm phục vụ cho việc phát triển
nhanh và bền vững của đất nước. Hơn thế nữa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta đang được tiến hành. Chúng ta đang từng bước chuyển từ xã
hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Sự đụng độ giữa các giá trị truyền thống
và hiện đại, dân tộc và quốc tế, sự bất cập của những năng lực, phẩm chất con
người trong mẫu người truyền thống trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, của
xã hội hiện đại khiến cho việc tích cực chủ động nghiên cứu vấn đề hình thành
con người mới trở thành vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu con người như là mục tiêu và
động lực của sự phát triển đất nước thì vẫn chưa có được những giải pháp toàn
diện và sâu sắc, nên chưa có tính hệ thống và đồng bộ. Yêu cầu ấy đòi hỏi công
tác lý luận phải xúc tiến nhiều hơn nữa, chuyên sâu hơn nữa những nghiên cứu
về con người và con người mới. Luận án này cố gắng góp thêm một số suy nghĩ
về vấn đề hình thành và phát triển con người theo hướng đó.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án: Trên cơ sở những quan điểm của triết học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
người và con người mới luận án phân tích đặc điểm của con người Việt Nam và
những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành con người mới Việt Nam. Từ đó
đề xuất một số giải pháp có tính định hướng nhằm thúc đẩy sự hình thành con
người mới ở nước ta trong quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được mục đích này, luận án có những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất: Tổng quan tình hình nghiên cứu về con người và con người
mới ở Việt Nam trong những năm gần đây.
- Thứ hai: Xác định rõ nội dung quan điểm triết học Mác - Lênin và của
Hồ Chí Minh về con người và con người mới.
- Thứ ba: Trình bày và phân tích một số nhân tố cơ bản tác động đến quá
trình hình thành con người mới Việt Nam. Nêu ra và phân tích những thành công
và hạn chế của quá trình xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay.


4
- Thứ tư: Đề xuất và phân tích một số giải pháp có tính định hướng nhằm
thúc đẩy sự hình thành con người mới ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu vấn đề hình thành
con người mới Việt Nam trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay. Trong luận án này cụm từ “quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay” được hiểu là “quá trình xây dựng, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Xuất phát từ những nhiệm vụ được nêu trên, trong phạm vi một luận án
triết học, chúng tôi chỉ phân tích những tác động của sự nghiệp đổi mới, của
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đối với con người Việt Nam
hiện nay. Phân tích thực trạng của con người Việt Nam trước sự tác động của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, của xu hướng hội nhập quốc tế.

Xác định những nội dung cơ bản cần hướng tới xây dựng con người mới trong
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp có tính định hướng để xây
dựng con người mới Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về con người và về con người mới.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp biện chứng
duy vật, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng
hợp, lô gích và lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh...
5. Đóng góp mới của luận án
- Trình bày một cách có hệ thống quan điểm của triết học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và con người mới.


5
- Làm rõ những nhân tố quy quy định sự hình thành, phát triển con người
mới Việt Nam trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đề xuất và phân tích một số giải pháp có tính định hướng nhằm thúc
đẩy sự hình thành con người mới Việt Nam trong quá trình định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng
dạy vấn đề con người, con người mới, vấn đề nhân cách.
- Luận án cũng là những gợi ý, những khuyến nghị đối với sự nghiệp xây
dựng con người mới ở nước ta nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục
kết cấu của luận án được chia làm 4 chương, 8 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Vấn đề con người từ xưa đến nay vẫn là vấn đề rất được quan tâm nghiên
cứu trong triết học. Cả triết học phương Đông hay phương Tây, châu Âu hay châu
Á đều coi con người là vấn đề quan trọng nhất trong triết học. Thậm chí có cả
trường phái triết học còn cho rằng con người là đối tượng nghiên cứu của triết học.
Trong triết học Phương Đông, con người chủ yếu được nghiên cứu ở
phương diện con người xã hội. Các nhà tư tưởng chủ yếu đề cao mặt xã hội của
con người. Trong nền triết học Trung Quốc Cổ, Trung đại, vấn đề bản tính con
người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư
tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu đã tiếp cận dưới góc độ “vô
vi” đã đi tới kết luận bản tính tự nhiên của con người. Các nhà tư tưởng của Nho
gia và Pháp gia lại tiếp cận vấn đề bản tính con người dưới góc độ hoạt động
thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi tới kết luận bản tính người là tính
thiện và bản tính con người là tính ác. Chính sự khác nhau về góc độ tiếp cận và
với kết luận khác nhau về bản tính con người đã là cơ sở xuất phát cho những
quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các
vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ. Khác với triết học
Trung Hoa, các nhà tư tưởng của triết học Ấn Độ tiêu biểu là Đạo Phật lại tiếp
cận từ góc độ khác, từ sự suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết
lý siêu hình đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính vô ngã,
vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự giác
ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Phật giáo nguyên thủy.
Trong triết học phương Tây, các nhà tư tưởng đã khẳng định những giá trị
người, ca ngợi lý tưởng của con người và khẳng định các quyền tự nhiên của

con người. Suốt chiều dài lịch sử triết học Phương Tây từ Cổ Hy Lạp trải qua
thời Trung cổ, Phục hưng và Cận đại cho đến nay, vấn đề con người vẫn là một
đề tài được tranh luận chưa có hồi kết. Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng cách tiếp


7
cận giải quyết vấn đề con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm
khác với nền triết học phương Đông. Nhìn chung, các nhà triết học theo lập
trường duy vật đã lựa chọn góc độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con
người. Từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã đưa ra quan niệm về bản chất
tự nhiên của con người, xem con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên
không có gì là thần bí, bí hiểm, đều được tạo nên từ vật chất. Nổi bật là quan
niệm của Đêmôcrít về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh
hồn của con người. Những quan niệm duy vật như vậy đã được tiếp tục phát
triển trong nền triết học thời Phục Hưng và Cận đại; nó cũng là một trong những
cơ sở lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Mặc dù có những tư
tưởng đúng đắn về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội, những
nhà duy vật trước Mác nhìn chung vẫn giải thích duy tâm về sự tồn tại của con
người.
Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm lại chú
trọng góc độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu cho cách tiếp cận này là
quan điểm của Platon thời Cổ Hy Lạp, Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời
Cận đại và Hêghen trong triết học Cổ điển Đức. Vì không đứng trên lập trường
duy vật, các nhà triết học duy tâm đã lý giải bản chất lý tính của con người từ
giác độ siêu tự nhiên.
Có thể nói, tiêu biểu cho hai trường phái triết học duy vật và duy tâm nói
trên là hai nhà triết học Cổ điển Đức Hêghen và Phoiơbắc. Đối với triết học của
Hêghen, C. Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng khiếm khuyết cơ bản của triết
học này là ở chỗ Hêghen quy con người về tự ý thức, coi bản chất của con người
là cái thuộc về thế giới tinh thần. Ở Hêghen, “chỉ có tinh thần là bản chất chân

thật của con người, còn hình thức chân chính của tinh thần là tinh thần đang tư
duy, tinh thần lôgíc tư biện” [68, 193]. Đối với Hêghen toàn bộ sự vận động của
đời sống con người thể hiện ra là sự vận động của tinh thần, của tự ý thức; các
hình thức hiện thực của đời sống con người, các yếu tố vật chất của đời sống con
người, chỉ là các yếu tố mà trong sự vận động của nó, thể hiện ra là các yếu tố


8
không có tính độc lập, không có lôgíc phát triển nội tại. Với Hêghen, không có
và không thể có sự đối lập thực sự của tinh thần. Ông không biết đến tồn tại thật
sự khách quan, tồn tại không thể quy về và không thể bị hòa tan trong tinh thần.
Với Hêghen, các sự vật và các vật thể vật chất - cảm tính chỉ là sản phẩm của
tinh thần, chỉ là “sự tha hóa của tự ý thức thiết định tính vật thể. Vì con người là
tự ý thức cho nên bản chất đối tượng hóa đã tha hóa nó, và tính vật thể là do sự
tha hóa ấy thiết định” [68, 198]. Với tư tưởng đó, Hêghen đã xem tha hóa và lột
bỏ tha hóa, về thực chất, là một quá trình tinh thần, tư duy.
Đối lập với Hêghen, ngược lại, Phoiơbắc lại xem con người là sản phẩm
của tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên. Theo ông, con người là một sinh
vật có hoạt động tâm - sinh lý, có cảm giác, có tư duy và giữa người với người
luôn có mối quan hệ gắn kết với nhau. Phoiơbắc đã kịch liệt phê phán và bác bỏ
quan niệm của tôn giáo xem con người là sản phẩm của thượng đế. Đứng trên
lập trường duy vật, ông khẳng định không phải thượng đế sáng tạo ra con người
mà, ngược lại, chính con người đã sáng tạo ra thượng đế theo hình ảnh của
mình. Nhưng vì đứng trên lập trường nhân bản, ông cho rằng con người chỉ là
một sinh vật nhục thể. Đối với Phoiơbắc con người chỉ là một sinh vật có cảm
giác, chứ không phải là một sinh vật xã hội có tính lịch sử - cụ thể. Đó là con
người chung chung, trừu tượng nằm ngoài các quan hệ xã hội cụ thể. Theo
Phoiơbắc, sự tự do của con người không phải là một cái siêu nhiên, mà ở chỗ
con người sống trong tự nhiên, phụ thuộc vào tự nhiên vì vậy, sự giải phóng con
người là làm cho con người thoát ra khỏi sự thống trị của tự nhiên bằng hoạt

động cải tạo tự nhiên một cách có mục đích của con người. Nhưng tư tưởng đó
đã không được Phoiơbắc phát triển một cách hoàn chỉnh.
Trong quá trình hình thành quan điểm duy vật về con người, về bản chất
con người và giải phóng con người, C. Mác và Ph Ăngghen thường sử dụng khái
niệm tha hóa để trình bày quan niệm của mình. Dựa vào những quan niệm này,
C. Mác và Ph. Ăngghen không những làm rõ tính độc đáo trong quan niệm của


9
các ông mà còn làm rõ quan niệm của hai ông khác về nguyên tắc so với các nhà
triết học cổ điển Đức như Hêghen và Phoiơbắc.
Khác với Hêghen và Phoiơbắc, ngay từ đầu khi nói đến sự tha hóa của
con người, C. Mác đã chú ý tới đời sống xã hội và từ những điều kiện của đời
sống ấy, những điều kiện do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định, Ông rút
ra kết luận về sự tha hóa. Theo C. Mác “tha hóa” trước hết là một quan hệ xã
hội, là sự giao tiếp xã hội của con người, trong đó những điều kiện sống và lao
động của họ, kết quả lao động của họ và những quan hệ của họ với nhau thể hiện
ra bên ngoài như là một lực lượng xa lạ và thù địch. Và sự tha hóa trong kinh tế
là cơ sở của những hình thức tha hóa khác trong các lĩnh vực tinh thần, trong
những quan hệ xã hội. Việc con người tha hóa khỏi sản phẩm lao động của họ,
sự đối lập mang tính thù địch giữa người với người là do những điều kiện sản
xuất ra điều kiện vật chất của họ đẻ ra. Theo C. Mác, chính điều đó nhất định sẽ
dẫn tới “sự tha hóa con người khỏi con người”. Vì thế theo C. Mác, việc khôi
phục lại những mối liên hệ, quan hệ xã hội bình thường giữa người với người,
phù hợp với bản chất của con người chỉ có thể thực hiện được bằng cách cải tạo
xã hội, cải tạo các quan hệ sở hữu của xã hội tư bản. Trên cơ sở đó C. Mác đã đi
đến kết luận về sự giải phóng xã hội khỏi chế độ tư hữu và xem đó là điều kiện
tất yếu của sự giải phóng con người về kinh tế và chính trị, giải phóng con người
khỏi mọi sự tha hóa.
Khi xuất phát từ quan điểm duy vật về con người, xem bản chất con người

là tổng hòa các mối quan hệ xã hội và nhìn nhận con người trong mối quan hệ
con người - tự nhiên - xã hội, chủ nghĩa Mác đã lấy tư tưởng “vì con người và
giải phóng nhân loại” và “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu
không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt”[79, 406] làm nền tảng tư tưởng để
xây dựng học thuyết của mình về xã hội nói chung, về xã hội cộng sản chủ nghĩa
nói riêng. Xã hội cộng sản mà nhân loại cần phải hướng tới, theo C. Mác và Ph.
Ăngghen là “sự giải quyết hiện thực mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa
con người và con người”. Từ cách đặt vấn đề như vậy về việc xây dựng một chế


10
độ xã hội công bằng, văn minh, không còn hiện tượng người bóc lột người,
không còn hiện tượng con người bị tha hóa, mọi người đều bình đẳng, đều có
quyền được hưởng tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, hai Ông đã xem một
trong những đặc trưng cơ bản nhất của chế độ xã hội mới mà giai cấp vô sản có
sứ mệnh phải xây dựng thành công là giải phóng con người, giải phóng nhân
loại khỏi mọi áp bức, bất công. Trong tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen,
mục tiêu cao nhất của chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản là
phát triển con người toàn diện, “tạo nên những con người mới” - những con
người “có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện
của mình”. Những tư tưởng đó được C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định trong
tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: Thay cho xã hội tư bản cũ, với giai cấp và đối
kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hiệp mới, trong đó sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Sau này,
trong Tư bản Mác tiếp tục khẳng định: “Để sản xuất ra những con người phát
triển toàn diện”, cần phải tạo ra được một xã hội có một nền kinh tế phát triển,
một nền văn hóa mới, một nền khoa học - kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục
tiên tiến. Việc tạo ra những thành tựu kinh tế - xã hội ấy, như Mác khẳng định
“không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà
còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn

diện nữa”[72, 688]
Như vậy có thể thấy, mặc dù các nhà tư tưởng trong lịch sử đều cố gắng lý
giải về bản chất con người, nhưng chỉ đến C. Mác, Ph. Ăng ghen mới đưa ra
quan điểm đúng đắn về bản chất con người, coi con người không phải là trừu
tượng, chung chung, mà là con người thực tiễn. Ngày nay các nhà lý luận ở
nước ta trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tiếp tục nghiên cứu
vấn đề con người trong điều kiện thực hiện sự nghiệp đổi mới, xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề con người, con người mới và tác động
của sự nghiệp đổi mới tới sự biến đổi của con người Việt Nam hiện nay


11
1.1.1. Những quan điểm về con người và con người mới.
Vấn đề con người nói chung và con người mới nói riêng từ lâu đã thu hút
những nhà nghiên cứu lý luận ở nước ta. Những nghiên cứu trước thời kỳ đổi
mới, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nhưng không tránh khỏi tính chất giáo
điều, giản đơn. Tính chất đó thể hiện nỗi bật ở chỗ nhấn mạnh quá mức tính quy
định của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa (sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể
không dựa trên trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất) đối với sự hình
thành và phát triển con người. Trong thời gian này đã có không ít những công
trình có ý nghĩa lớn trong việc nghiên cứu con người trên nhiều phương diện
nhằm mục đích quan trọng là xây dựng con người Việt Nam mới. Từ những
ngày đầu nghiên cứu triết học ở Việt Nam những tài liệu dịch “Nguyên lý triết
học Mác - Lênin” của một số tác giả Liên Xô, những bài giới thiệu hoặc một số
chuyên luận về các tác phẩm kinh điển như “Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844” của Phạm Như Cương, “Hệ tư tưởng Đức” của Phạm Huy Châu ..., vào
cuối những năm năm mươi đầu những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi đều
thể hiện rõ điều ấy. Một số chuyên luận về triết học Mác - Lênin cuối những
năm sáu mươi đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước như “Mác thời trẻ và

chủ nghĩa Mác” của Nguyễn Thế Phong, “Về vấn đề nghiên cứu quá trình xây
dựng con người Việt Nam mới” của Phạm Như Cương... thực chất đã đi vào
nghiên cứu những vấn đề con người nói chung và vấn đề con người mới nói
riêng. Vào thời kỳ này, trọng tâm nghiên cứu vấn đề con người là làm rõ vị trí,
vai trò của con người trong xã hội và trong lịch sử. Dựa trên cơ sở những
nguyên lý triết học Mác - Lênin, quan niệm về vai trò, vị trí của con người lúc
đó là khẳng định khả năng nhận thức và cải tạo thế giới của con người; chứng
minh vị trí vai trò của quần chúng nhân dân và của các vĩ nhân trong sự phát
triển của xã hội, trong các cuộc cách mạng xã hội.
Trong những nguyên lý triết học cũng như trong hệ thống các vấn đề triết
học Mác - Lênin ở thời kỳ này, vấn đề bản chất con người trở thành đối tượng
nghiên cứu có tính chất cơ bản. Dựa trên nền tảng tư tưởng của triết học Mác coi


12
con người là thực thể tối cao tồn tại hiện thực trong thế giới và bản chất con
người là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, giới nghiên cứu triết học tiếp tục mở
rộng, đi sâu nghiên cứu bản chất của con người, con người mới. Trong Thông
báo Triết học (giữa những năm sáu mươi) đã xuất hiện một số những chuyên
luận về bản chất con người như: “Quá trình nghiên cứu phức hợp về con
người” của Đặng Xuân Kỳ, hay “Lênin bàn về con người mới xã hội chủ
nghĩa” của Phạm Hựu. Ở thời điểm này, các nhà nghiên cứu chủ yếu xuất phát
từ quan điểm duy vật biện chứng để phê phán các quan điểm duy tâm về con
người thời kỳ trước Mác. Dựa vào những luận điểm trong “Luận cương về
Phoiơbắc” của Mác, các tác giả đã phê phán tính siêu hình của quan niệm xem
con người như là những thực thể phi lịch sử, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên của con
người, hoặc xem con người như những chủ thể chung chung, trừu tượng. Đến
thời kỳ này các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều tới vấn đề bản chất xã hội của
con người khi cho rằng, con người là chủ thể tối cao của muôn loài cả tự nhiên
lẫn xã hội, các điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định bản chất con người

và con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể của lịch sử...
Trong những năm sáu mươi - bảy mươi mục tiêu và nhiệm vụ chính trị,
xã hội ở nước ta là đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Vì vậy vấn đề nghiên cứu con người ở giai đoạn này
gắn liền với con người truyền thống. Nhiều tác phẩm của Vũ Khiêu, Bùi Đăng
Duy, Nguyễn Đức Sự, Chương Thâu... đã đi sâu làm rõ bản chất khí phách con
người Việt Nam truyền thống, kết hợp với những phẩm chất lý tưởng cộng sản
được nhận thức từ triết học Mác - Lênin. Việc nghiên cứu con người ở giai đoạn
này đã phê phán hình mẫu con người theo tư tưởng Nho giáo và cố gắng đưa ra
mẫu người chân chính làm cơ sở cho việc xây dựng hình mẫu con người mới
Việt Nam.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước bước vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội và dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IV, vấn đề nghiên cứu triết học về con người được mở ra nhiều hướng.


13
Việc trực tiếp tiếp xúc với nguồn tài liệu văn nghệ và triết học của chế độ xã hội
cũ, cùng những mảng đề tài nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại đã làm cho
những quan điểm về con người mang tính đa dạng và nhiều chiều hơn trên cơ sở
phê phán nhữn quan điểm sai lầm về vấn đề con người. Mục đích chủ yếu của
việc nghiên cứu này là tìm hiểu chính xác hơn, sâu sắc hơn thực chất của các triết
thuyết con người phương Tây, về tâm lý, tư tưởng, tình cảm suy nghĩ về xã hội,
cuộc sống, nhân sinh. Các ấn phẩm về mảng đề tài này khá phong phú như: “Sai
lầm của chủ nghĩa cấu trúc trong nghiên cứu về con người” của Vũ Hoàng Địch;
“Về một số quan điểm triết học gây mơ hồ của chủ nghĩa kỹ trị” của Phong Hiền.
Kết quả nghiên cứu của các vấn đề trên là vạch ra những quan niệm sai lầm về
con người trong chủ nghĩa hiện sinh, trong hiện tượng luận, thuyết hội tụ, thuyết
kỹ trị vv... và tiếp tục khẳng định quan điểm mácxít về vấn đề con người, góp
phần vào cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản..

Nhưng ở thời kỳ này trọng tâm của việc nghiên cứu về con người chính là nghiên
cứu con người Việt nam, nhằm đưa ra những cơ sở lý luận cho việc xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa. Với tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc
lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới” của đồng chí
Lê Duẩn ra đời vào đầu những năm bảy mươi đánh dấu một bước nghiên cứu
tương đối tập trung về vấn đề con người. Tác phẩm đã vạch ra tính tất yếu, những
nội dung và những biện pháp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Cùng
thời gian này Viện triết học và các cơ quan lý luận khác tổ chức các hội thảo khoa
học tìm hiểu quan điểm của chủ nghiã Mác - Lênin và Đảng ta về con người và
xây dựng con người mới trên cơ sở thực tiễn của đất nước cũng như của các nước
xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Cũng trong thời gian này, Tạp chí Triết học vừa mới ra đời đã công bố rất
nhiều bài thể hiện quan niệm về con người mới từ nhiều phương diện như đạo
đức học, tâm lý học, văn học, nghệ thuật như: “Đạo đức học Mác -Lênin và vấn
đề xây dựng con người mới” của Trần Thanh; “Tâm lý học Mác - Lênin và vấn
đề xây dựng con người mới” của Đỗ Long; “Con người mới trong văn nghệ


14
hiện nay” của Vũ Khiêu; “Văn học xã hội chủ nghĩa và con người mới xã hội
chủ nghĩa” của Thành Duy ....Đóng góp của các công trình này trước hết là xác
định nội dung con người mới. Bằng nhiều cách thể hiện khác nhau, các tác giả
đã cụ thể hóa, phát triển, bổ sung những nội dung con người mới mà Đại hội IV
của Đảng đã nêu: Con người mới là những con người có tư tưởng, tác phong xã
hội chủ nghĩa, có năng lực làm chủ; lao động có nhiệt tình cách mạng, có tổ
chức, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao; thật thà trong lao động sản xuất
và trong quản lý; gắn liền lợi ích riêng với lợi ích tập thể, lợi ích nhà nước,
không xâm phạm của công; cống hiến tất cả cho sự nghiệp xây dựng cuộc sống
mới độc lập tự do và phồn vinh của đất nước.
Một đóng góp nữa của các công trình trên là việc nêu ra các biện pháp xây

dựng con người mới. Các tác giả cho rằng, con người mới là sản phẩm của ba
cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật và
cách mạng tư tưởng - văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then
chốt. Xây dựng con người mới phải kết hợp những điều kiện khách quan và chủ
quan, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật với giáo dục rèn luyện; kết hợp công
tác tổ chức quản lý với công tác tư tưởng, xây với chống. Như vậy, qua nội dung
các quan điểm đưa ra thời kỳ này có thể thấy rằng, con người mới chỉ có thể
hình thành từ thực tiễn đấu tranh cách mạng và lao động sản xuất ...
Năm 1978, Viện triết học đã cho ra đời công trình tập thể của nhiều tác
giả dưới sự chủ biên của Phạm Như Cương “Vấn đề xây dựng con người mới”,
trong đó có những bài viết phân tích quan niệm của Hêghen, của Phoiơbắc và
của triết học Mác - Lênin về con người. Còn trong những công trình “Chủ nghĩa
Mác và vấn đề con người, xây dựng con người mới” của Trần Côn, “Quá trình
hình thành và phát triển con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa” của Lê Thi,
“Con người mới là sản phẩm của xã hội mới, là chủ thể có ý thức xây dựng nên
xã hội mới” của Trần Nhâm nổi lên nội dung cơ bản là vấn đề xây dựng con
người Việt Nam hiện đại. Ngoài ra còn nhiều công trình khác nghiên cứu quan
điểm về con người trong lịch sử như: “Con người trong triết học phương Đông”


15
của Nguyễn Tài Thư, “Con người trong lịch sử triết học phương Tây” của Đặng
Xuân Kỳ.
Vào những năm tám mươi, vấn đề nghiên cứu và xây dựng con người
mới được phát triển thêm một bước. Các nhà nghiên cứu thời kỳ này đã khắc
phục được vấn đề nghiên cứu con người một cách chung chung trước đó và đi
sâu vào các khía cạnh cụ thể hơn. Về nội dung này có các công trình như: “Quá
trình xây dựng con người mới” của Tương Lai, “Tâm lý hoạt động sáng tạo của
con người” của Nguyễn Văn Huyên “Thế hệ mới - con người mới - cộng đồng
mới” của Hồ Ngọc Đại, “Những tư tưởng của Ph. Ăngghen về quan hệ giữa con

người và tự nhiên trong Biện chứng của tự nhiên” của Nguyễn Trọng Chuẩn,
“Đạo đức của nhân cách” của Đỗ Long, “Hoạt động tâm lý và nhân cách” của
Nguyễn Thị Khoa, “Lối sống xã hội chủ nghĩa và sự phát triển mặt tinh thần
con người” của Lê Văn Dương, v.v...Nhìn chung các công trình này đã đề cập
đến vấn đề con người từ những cách tiếp cận khác nhau do đó đã góp phần làm
cho quan điểm về con người phong phú hơn, sâu sắc hơn và làm rõ hơn những
luận điểm chung về con người của triết học Mác- Lênin. Hội nghị khoa học về
vấn đề xây dựng con người mới do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức vào năm 1981lúc đó đã khẳng
định: Mục tiêu con người mới cần đạt tới là con người có trình độ và năng lực
làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. Trong điều kiện ở nước
ta lúc đó, mục tiêu này chỉ thực hiện được khi gắn liền với các cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật, cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng tư tưởng - văn
hóa; khi từng bước xác lập vai trò của con người trong cải tạo tự nhiên, quản lý
xã hội và tự nâng cao năng lực bản thân. Nội dung của việc xây dựng con người
mới là xây dựng thế giới quan mới, đạo đức mới và nếp sống mới. Bộ mặt tinh
thần của con người mới phải tiêu biểu cho sự phát triển của xã hội mới cao đẹp.
Con người mới phải có những phẩm chất cơ bản như: thế giới quan khoa học,
luôn quan tâm tới lợi ích tập thể, có tinh thần và thái độ đúng đắn, tư tưởng và
tình cảm lành mạnh, yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn. Qua toàn bộ sự khái


16
quát các quan điểm về con người trong thời kỳ trước đổi mới nêu trên có thể
thấy quan điểm nổi bật chủ đạo ở giai đoạn này chính là quan điểm về con người
làm chủ tập thể, con người cộng đồng và con người mới là con người hòa tan cái
cá nhân vào trong cộng đồng.
Vào năm 1986 chúng ta bắt đầu thực hiện sự nghiệp đổi mới với việc
chuyển sang cơ chế thị trường, đồng thời với sự thừa nhận tồn tại nhiều thành
phần kinh tế. Sự hình thành và phát triển con người, do vậy mang tính chất khác

với giai đoạn trước đổi mới. Sự mở cửa, giao lưu, hội nhập quốc tế cùng quá
trình hiện đại hóa xã hội mang tính toàn cầu khiến cho vấn đề con người cần
phải được nghiên cứu đầy đủ và gắn liền với bối cảnh kinh tế - xã hội mới. Việc
nghiên cứu con người trong giai đoạn này có những đặc điểm riêng và nội dung
của nó có bước chuyển về chất. Sự đổi mới tư duy kinh tế, tư duy chính trị, văn
hóa, khoa học đã mở rộng tầm nhìn cho giới nghiên cứu; cách quan niệm mới về
con người, hướng đi sâu vào các khía cạnh đa dạng của bản thân con người và
của đời sống, cách tiếp cận những vấn đề con người... cũng được đổi mới. Khái
niệm “con người mới” dường như rất ít được sử dụng trong giai đoạn này mà
thay vào đó là khái niệm “con người toàn diện”. Thực ra hai khái niệm này về
sau đều có cùng một nghĩa. Tức là nói đến con người mới chính là nói đến con
người phát triển toàn diện.
1.1.2. Những quan điểm nghiên cứu sự tác động của sự nghiệp đổi mới
đối với sự biến đổi con người Việt Nam hiện nay
Những nghiên cứu gần đây ở nước ta đã tập trung nhiều vào việc phân
tích sự tác động của sự nghiệp đổi mới đối với sự biến đổi của con người và vai
trò con người trong sự nghiệp đổi mới đó. Con người mới nói riêng và con
người nói chung được nhìn nhận trong quan hệ biện chứng với những điều kiện
mới do sự nghiệp đổi mới đem lại. Liên quan đến những hướng nghiên cứu này
có những công trình, những tác giả sau :
Lê Hữu Tầng “Để thực hiện lý tưởng cao đẹp tất cả xuất phát từ con
người và vì con người” (Tạp chí Triết học số 1/1990); “Vai trò của con người


17
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Nghiên cứu xã hội học, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia , Hà Nội, 1996); Nguyễn Trọng Chuẩn “Đôi điều
suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường” (Tạp chíTriết học số 1/1995); “Con người và nguồn lực con người trong
phát triển” (Viện thông tin khoa học xã hội,Tài liệu dịch, Hà nội 1995); Nguyễn

Thế Kiệt “Quan hệ đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức
hiện nay” (Tạp chí Triết học số 6/1996); Lê Hữu Tầng “Về con người Việt Nam
trước và sau 10 năm đổi mới” (Tạp chí triết học, số 4, năm 1997); Đoàn Đức
Hiếu “Cá nhân và sự phát triển cá nhân trước những yêu cầu và trong điều kiện
hiện nay ở nước ta”(Tạp chí Triết học số 3/1996); Phạm Như Cương “Vấn đề
xây dựng con người mới” (Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 1998); Hồ Sỹ
Quý “Con người và phát triển con người” (Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà
Nội 2007); Nguyễn Hữu Công “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2010). Nhìn chung những
bài viết này đều nhấn mạnh đến yếu tố con người trong thời kỳ đổi mới, đến vai
trò nguồn lực con người cho công cuộc đổi mới và các thang giá trị biến đổi khi
đánh giá con người mới cũng như những tiêu chí đánh giá vai trò nguồn lực của
con người. Các ý kiến khi phân tích vấn đề này đều xuất phát từ quan điểm cho
rằng, toàn bộ sự biến đổi của con người Việt Nam trên các cung bậc khác nhau
là do sự tác động của điều kiện mới cả trong nước và quốc tế tạo nên. Ngoài ra
có tác phẩm tuy không đề cập đến vấn đề con người từ cấp độ lý luận nhưng
đáng để cho những nhà nghiên cứu lý luận tham khảo để hiểu về con người Việt
Nam hơn như tác phẩm “Người Việt - phẩm chất và thói hư - tật xấu” của nhiều
tác giả (Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội 2009).
Ngoài ra còn phải kể đến nhưng công trình liên quan đến vấn đề chung về
con người trên cơ sở trở lại và phân tích sâu hơn quan điểm về con người của
triết học Mác - Lênin. Nhà nghiên cứu Trần Đức Thảo, trong tác phẩm “Vấn đề
con người và chủ nghĩa Lý luận không có con người” do Nhà xuất bản Thành
Phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1989, khi đưa ra những luận cứ để bác bỏ quan


18
điểm sai lầm của triết học phương Tây về con người đã khẳng định tính đúng
đắn, khoa học và cách mạng trong quan niệm của Mác về bản chất con người.
Tiếp sau đó, trên các tạp chí Triết học, tạp chí Cộng sản, Nghiên cứu lý luận,

Thông tin lý luận đã đăng tải nhiều bài viết của các tác giả về quan niệm của C.
Mác, Ph. Ăngghen về con người, về bản chất con người, mối quan hệ giữa con
người - tự nhiên - xã hội. Liên quan đến vấn đề này có bài viết“Một vấn đề cần
được quan tâm: Mối quan hệ giữa các yếu tố sinh học và các yếu tố xã hội trong
con người” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí triết học, số 3, năm 1992);
tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm có bài “Những tư tưởng cơ bản của C. Mác, Ph.
Ăngghen, V.I. Lênin về mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên” (Tạp
chí triết học, số 1, năm 1992) và bài “Vấn đề con người, cá nhân và xã hội trong
học thuyết Mác”của tác giả Trần Hữu Tiến (Tạp chí Cộng sản, số 1, năm 1994).
Nói chung các bài viết này đều khai thác quan điểm của triết học Mác - Lênin về
con người nhằm phục vụ cho thực tiễn xây dựng con người mới Việt Nam trong
giai đoạn mới.
Khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã xuất hiện
một loại bài viết bảo vệ chủ nghĩa Mác nói chung và quan điểm về con người
của triết học Mác nói riêng. Đó là các bài viết như: “C. Mác vĩ đại sống mãi”
(Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí triết học, số 2, năm 1993); “Chủ nghĩa nhân văn
Mác xít phải chăng đã lỗi thời”(Hồ Bá Thâm, Tạp chí cộng sản, số 3, năm
1994); “Phải chăng tư tưởng giải phóng con người của Mác đã cũ, một chiều
và không tưởng” (Phạm Văn Duyên, Tạp chí triết học, số 1, năm 1994); “Hai
mặt trong tư tưởng giải phóng con người của học thuyết Mác: sự cống hiến vĩ
đại và những luận điểm phải bị vượt qua”(Trường Lưu, Tạp chí triết học, số 3,
năm 1993); “Tìm hiểu tư tưởng giải phóng con người của C. Mác” (Đặng Hữu
Toàn, Tạp chí triết học, sô 4, năm 1993); “Quan điểm của C. Mác về những tiền
đề lịch sử và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta hiện nay”(Phạm Văn Đức, Tạp chí
triết học, số 3, năm 1993 ) “Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực
mang đặc trưng khoa học và cách mạng” (Hoàng Chí Bảo, Tạp chí triết học, số


19
2, năm 1996 ); “Tư tưởng vĩ đại về giải phóng con người” (Trần Hữu Tiến, Tạp

chí cộng sản, số 3, năm 1998 ). Trong những bài viết này các tác giả đã đề cập
đến tư tưởng nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo trong triết học Mác, quan niệm của
C. Mác và Ph. Ăngghen về con người, con người mới và sự giải phóng con
người như là cơ sở lý luận cho việc xây dựng con người mới ở nước ta trong
thời kỳ đổi mới.
Bàn về quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người, con người
mới và sự tác động của sự nghiệp đổi mới, của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đối với sự biến đổi của con người có thể kể đến những công trình: “Mục
tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay ” (Nguyễn Thanh, Tạp chí triết học, số 5, năm 1996); “Một số quan điểm cơ
bản về phát triển con người Việt Nam và thực trạng phát triển con người Việt
Nam hiện nay” (Luận văn thạc sỹ triết học của Hoàng Thanh Sơn, bảo vệ tại Hà
Nội, năm 2005); “Vấn đề phát triển con người Việt Nam hiện nay” (Luận án tiến
sỹ triết học của Bùi Thị Phương Thùy, bảo vệ tại Hà Nội, năm 2008); “Phát
triển quan điểm triết học của C. Mác - Ph. Ăngghen về con người trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam” (Luận văn thạc sỹ triết học của Lưu Thị Hà, bảo vệ
tại Hà Nội, năm 2008)... Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã
khái quát các quan điểm của Đảng về con người và con người mới trong quá
trình đổi mới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X. Những quan điểm này đã tập trung luận chứng cho quan điểm của
Đảng xem con người, con người mới vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
nghiệp đổi mới, của sự phát triển xã hội. Trên cơ sở đó các tác giả đều khẳng
định: Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều phải hướng đến
việc phát triển con người, lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện
đại làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững và phải gắn tăng
trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng thời các tác giả cũng chỉ ra tác động của


20

sự nghiệp đổi mới, của kinh tế thị trường đối với sự hình thành những phẩm
chất, năng lực của con người Việt Nam hiện nay.
Ở khía cạnh vai trò của con người, con người mới đối với sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước và ảnh hưởng của sự nghiệp đổi mới đối với thang giá
trị trong con người, con người mới được đề cập đến trong Chương trình khoa
học - công nghệ KX - 07 “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội” do GS, TS. Phạm Minh Hạc làm chủ biên với sự
tham gia của các nhà khoa học có uy tín thuộc các chuyên ngành khác nhau theo
các đề tài như: “Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH” (Phạm Minh
Hạc chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1996); “Bồi dưỡng
và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới” (Nguyễn Minh Đường chủ
biên); “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” (Phan Huy Lê
chủ biên); “Về động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” (Lê Hữu Tầng chủ
biên)... Các công trình nghiên cứu này đã có sự phân tích rất sâu sắc nhiều khía
cạnh về con người,về sự biến đổi của con người trong những điều kiện mới như:
Con người Việt Nam truyền thống và hiện đại, sự biến đổi về định hướng các giá
trị trong xã hội, những động lực chính trị - tinh thần quan trọng nhất hiện nay,
thực trạng và vấn đề đào tạo lại nguồn nhân lực,... Đặc biệt các công trình đã
đưa ra được cái nhìn tổng thể mang tầm chiến lược về vấn đề con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là: Thứ nhất, đưa ra nhận thức chung
về con người Việt Nam; Thứ hai, nêu ra các biến động thang giá trị trong con
người Việt nam trong công cuộc đổi mới; Thứ ba, phân tích về vấn đề sinh thể
con người Việt Nam và giáo dục, bồi dưỡng nhân tài. Mặc dù vậy, theo chính
các nhà khoa học đã tham gia chương trình khẳng định, thì đây là vấn đề lớn,
cần được tiếp tục nghiên cứu lâu dài trên nhiều phương diện khác nhau nhằm
phát huy cao nhất vai trò của yếu tố con người cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra còn có các công trình “Vấn đề tiềm năng con người” (Phạm
Minh Hạc, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2005); “ Mấy suy nghĩ
về vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại



21
hóa” (Phạm Văn Đức, Tạp chí triết học, số 6, năm1998); “Nguồn lực con người
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Luận án tiến sỹ triết
học của Đoàn Văn Khái, bảo vệ tại Hà Nội, năn 2000); “Nhân tố con người
trong lực lượng sản xuất với vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” (Luận án tiến sỹ triết học
của Trần Thanh Đức, bảo vệ tại Hà Nội, năm 2002). Ở đây, các tác giả đã khái
quát vai trò quan trọng của con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, nhất là trong sự nghiệp đổi mới, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Con người trong sự nghiệp đổi mới luôn đóng vai trò với tư
cách hoặc là một yếu tố trong lực lượng sản xuất, hoặc là nguồn lực trí tuệ, là
nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội và “vai trò của nguồn lực con
người được thể hiện vừa với tư cách là chủ thể vừa với tư cách là khách thể của
các quá trình kinh tế - xã hội ”[33, 7].
Bàn về dân chủ hóa xã hội và tác động của dân chủ hóa xã hội đối với con
người Việt Nam hiện nay có các công trình: “Vai trò của Nhà nước đối với việc
tiếp tục thực hiện quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam” (Luận án tiến sỹ của
Trần Thị Băng Thanh, bảo vệ tại Hà Nội, năm 2002 ); “Đảm bảo quyền con
người trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam ” (Luận án tiến sỹ của Tường
Duy Kiên, bảo vệ tại Hà Nội, năm 2004); “Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý
luận và thực tiễn” (Nguyễn Tiến Phồn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
-2001).
Ở các công trình này các tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa sự
nghiệp đổi mới với dân chủ hóa đời sống xã hội; khẳng định vai trò của dân chủ
hóa xã hội đối với sự biến đổi của con người nói chung và con người mới nói
riêng; khẳng định dân chủ có nội dung toàn diện trong đó có “ Hai lĩnh vực quan
trọng hàng đầu và nổi bật nhất là Dân chủ kinh tế và Dân chủ chính trị. Nó quy
định dân chủ trong lĩnh vực xã hội, tư tưởng và văn hóa. Nó cũng biểu hiện trực
tiếp quyền con người (nhân quyền) và quyền công dân (dân quyền). Điểm cốt lõi

của dân chủ kinh tế là lợi ích. Điểm cốt lõi của dân chủ chính trị là quyền lực và


22
chế độ ủy quyền thông qua bầu cử qua phương thức dân chủ đại diện. Dân chủ
trong xã hội đòi hỏi sự đảm bảo công bằng trong phân phối lợi ích và công bằng
trong cơ hội phát triển, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Dân chủ
trong lĩnh vực tư tưởng, tinh thần đòi hỏi sự giải phóng tiềm năng sáng tạo, tự
do tư tưởng” [96, 17].
Vai trò của nhân tố chính trị còn được thể hiện thông qua việc xác lập các
tiêu thức, định ra các mô hình, vạch ra các đặc trưng của con người mới ở từng
giai đoạn cụ thể trong quá trình phát triển của nó. Trên cơ sở đó, định hướng cho
việc đào tạo, phát triển con người mới, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và
yêu cầu của thực tiễn đất nước. Bàn về vấn đề này tác giả Nguyễn Hữu Công
trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện” đã khẳng
định: “Nghiên cứu sự phát triển của con người qua các thời kỳ lịch sử, chúng ta
thấy bất kỳ một chế độ chính trị nào muốn tồn tại, phát triển phát triển cũng phải
tạo ra xây dựng cho được những con người lý tưởng của mình. Trong vấn đề
này, hệ thống chính trị có vai trò to lớn. Con người ngoài những đặc trưng chung
của giống loài, bao giờ cũng mang dấu ấn lịch sử, của thời đại đã sản sinh ra nó,
bao giờ cũng mang bản chất giai cấp mà họ xuất thân. Mỗi chế độ xã hội đều có
những quan niệm, những tiêu thức, những mẫu hình về con người mà nó sẽ xây
dựng. Những mẫu hình này thể hiện quan điểm, tư tưởng của giai cấp thống trị
xã hội, nắm giữ bộ máy nhà nước. Trên cơ sở mẫu hình này, hệ thống chính trị
thông qua những biện pháp trực tiếp và gián tiếp, nhất là thông qua hệ thống
giáo dục đào tạo, phát triển con người theo chủ đích của mình” từ đó “hệ thống
chính trị nước ta, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, căn cứ vào điều
kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong từng
giai đoạn, đã nêu ra những định hướng cơ bản cho việc đào tạo, phát triển con
người mới ở nước ta” [15, 163]

Ở góc độ sự tác động của văn hóa, giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế đối
với sự biến đổi của đời sống tinh thần, lối sống của con người Việt Nam có các
công trình như “Bốn mươi năm Viện Triết học - một số kết quả nghiên cứu” (GS,


23
TS. Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, Viện Triết học, Hà Nội, năm 2002). Trong
công trình này tác giả Lê Ngọc Anh trong bài “Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp
sống văn hóa gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay” khẳng định rằng, trong thời kỳ đổi mới cùng với sự phát triển nền kinh tế
thị trường và xu hướng hội nhập quốc tế đã có sự gia tăng lối sống ích kỷ, tâm lý
hưởng thụ và tâm lý tiêu dùng làm suy giảm một số giá trị đạo đức truyền thống
của con người và của xã hội. Đồng thời, tác giả đưa ra những kiến nghị cần tăng
cường giáo dục đạo đức và nếp sống văn hóa gia đình cũng như sự cần thiết kết
hợp chặt chẽ ba yếu tố: gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục con
người và nếp sống xã hội.
Trong công trình nghiên cứu “Tìm về bản săc văn hóa Việt Nam” (GS,
TSKH. Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004). Tác
giả đã nghiên cứu, hệ thống hóa các loại hình văn hóa và tìm hiểu về đời sống cá
nhân cũng như đời sống tập thể trong văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng
xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Đồng thời phân tích và lý giải
một số đặc điểm của lối sống con người Việt Nam trong lịch sử như: trọng tình
nghĩa, đề cao tính cộng đồng ... và một vài sự biến đổi của lối sống con người
trong giai đoạn hiện nay dưới sự tác động của các nhân tố như nền kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hóa ... Vấn đề giao lưu văn hóa,
hội nhập quốc tế ảnh hưởng tới các giá trị truyền thống của con người Việt Nam
còn được phân tích trong công trình “Giá trị truyền thống trước những thách
thức của toàn cầu hóa” (Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên đồng chủ
biên, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2002). Trong công trình này các
tác giả khẳng định rằng, con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước

mãnh liệt, có ý thức liên kết cộng đồng và đoàn kết dân tộc vô cùng bền chặt,
đức tiết kiệm và tự lập tự cường, ý chí vượt qua mọi gian khổ, khó khăn và tinh
thần cần cù, sáng tạo trong chiến đấu và lao động, có cách ứng xử linh hoạt và
thích nghi nhanh với cái mới và cả những biến động bất thường. Các tác giả còn
khẳng định cùng với các các truyền thống quý giá kể trên “dân tộc Việt Nam còn


24
có hàng loạt các truyền thống khác mà chúng ta không thể không nhắc tới như
tinh thần hiếu học, lòng tôn sư trọng đạo, đức tính kính trọng người già giàu
kinh nghiệm, lòng nhân ái, tính khoan dung ...”. Đồng thời các tác giả cũng
khẳng định: Trong “xu thế mở rộng giao lưu quốc tế và quá trình toàn cầu hóa
mạnh mẽ, đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế theo hướng kinh tế thị trường tự do,
đang kéo theo tình trạng đổ bộ ồ ạt từ các nước phát triển vào các nước đang
phát triển và kém phát triển những sản phẩm văn hóa vật thể xa lạ đe dọa phá vỡ
truyền thống và cũng làm mất bản sắc văn hóa cùng các giá trị truyền thống lâu
đời khác” [ 5, 12-13 ]
Ở khía cạnh nghiên cứu con người, con người mới về mặt nhân cách có
công trình “Hồ Chí Minh - Những vấn đề Tâm lý học nhân cách” (PGS, PTS.
Đỗ Long, Chương trình khoa học - công nghệ KX – 07, Hà Nội 1995). Trong
công trình này các tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách và
cấu trúc nhân cách. Tác giả Phạm Minh Hạc nhấn mạnh đến việc nghiên cứu các
quan điểm của Hồ Chí Minh về nhân cách và nêu lên phạm trù thái độ như là
một vấn đề lý luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách. Tác giả Ngô Công
Hoàn khi bàn tới con đường giáo dục nhân cách đã cụ thể hóa bằng sự phân loại
như: Đối với trẻ mầm non thì có định hướng con ngoan, trò ngoan, bé ngoan.
Đối với thanh thiếu niên thì thể dục, trí dục, đức dục, lao động kỹ thuật và phải
rèn luyện thông qua học tập, giáo dục, tự giáo dục, hoạt động tích cực trong lao
động, trong các quan hệ xã hội mới có nhân cách. Tác giả Đức Uy cho rằng Hồ
Chí Minh lúc đầu đã đồng nhất khái niệm nhân cách với khái niệm tư cách. Tác

giả cho rằng, khái niệm nhân cách không chỉ gồm hai thành phần đức và tài mà
là một khái niệm tĩnh và động, phẩm chất và hoạt động, tự ý thức của bản thân.
Tác giả Vũ Kim Thanh khẳng định tính đặc sắc, tính riêng, tính giản dị được kết
hợp trong cái đức cái tài của một nhân cách. Cũng theo tác giả, thì đức - tính
cách và tài - năng lực phải cân đối và hài hòa. Đức gồm các yếu tố như: nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm. Tác giả Nguyễn Đình Tập xem đạo đức là cái gốc của
người cách mạng. Tác giả khẳng định rằng, Hồ Chí Minh rất quan tâm khái quát


×