Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn hoạt động của tổ chức quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.91 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Mong ước thế giới hòa bình và hạnh phúc là điều mà ai cũng nguyện ước, tuy
nhiên phải nhìn nhận một thực tế cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề trong xã hội đang
đe dọa đến an ninh, trật tự của toàn thế giới. Ngoài những thách thức an ninh
truyền thống, thế giới còn phải đối mặt với những thách thức an ninh phi truyền
thống như tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em,
tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao… tạo ra sức ảnh hưởng vô cùng
lớn đến tình hình an ninh, trật tự của mỗi quốc gia. Xuất phát từ yêu cầu tất yếu
của vấn đề hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm, Liên Hợp Quốc
(LHQ) đã thành lập nhiều cơ quan, tổ chức và viện nghiên cứu chuyên trách, phối
hợp chặt chẽ với nhau và với các cơ quan, tổ chức tại mỗi nước trong trao đổi
thông tin, kinh nghiệm.Nổi bật lên trong đó là Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế
(Interpol), Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của LHQ (UNODC), Hiệp
hội Tội phạm học quốc tế… Các hội nghị, diễn đàn đối thoại an ninh và hợp tác
giữa các nước thường xuyên được tổ chức nhằm thỏa luận, vạch ra các phương
hướng chiến lược chung nhằm đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Để đi
sâu hơn vào nghiên cứu nội dung về vấn đề này, nhóm em xin được chọn đề tài :
“Phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn hoạt động của tổ chức quốc tế trong đấu
tranh phòng chống tội phạm.”
I.Những vấn đề pháp lý về hoạt động của tổ chức quốc tế trong đấu tranh
phòng chống tội phạm
1.Khái quát chung
1.1. Khái niệm về vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm của tổ chức quốc tế
1.1.1 Khái niệm tội phạm quốc tế


Tội phạm quốc tế có thể hiểu là hành vi xâm phạm đến cộng đồng thế giới
như tội phạm khủng bố, tội phạm chiến tranh, tội chống loài người, tội diệt chủng,..
những hành vi đe dọa gây trật tự và an ninh thế giới hoặc có thể bao gồm cả các tội
phạm xuyên quốc gia như buôn ma túy, các hành vi phạm tội có tổ chức xuyên
quốc gia như lừa đảo, rửa tiền,.. các tội liên quan đến tài chính khác, tội cố ý gây


hại cho môi trường, tội phạm vi tính…
Tội phạm quốc tế được Ủy ban luật quốc tế xác định là loại tội phạm chống
lại pháp luật quốc tế, phát sinh do hành vi vi phạm nghĩa vụ của quốc gia. Đây là
loại nghĩa vụ có ý nghĩa cơ bản trong việc đảm bảo quyền lợi sống còn của cộng
đồng quốc tế. Tội phạm quốc tế là mối nguy hiểm nhất đối với toàn nhân loại vì
chúng xâm hại tới hòa bình và an ninh quốc tế.
1.1.2 Phân loại tội phạm quốc tế
Tội phạm quốc tế có thể được phân thành: Tội ác chiến tranh, tội diệt chủng
và apthai, tội chống lại con người, tội ác xâm lược. Trong Điều 6 Quy chế Tòa án
quân sự quốc tế Nurumbe ngày 8/8/1945, tội phạm quốc tế được chia làm ba
nhóm:
-Tội phạm chống hòa bình bao gồm các hành vi tội phạm âm mưu, chuẩn
bị, tuyên truyền và tiến hành chiến tranh xâm lược, hoặc chiến tranh, vi phạm các
điều ước quốc tế, các thỏa thuận và đảm bảo quốc tế.
- Tội chống con người là các hành vi giết hại, hủy diệt, đày ải, nô dịch và
các hành vi dã man khác đối với con người, vi phạm nghiêm trọng các quy phạm
và các tập quán quốc tế về quyền con người như truy đuổi con người vì lý do chính
trị, tôn giáo, chủng tộc..


- Tội phạm chiến tranh bao gồm các hành vi tội phạm chà đạp lên tập quán
quốc tế và vi phạm pháp luật quốc tế về chiến tranh như: giết hại tù binh, con tin,
phá hủy thành phố, làng mạc…
1.3 Vai trò của tổ chức quốc tế phòng chống tội phạm quốc tế
Tội phạm quốc tế là mối nguy hiểm nhất đối với toàn thể nhân loại vì chúng
xâm hại đến hòa bình và an ninh quốc tế. Việc phòng chống tội phạm này không
phải là quyền hay nghĩa vụ của bất kỳ một quốc gia nào mà nó đòi hỏi sự hợp tác
của tất cả các quốc gia. Việc hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế góp
phần bảo vệ hòa bình, an ninh của các quốc gia nói riêng và của cộng đồng quốc tế
nói chung.

1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của các tổ chức quốc tế hoạt động nhằm
đấu tranh phòng chống tội phạm
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, khi mà tội phạm quốc tế và tội phạm xuyên
quốc gia đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ, tình hình nghiên cứu Tội phạm học trên
thế giới và đặc biệt là ở các nước Bắc Mỹ và khu vực Châu Âu đã đặt ra yêu cầu
cấp bách của sự hợp tác để tìm ra các biện pháp đấu tranh, đồng thời việc mở rộng
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này là một tất yếu khách quan . Và hợp tác quốc tế
chỉ có thể được thực hiện khi có sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức quốc tế. Có
vai trò quan trọng liên quan đến chức năng này chính là Tổ chức Liên Hiệp quốc
(LHQ), Interpol, và một số tổ chức phi chính phủ.
Ngoài các tổ chức nói trên, trong việc hợp tác quốc tế về phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm còn có sự đóng góp không nhỏ của Hiệp hội Tội phạm học
quốc tế. Hiệp hội này được thành lập năm 1934 tại Italia, tập hợp các Viện nghiên
cứu Tội phạm học, các chuyên gia tội phạm học của các quốc gia và trực tiếp
chuyên về bảo đảm sự hợp tác quốc tế nghiên cứu đấu tranh phòng, chống tội


phạm. Hiệp hội có nhiệm vụ nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội
phạm ở mức độ quốc tế; tổ chức các Hội nghị Tội phạm học quốc tế nhằm thảo
luận, kiểm tra, công bố các tài liệu, số liệu nghiên cứu về Tội phạm học. Cho đến
nay đã tổ chức 11 Hội nghị quốc tế, qua đó đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng
về việc nghiên cứu phát triển khoa học Tội phạm học cũng như vạch ra các phương
hướng chiến lược về phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nhằm tư vấn cho
Hội đồng kinh tế xã hội của LHQ.
Theo Hiến chương của Liên Hiệp quốc, thì vấn đề hợp tác giữa các quốc gia
trong đấu tranh chống tội phạm trực tiếp được thực hiện bởi một cơ quan trong số
những cơ quan quan trọng của LHQ - đó là Hội đồng kinh tế và xã hội, nằm trong
cấu trúc của Hội đồng này có Ủy ban về kiểm soát ma túy; Tiểu ban phòng chống
ma túy và tội phạm; Ủy ban chuyên trách về chống tội phạm khủng bố quốc tế; Ủy
ban về phòng ngừa tội phạm và xét xử hình sự. Tuy nhiên, giữ vai trò chủ đạo

trong hợp tác quốc tế về đấu tranh chống tội phạm của LHQ chính là Ủy ban về
phòng ngừa tội phạm và xét xử hình sự. Ủy ban này có nhiệm vụ nghiên cứu và
trình lên Hội đồng kinh tế và xã hội những đề nghị, kiến nghị, phương hướng nâng
cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm và xử lý những người phạm tội. Ủy ban này
có chức năng chuẩn bị cứ 5 năm một lần tổ chức Hội nghị về vấn đề phòng ngừa
tội phạm và xử lý những người phạm tội ở cấp độ của LHQ.
Cho đến nay đã diễn ra 11 Hội nghị và thông qua các Hội nghị này LHQ đã soạn
thảo các văn bản pháp lý quốc tế, vạch ra các nguyên tắc, tiêu chuẩn và các kiến
nghị quốc tế về việc phòng, chống tội phạm và xét xử tội phạm hình sự quốc tế. Cụ
thể như tại Hội nghị lần sáu năm 1980 tại Venezuela với Tuyên bố Karacát, đã nêu
rõ chiến lược phòng ngừa tội phạm trong điều kiện xuất hiện những hình thức hành
vi phạm tội mới mang tính phổ biến và không còn mang tính truyền thống. Qua đó
toàn bộ những vấn đề nghiên cứu Tội phạm học đã được mở rộng và nhất quán


giữa các quốc gia. Đồng thời đã ghi nhận và công bố gần 20 sáng kiến và quyết
định đề cập đến các vấn đề chiến lược phòng ngừa tội phạm, phòng ngừa lạm dụng
quyền lực,… Các Hội nghị tiếp theo đều nêu rõ rằng, tội phạm là vấn đề nghiêm
trọng trong phạm vi của mỗi quốc gia và quốc tế, nó cản trở sự phát triển chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hóa của các dân tộc và đe dọa đến quyền, sự tự do cơ bản
của con người, cũng như hòa bình, ổn định và an ninh nhân loại. Do đó cần chủ
động hợp tác trên cơ sở giữa hai hoặc nhiều quốc gia, phát triển việc nghiên cứu
Tội phạm học, quan tâm đến việc đấu tranh chống tội phạm khủng bố, ma túy, tội
phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực
quản lý nhà nước, bảo đảm sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội trong việc phòng
chống tội phạm.
2. Nội dung pháp lý
Tội phạm quốc tế là một trong các loại tội phạm trong luật quốc tế. Vì vậy hoạt
động hợp tác của các tổ chức đấu tranh phòng chống tôi phạm quốc tế nó cũng
tương tự các hoạt động hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo đó,nội dung

hoạt động của các tổ chức quốc tế về hợp tác đấu tranh pjongf chống tội phạm
quốc tế bao gồm các hoạt động sau:
2.1. Phân định thẩm quyền tài phán
Thẩm quyền tài phán của một quốc gia được hiểu là quyền lực riêng biệt của
quốc gia trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và đây là quyền tối cao
của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình. Thẩm quyền tài phán hình sự quốc
gia bao gồm các nhóm quyền: quyền cho phép hoặc nghiêm cấm, quyền xét xử và
quyền thi hành trong lĩnh vực hình sự liên quan đến chủ thể, khách thể hoặc sự
kiện pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế do những nguyên nhân khách quan, chủ quan
mà quốc gia không thể thực hiện được quyền này vì vậy đòi hỏi cần phải có sự hợp


tác giữa các quốc gia. Để đảm bảo sự phù hợp trong việc thực hiện thẩm quyền tài
phán quốc gia trong các vụ việc hình sự trong khoa học luật quốc tế đã tồn tại một
số nguyên tắc xác định thẩm quyền tài phán như: nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc
quốc tịch, nguyên tắc an ninh quốc gia, nguyên tắc phổ cập.
Nguyên tắc lãnh thổ: Trong khoa học luật quốc tế ghi nhận việc áp dụng các
nguyên tắc lãnh thổ để xác định thẩm quyền tài phán hình sự quốc gia. Theo
nguyên tắc này, quốc gia có thẩm quyền tài phán hình sự là quốc gia nơi hành vi
phạm tội thực hiện. Do đó, tòa án có thẩm quyền giải quyết là tòa án quốc gia nơi
hành vi phạm tội được thực hiện.
Nguyên tắc quốc tịch: Theo nguyên tắc quốc tịch thì quốc gia có thẩm quyền
tài phán là quốc gia mà cá nhân thực hiện hành vi phạm tội hoặc tình nghi thực
hiện hành vi phạm tội mang quốc tịch, cho dù hành vi đó xảy ra ở bất kì nơi nào.
Do đó, thẩm quyền xét xử hoàn toàn được xác định không phụ thuộc vào địa điểm
thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, quốc tịch của nạn nhân cũng có thể được coi
là căn cứ để xác định thẩm quyền tài phán, theo đó quốc gia mà nạn nhân là công
dân (có quốc tịch) cũng có thẩm quyền tài phán hình sự.
Nguyên tắc an ninh quốc gia: Các quốc gia có thẩm quyền xét xử đối với bất
kỳ hành vi phạm tội nào được thực hiện nhằm mục đích gây phương hại đến nền

độc lập,an ninh của quốc gia cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Khi áp
dụng nguyên tắc này, hành vi phạm tội sẽ phải chịu sự truy tố và xét xử của quốc
gia bị xâm hại mà không cần xét đến địa điểm thực hiện hành vi hay quốc tịch của
thủ phạm hoặc người bị hại.
Nguyên tắc phổ cập: là nguyên tắc xác định thẩm quyền tài phán hình sự
dựa trên cơ sở tính chất nguy hiểm, đe dọa cộng đồng của một số tội phạm cụ thể.
Theo đó, tất cả các quốc gia có liên quan đều được phép sử dụng các biện pháp cần


thiết để xác lập thẩm quyền xét xử hình sự của mình đối với một số loại tội phạm
đã được xác định mà không cần xét đến địa điểm thực hiện hành vi phạm tội hay
mục đích thực hiện và chủ thể là ai.
2.2. Cơ quan tài phán quốc tế
a) Định nghĩa: là cơ quan hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận của các chủ thể
Luật quốc tế thực hiện chức năng giải quyết bằng trình tự, thủ tục tu pháp các tranh
chấp phát sinh trong quan hệ hợp tác giữa các chủ thể nhằm củng cố và duy trì trật
tự pháp lý quốc tế.
Về tổng thể cơ quan tài phán quốc tế tồn tại dưới 2 dạng: Tòa án quốc tế, trọng tài
quốc tế và cơ quan tài phán được hình thành trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế.
b) Đặc điểm:
- Được thành lập dựa trên sự thỏa thuần của chủ thể LQT
- Giải quyết các tranh chấp quốc tế
- Không có thẩm quyền đương nhiên trong quá trình giải quyết các tranh chấp
- Luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp tại cơ quan tài phán quốc tế là các
nguyên tắc và quy phạm của LQT
- Phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế về là chung thẩm và có giá trị pháp lý
bắt buộc với các bên tranh chấp
c) Phân loại:
Căn cứ vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp: chia thành coq quan có thẩm quyền
chúng và riêng

Căn cứ vào tính chất hoạt động: chia thành cơ quan tài phán thường trực và cơ
quan tài phán vụ việc (thường sử dụng căn cứ này để phân loại)


- Cơ quan tài phán thường trực là cơ quan được thành lập để giải quyết các
tranh chấp một cách thường xuyên, các cơ quan này có quy chế hoạt động,
trụ sở, thủ tục rõ ràng. Vd: TA luật biển, tòa trọng tài thường trực Lahaye,..
- Cơ quan tài phán vụ việc hay còn gọi là cơ quan tài phán Ad hoc) là cơ quan
tài phán được thành lập để giải quyết một tranh chấp cụ thể và sau khi vụ
việc này được giai quyết thì cơ quan tài phán này sẽ chấp dứt hoạt động. Vd:
tòa trọng tài được thành lập năm 1988 để giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa
Ai cập và Ixaren
Căn cứ vào thành phần: chia thành cơ quan tài phán cá nhân và tập thể, việc phân
loại này chỉ áp dụng với Trọng tài quốc tế , theo đó tòa trọng tài cá nhân là tòa chỉ
có duy nhât một thành viên, còn tòa trọng tài tập thể à tòa có từ 3 trọng tài viên trở
lên

2.3. Tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ trong hợp tác đấu tranh phòng
chống tội phạm của các tổ chức quốc tế
a) Tương trợ tư pháp về hình sự
Trong hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm, tương trợ tư pháp là biện
pháp duy nhất để thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết ở nước ngoài. Các vấn đề
nằm trong nội dung tương trợ tư pháp được điều ước quốc tế liên quan điều chỉnh,
còn những vấn đề chuyên biệt có vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng chống
tội phạm có thể được ghi nhận trong các điều ước quốc tế đa phương hoặc song
phương về phòng chống tội phạm. Nội dung cơ bản của tương trợ tư pháp về hình
sự bao gồm các vấn đề như: dẫn độ tội phạm, chuyển giao người bị kết án…
Trên phạm vi toàn cầu, cộng đồng quốc tế trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế hữu
quan, trước hết là Liên hợp quốc đã có những hành động cụ thể đấu tranh với làn



sóng tội phạm ngày càng tăng và tính quốc tế hóa ngày càng sâu sắc của các nhóm
tội phạm riêng biệt. Những hoạt động nhằm tạo ra sự hợp tác chặt chẽ của cộng
đồng quốc tế đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm. Xuất phát từ yêu cầu tất yếu
của vấn đề hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm, LHQ đã thành
lập nhiều cơ quan, tổ chức và viện nghiên cứu chuyên trách, phối hợp chặt chẽ với
nhau và với các cơ quan, tổ chức tại mỗi nước trong trao đổi thông tin, kinh
nghiệm, nổi bật lên trong đó là Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), Cơ
quan phòng chống ma túy và tội phạm của LHQ (UNODC), Hiệp hội Tội phạm
học quốc tế… Các hội nghị, diễn đàn đối thoại an ninh và hợp tác giữa các nước
thường xuyên được tổ chức nhằm thỏa luận, vạch ra các phương hướng chiến lược
chung nhằm đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Sự điều chỉnh của luật
quốc tế với hợp tác tương trự tư pháp về hình sự thường tập trung và một số vấn đề
sau:
- Chuyển giao giấy tờ và tiếp nhận các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc
hình sự được thự lí và giải quyết.
- Cung cấp toong tin cần thiết về luật pháp hiện hành và thực tiễn tòa án: Thẩm vấn
nghi can, người làm chứng, bị các và các chuyên gia.
- Tiến hành các hoạt động giám định và khám xét tư pháp, chuyển giao vật chứng:
Thực hiện các hoạt động truy cứu hình sự và dẫ dộ tội phạm:
- Các hoạt động tương trọ tư pháp khác theo yêu cầu và phù hợp với từng hoàn
cảnh, từng trường hợp củ thể sẽ được thỏa thuận và ghi nhận trong cá hiệp định hữ
quan giữa các bên thành viên.
Năm 1990, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng đã thông qua Điều ước quốc tế mãu
về chuyển giao truy cứu hình sự. Nội dung cơ bản của được áp dụng khí các trường
hợp nghi can đã trở về lãnh thổ quốc gia mà họ là công dân và việc dẫn độ tội


phạm là không tể thực hiện do pháp luật quốc gia thường xuyên quy định, không
dẫn độ công dân nước mình cho nước khác xét xử thì đối với các trường hợp nhu

vậy, có thể thực hiện việc chuyển giao thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự
cho quốc gia mà bị cáo là công dân với điều kiện rằng, phải khẳng định rằng hành
vi mà bị cáo thực hiện được định danh là hành vi tội phạm theo quy định của pháp
luật hiện hành của hai quốc gia.
b) Dẫn độ tội phạm
Cùng với sự ra đời của ngành Luật Hình sự quốc tế, hoạt động hợp tác đấu tranh
phòng chống tội phạm cũng có những bước phát triển đáng kể qua các giai đoạn
với sự hình thành của các điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm. Từ Hiệp ước hoà
bình năm 1296 trước công nguyên đến các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt
động dẫn độ vào các năm 1802, 1889.. Bước phát triển quan trọng nhất của các quy
định về dẫn độ tội phạm trong Luật quốc tế đó là sự ra đời của tổ chức đa phương
toàn cầu có vai trò gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế vào năm 1945 - Liên hợp
quốc. Trong quá trình hoạt động của mình, Liên hợp quốc đã xây dựng các điều
ước quốc tế đa phương chứa đựng các quy định liên quan đến nguyên tắc, trình tự,
thủ tục điều chỉnh hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia thành viên như: Hiệp định
mẫu về dẫn độ tội phạm năm 1990, Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia, Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng
năm 2003.. Từ những quy định sơ khai, với những quy tắc xử sự dưới dạng tập
quán đến các quy định trong các điều ước quốc tế cụ thể, các quy phạm về dẫn độ
tội phạm trong Luật quốc tế đã có những bước hoàn thiện dần nhằm góp phần vào
hoạt động hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm giữa các quốc gia.
Trên thực tế, dẫn độ là hoạt động hợp tác dựa trên sự thoả thuận giữa các quốc gia
hữu quan nhằm đưa cá nhân đang hiện diện trên lãnh thổ của quốc gia được yêu


cầu cho quốc gia yêu cầu để tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành
bản án đã có hiệu lực đối với cá nhân đó.
Về chủ thể thực hiện hoạt động dẫn độ tội phạm: Các quốc gia độc lập có chủ
quyền là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật quốc tế, đồng thời cũng chính là chủ
thể tham gia vào hoạt động dẫn độ tội phạm. Trong hoạt động dẫn độ tội phạm sẽ

có chủ thể là quốc gia yêu cầu và quốc gia được yêu cầu. Quốc gia yêu cầu là quốc
gia là quyền và lợi ích bị cá nhân tiến hành hành vi xâm hại một cách trực tiếp,
quốc gia được yêu cầu là quốc gia nơi cá nhân này đang hiện diện. Quốc gia yêu
cầu sẽ đưa ra yêu cầu dẫn độ khi phát hiện ra cá nhân đó đang ở trên lãnh thổ của
quốc gia yêu cầu (trên cơ sở sự thoả thuận), quốc gia được yêu cầu căn cứ vào
pháp luật quốc gia và quy định của Luật quốc tế để chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu
dẫn độ đó.
Về cơ sở pháp lý của hoạt động dẫn độ: Các điều ước quốc tế được ký kết giữa các
quốc gia hữu quan chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động dẫn độ. Vì việc tiến hành
dẫn độ tội phạm là quyền của quốc gia trong quan hệ quốc tế trên cơ sở chủ quyền
quốc gia, hoạt động này sẽ chỉ trở thành nghĩa vụ mà quốc gia phải thực hiện trên
cơ sở các điều ước quốc tế được ký kết với các quốc gia khác.
Về nguồn của hoạt động dẫn độ tội phạm: Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, luật
quốc gia chính là nguồn của hoạt động dẫn độ tội phạm. Điều ước quốc tế điều
chỉnh hoạt động dẫn độ tội phạm gồm điều ước quốc tế đa phương toàn cầu hoặc
khu vực (Công ước châu Âu về dẫn độ năm 1957, Hiệp định mẫu về dẫn độ của
Liên hợp quốc năm 1990, Hiệp ước dẫn độ giữa các quốc gia thành viên Cộng
đồng Kinh tế Tây Phi năm 1994..); Các điều ước quốc tế song phương (Hiệp định
dẫn độ tội phạm giữa Hoa Kỳ và Pháp năm 1996, Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa
Việt Nam và Đại Hàn Dân Quốc năm 2003..) Tập quán quốc tế có thể kể đến như:
nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình, nguyên tắc có đi có lại.. Luật quốc


gia bao gồm các văn bản pháp lý quốc gia điều chỉnh hoạt động hợp tác về dẫn độ
tội phạm (thẩm quyền, trình tự, thủ tục...) của chính quốc gia trong quan hệ với
quốc gia khác như: Luật dẫn độ năm 1999 của Canada, Đạo luật dẫn độ của Trung
Quốc năm 2000…)
Về đối tượng dẫn độ: Đối tượng chính của hoạt động dẫn độ là các tội phạm mà cá
nhân thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia mình và đang hiện diện trên lãnh thổ của
quốc gia khác. Khoa học Luật Hình sự quốc tế ghi nhận 3 hình loại: tội phạm quốc

tế, tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm hình sự chung. Trên thực tế, hoạt động
dẫn độ tội phạm chủ yếu được thực hiện với các cá nhân phạm tội có tính chất
quốc tế hoặc một số tội phạm hình sự chung mang tính chất quốc tế..
Các quy định về dẫn độ tội phạm nằm trong các điều ước đa phương đa phương
khu vực và toàn cầu có vai trò rất quan trọng với các quốc gia thành viên trong
việc áp dụng các quy định của điều ước trong quan hệ với các quốc gia thành viên
khác. Có thể kể đến một số điều ước quốc tế đa phương như Hiệp định mẫu về dẫn
độ tội phạm năm 1990 của Liên hợp quốc, Luật mẫu về dẫn độ năm 2004 của Liên
hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
năm 2000, Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003, Công ước
châu Âu về dẫn độ năm 1957 và các Nghị định thư bổ sung năm 1975, 1978,
2010…
Nghĩa vụ dẫn độ tội phạm trong các điều ước quốc tế đa phương quy định khi
nhận được một yêu cầu dẫn độ của bên ký kết khác, các quốc gia thành viên được
yêu cầu sẽ tiến hành dẫn độ một cá nhân đang hiện diện trên lãnh thổ quốc gia
mình nhằm thực hiện việc xét xử hoặc thi hành bản án đã có hiệu lực đối với cá
nhân đó theo pháp luật của quốc gia đưa ra yêu cầu. Nghĩa vụ này được ghi nhận
trong tất cả các điều ước quốc tế đa phương về dẫn độ tội phạm (Hiệp định mẫu về


dẫn độ của Liên hợp quốc, Luật mẫu về dẫn độ năm 2004 của Liên hợp quốc, Công
ước châu Âu về dẫn độ năm 1957
II. Thực tiễn hoạt động của các tổ chức quốc tế trong đấu tranh phòng chống
tội phạm:
1. Liên Hiệp Quốc:
Liên Hiệp Quốc là tổ chức liên chính phủ lớn nhất thế giới. Vì vậy nên, tổ chức
này là tổ chức có tầm quan trọng lớn nhất trong việc hỗ trợ, liên kết các quốc gia
trong việc phòng chống tội phạm.
Theo đó, Liên Hiệp Quốc đã thành lập ra Văn phòng Liên Hiệp Quốc về chống Ma
túy và Tội phạm. Cơ quan này được thành lập năm 1997 với tên gọi Văn phòng

Kiểm soát Ma túy và Phòng chống Tội phạm tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Vienna.
Nó là một thành viên của Nhóm Phát triển Liên Hiệp Quốc, và năm 2002 được đổi
tên ra Văn phòng Liên Hiệp Quốc về chống Ma túy và Tội phạm.
Ngoài ra, các quốc gia Liên Hiệp Quốc cũng đã ký nhiều công ước về phòng chống
tội phạm xuyên quốc gia như Công ước Palermo năm 2000 về phòng chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các công ước của Liên Hiệp Quốc về phòng
chống buôn bán các chất hướng thần,…
Chính những cơ quan và các công ước này đã góp phần hoàn thiện hoạt động
2. Liên minh Châu Âu:
Sau Liên Hiệp Quốc, chúng ta chắc chắn phải nhắc tới Liên minh châu Âu. Với
thành viên là những quốc gia giàu có và phát triển nhất thế giới như Đức, Pháp,
Italy…, Liên minh châu Âu có thể dễ dàng xây dựng một khối liên kết an ninh chặt
chẽ, nhằm đảm bảo an ninh cho toàn bộ khối. Nhưng mọi thứ không diễn ra như
vậy.


Hiện EU đã có một số cấu trúc an ninh tầm khu vực. Trong đó, phải kể tới Văn
phòng cảnh sát châu Âu (Europol) có nhiệm vụ đối phó với tội phạm tình báo, tội
phạm có tổ chức quốc tế; có Frontex – lực lượng biên phòng của EU điều phối hoạt
động hợp tác giữa lực lượng kiểm soát biên giới các nước nhằm đảm bảo an ninh
biên giới vòng ngoài của EU. Ngoài ra, còn có Eurojust, điều phối hoạt động điều
tra và truy tố giữa các nước thành viên, nhất là với các dạng tội phạm xuyên quốc
gia.
Tuy nhiên, do nhiệm vụ chính của các cơ quan này chủ yếu mang tính chất hậu
cần, điều phối hoạt động và nguồn lực giữa các nước thành viên, do vậy, các tổ
chức trên có ít nhân viên và nguồn lực để thực thi nhiệm vụ.
Thêm nữa, có nhiều công ước của Liên minh về hợp tác phòng chống khủng bố, về
tương trợ tư pháp đã được ký kết.
Tuy nhiên, việc thành lập một liên minh an ninh tuy vô cùng cần thiết cũng mắc
phải không ít những rào cản. Ví dụ: Công dân các quốc gia trong liên minh được

quyền tự do đi lại, nhưng nhân viên tình báo thì không. Hay việc các quốc gia
trong liên minh không hoàn toàn có ý định chia sẻ nguồn tin tình báo cho các nước
khác trong khối... Chính những lý do này khiến cho việc bảo đảm an ninh của quốc
gia thành viên nói riêng hay của cả liên minh nói chung gặp nhiều trở ngại. Điển
hình là những vụ khủng bố xảy ra liên tục trên lãnh thổ của Pháp, Đức và Bỉ trong
vài năm gần đây. Lý do của những vụ khủng bổ này một phần chính là do sự thiếu
thông tin liên lạc giữa tình báo các quốc gia và sự thiếu kiểm soát an ninh giữa
biên giới các nước.
3. Các tổ chức khu vực khác:


Giống như châu Âu, mỗi khu vực thường lập ra những hiệp hội hay liên minh riêng
của mình. Giống như Đông Nam Á có ASEAN, châu Mỹ có Tổ chức Các quốc gia
châu Mỹ, hay châu Phi có Liên minh châu Phi.
Mỗi liên minh này đều có những điều ước quốc tế riêng nhằm bảo đảm an ninh
trong khu vực của mình. Điển hình nhất là những hiệp định tương trợ tư pháp hay
những hiệp định về hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.
Mặc dù có những sự khác biệt về thể chế chính trị hay về kinh tế - xã hội, mỗi
thành viên trong các khu vực đều cố gắng tạo ra những sự gắn kết nhằm bảo đảm
an ninh cho chính bản thân quốc gia, cũng là cho khu vực và thế giới.
4. Interpol:
Là một tổ chức liên chính phủ chuyên về tội phạm hình sự, Interpol đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc hỗ trợ và liên kết các quốc gia trong công cuộc phòng
chống và đấu tranh với tội phạm, đặc biệt là tội phạm xuyên quốc gia.
Với gần 200 thành viên, Interpol có mạng lưới các cơ sở trên khắp thế giới với
công việc chủ yếu là hỗ trợ lực lượng cảnh sát quốc gia trong lĩnh vực hình sự - tội
phạm xuyên quốc gia. Chính lực lượng này đã cung cấp rất nhiều thông tin tình
báo quan trọng cho các quốc gia nhằm triệt phá những đường dây buôn người,
buôn ma túy hay kể cả khủng bố.
Tuy nhiên, bởi vì thẩm quyền hạn hẹp (chỉ hỗ trợ điều tra, cung cấp thông tin cho

cảnh sát quốc gia; không được phép bắt người;…) nên Interpol chưa thể thực sự
phát huy hết tiềm năng của mình. Mặc dù vậy, những sự hỗ trợ mà Interpol mang
lại cho các quốc gia vẫn vô cùng quý giá. Đặc biệt là khi mỗi quốc gia trên thế giới
đều giấu kín tin tức tình báo của bản thân và không phải lúc nào cũng sẵn sàng
giúp đỡ quốc gia khác.


5. Sự hợp tác giữa các tổ chức quốc tế liên chính phủ:
Việc hợp tác không chỉ dành cho các quốc gia, nó còn là phương thức để các tổ
chức quốc tế hỗ trợ lẫn nhau nhằm tăng cường sự gắn kết trên thế giới.
Ví dụ điển hình cho việc này chính là việc hợp tác giữa ASEAN và EU. Hai tổ
chức này đã thành lập ra Ủy ban hợp tác chung ASEAN - Liên minh châu Âu
(AEJCC). Và đương nhiên hợp tác về an ninh, về phòng chống tội phạm sẽ luôn
luôn là vấn đề được nhắc tới.

KẾT LUẬN
Tóm lại, để giải quyết và đối phó với những vấn đề trên đòi hỏi sự nỗ lực chung
của cộng đồng quốc tế, sự phối hợp của các quốc gia trong việc lựa chọn những
giải pháp phù hợp để đấu tranh và ngăn chặn các loại hình tội phạm, đảm bảo an
ninh và hòa bình cho toàn thế giới. Bên cạnh đó là chú trọng đến công tác đào tạo,
huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ… nhằm đấu tranh hiệu quả với các loại
tội phạm, góp phần thiết thực vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự
an toàn xã hội. Bài làm sẽ không tránh khỏi vài thiếu sót do còn hạn chế về kiến
thức, mong thầy cô xem xét góp ý để giúp bài tập nhóm em được hoàn thiện hơn ạ.
Chúng em xin cảm ơn!



×