Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí công an nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.61 KB, 89 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ššš

CHU QUỐC DŨNG

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ
CÔNG AN NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ššš

CHU QUỐC DŨNG

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ
CÔNG AN NHÂN DÂN

Chuyên ngành: Kinh tế Chính tri
Mã số: 60 32 01 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Bùi Ngọc Quỵnh

HÀ NỘI - 2013




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ
THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN DÂN - MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
1.1. Khái quát chung về nhân lực, nguồn nhân lực và phát
triển nguồn nhân lực
1.2. Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an Nhân dân:
Quan niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố tác động
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số hệ
thống báo chí ngành khác
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG AN NHÂN
DÂN HIỆN NAY
2.1. Khái quát về nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an Nhân dân hiện nay
2.2. Thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực báo chí Công
an nhân dân
2.3. Hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần tập
trung giải quyết để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân thời gian tới
Chương 3 NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ CÔNG
AN NHÂN DÂN THỜI GIAN TỚI
3.1. Những quan điểm cơ bản phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân

3.2. Những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

3

13
13
18
29

36
36
40

54

64
65
73
88
89
92


STT


Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1.

Báo An ninh Thủ đô

Báo ANTĐ

2.

Báo Công an Nhân dân

Báo CAND

3.

Chương trình Truyền hình An ninh ATV do ATV
Báo An ninh Thủ đô sản xuất

4.

Công an Nhân dân

CAND

5.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


CNH, HĐH

6.

Đại học

ĐH

7.

Giáo sư

GS

8.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASEAN

9.

Kênh truyền hình Công an Nhân dân

ANTV

10.

Phát thanh- truyền hình


PT-TH

11.

Phó Giáo sư

PGS

12.

Quân đội Nhân dân

QĐND

13.

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

14.

Xây dựng lực lượng

XDLL

15.

Thành phố Hồ Chí Minh


TP.HCM

16.

Tiến sĩ

TS

17.

Trung học cơ sở

THCS

18.

Trung học phổ thông

THPT

19.

Viện sĩ

VS


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài

Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế
quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Năm 2006, lần đầu tiên thuật ngữ "nguồn nhân
lực chất lượng cao" được sử dụng trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X. 5 năm sau, Đại hội XI xác định, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một trong ba khâu đột phá chiến lược để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong trình hình mới. [15, tr.106]
Phát triển nguồn nhân lực được coi là khâu quan trọng nhất trong ba khâu
đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các đột phá khác, vì chính con người
tạo ra và thực thi thể chế, xây dựng bộ máy, quy hoạch và phát triển kết cấu hạ
tầng. Đồng thời, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang
đặt ra yêu cầu rất cao về chất lượng con người trong Công an cũng như Quân đội
- những lực lượng vững chắc bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ Việt Nam XHCN.
Ra đời từ những ngày đầu cách mạng, lực lượng Công an Nhân dân Việt
Nam đã có những đóng góp xứng đáng và đang tiếp tục khẳng định vai trò, vị
thế quan trọng trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Là một
thành tố quan trọng nằm trong lực lượng CAND nói chung, hệ thống báo chí
CAND cũng ra đời rất, từ ngày xuất bản số đầu tiên của tờ Công an mới (1-111946), tiền thân của Báo Công an Nhân dân ngày nay. Trong suốt chặng
đường xây dựng và trưởng thành 67 năm qua, báo chí CAND luôn luôn khẳng
định là cơ quan ngôn luận, vũ khí sắc bén của lực lượng Công an Nhân dân
Việt Nam trên mặt trận tư tưởng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, báo chí CAND tiếp tục có những thay đổi phù hợp về
hình thức và nội dung tuyên truyền trong từng giai đoạn, từ Báo Công an mới,
Bạn dân đến tờ Nội san Rèn luyện, Tập san Công an Nhân dân và sau cùng
đổi tên thành Báo Công an Nhân dân từ năm 1965 và giữ nguyên tên gọi này
cho đến ngày nay. Từ chỗ chỉ có 1 sản phẩm báo chí chiếm vai trò chủ lưu là


Báo Công an Nhân dân và chỉ lưu hành nội bộ ngành công an, đến năm

1987 hệ thống báo chí CAND bắt đầu một giai đoạn mới khi một số tờ báo
ngành công an (như: Báo Công an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô) bắt đầu
được phát hành công khai và bán rộng rãi đến nhiều tầng lớp nhân dân. Kể
từ đây, hệ thống báo chí CAND khẳng định rõ nét hơn những đóng góp tích
cực và hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, trong sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng công an
trong sạch, vững mạnh.
Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND từ những ngày đầu sơ
khai là những cán bộ công an có kiêm nhiệm làm công tác tuyên truyền; đội
ngũ chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ, pháp luật và cả những kỹ năng
truyền thông- báo chí. Trải qua quá trình phát triển, hệ thống báo chí CAND
ngày càng nở rộ với nhiều đơn vị, cho ra đời nhiều ấn phẩm, nhiều loại hình
báo chí (báo in, báo điện tử, báo nói, báo hình), với số lượng công chúng tiếp
cận ngày càng đông đảo. Theo đó, quy mô nguồn nhân lực công tác trong hệ
thống báo chí CAND không ngừng tăng lên về số lượng, cơ cấu ngày càng
phong phú, đa dạng và từng bước được hoàn thiện. Yêu cầu tăng cường sức
mạnh tổng hợp của hệ thống báo chí CAND trong tình hình mới ngày càng
tăng, trong khi thị trường lao động chuyên ngành báo chí lại đáp ứng có hạn,
có đơn vị báo chí chưa đáp ứng kịp đà phát triển. Nguồn nhân lực trong hệ
thống báo chí CAND đứng trước những điểm nghẽn về đào tạo, đãi ngộ và cơ
chế sử dụng lao động ngay trong lực lượng CAND. Cán bộ có nghiệp vụ báo
chí thì có thể chưa nắm vững pháp luật, nghiệp vụ công an; còn cán bộ có
nghiệp vụ công an thì chưa được đào tạo hoặc am hiểu kỹ về chuyên ngành
báo chí - truyền thông. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác
trong hệ thống báo chí CAND hiện nay làm việc giữa bối cảnh mặt trận văn
hóa- tư tưởng diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ có diễn biến hòa bình
của các thế lực thù địch, mà còn có cả hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển
hóa” ngay trong nội bộ, cần phải được đấu tranh phòng ngừa. Hơn nữa, tình



hình thế giới cũng luôn biến chuyển mau lẹ, khó lường trong kỷ nguyên toàn
cầu hóa, bùng nổ công nghệ thông tin, bùng nổ truyền thông đa phương tiện.
Tình hình mới đặt ra nhiều bài toán cần có lời giải đáp về phát triển
nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND. Nói cách khác, trong công tác
xây dựng lực lượng CAND, các đơn vị báo chí CAND cần phải giải những
bài toán để các cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức được đào tạo, bồi dưỡng
chính quy và chuẩn hóa, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật và khoa học - kỹ thuật, xứng đáng là người
chiến sĩ của lực lượng Công an Nhân dân trên mặt trận tư tưởng- văn hóa, là
cầu nối giữa lực lượng công an với nhân dân; góp phần tích cực vào công cuộc
bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa các loại tội
phạm và tệ nạn xã hội.
Vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực trong hệ
thống báo chí Công an Nhân dân” làm Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Kinh
tế Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói chung đã có nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu.
Công trình “Phát triển văn hoá con người và nguồn nhân lực thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” do GS-VS Phạm Minh Hạc (chủ
biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2007 là một công trình nghiên
cứu sâu sắc về con người trên những giác độ tiếp cận độc đáo [21]. Các nhà
khoa học đã phân tích sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, con người và
nguồn nhân lực. Phát triển văn hoá đi đến hệ giá trị nhân cách rồi đi đến phát
triển nguồn nhân lực (phát triển thể lực, tâm lực và trí lực). Phát triển văn hoá,
con người và nguồn nhân lực phải đặt trong một tổng thể không tách rời nhau,
chúng gắn kết với nhau trong một thể thống nhất. Hệ thống giá trị vật chất và
tinh thần qua giáo dục trở lại với con người, được con người kế thừa và phát
triển trở thành sức mạnh ở con người trong lao động và trở thành vốn người
(Human capital). Nguồn lực con người tạo ra giá trị mới, đáp ứng nhu cầu



phát triển của từng người, nhóm người và cả xã hội. Các tác giả cũng đã đi
sâu phân tích và cho rằng: chất lượng nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực
chất lượng cao là nguồn nhân lực với những con người lao động có tri thức
tốt, có kĩ năng cao và có tính nhân văn.
Công trình Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, của
PGS.TS Trần Khánh Đức, Nxb Giáo dục Việt Nam năm 2010 đã nghiên cứu
vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục và đào tạo trong phát triển con người
nói chung và nguồn nhân lực đất nước nói riêng [19]. Tác giả đã trình bày hệ
thống sâu sắc về nhiều vấn đề trong đó có quá trình phát triển các chính sách
quốc gia về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Tác giả đã đưa ra những
khái niệm và thuật ngữ cơ bản về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực,
chất lượng nguồn nhân lực cùng những tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực của các nước trên thế giới. Sự sâu sắc của công trình có liên quan
đến đề tài luận văn chính là hệ thống tiếp cận mới, hiện đại và độc đáo về
nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh cách mạng khoa học và công
nghệ. Đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong việc xác
định phải đổi mới, cải cách giáo dục đào tạo làm khâu đột phá để phát triển
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước trong đó có lĩnh vực quân
sự, xây dựng, phát huy nhân tố con người trong QĐNDVN.
Bài "Nguồn nhân lực Việt Nam: vấn đề đào tạo, thu hút và sử dụng"
của tác giả Nguyễn Văn Tài, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) trong Hội thảo khoa học
về Phát triển nguồn nhân lực - KX - 05 - 11 tháng 3 năm 2003 đã đi sâu phân tích
vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển
kinh tế - xã hội trong bối cảnh nước ta gia nhập WTO [30]. Tác giả đã đặc biệt
quan tâm tới vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam để đủ sức cạnh tranh
trên thị trường sức lao động thế giới. Theo tác giả, đào tạo phải gắn với sử dụng
và tập trung vào những ngành, dịch vụ đang thiếu hụt nguồn nhân lực.Việc đào

tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam không chỉ là biện pháp mang tính kỹ


thuật mà còn là một nghệ thuật. Nó đòi hỏi phải hiểu biết thấu đáo về đặc
điểm dân cư, truyền thống dân tộc, những đặc điểm tâm lý con người, những
ưu điểm và nhược điểm của lực lượng lao động... để từ đó mới có thể đề ra
những chính sách, những giải pháp hợp lý phát huy nguồn nhân lực đạt hiệu
quả cao nhất. Cũng trong cuộc Hội thảo về Phát triển nguồn nhân lực - KX - 05 11 tháng 3 năm 2003, bài viết " Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" của tác giả Phạm Minh Hạc
đã luận giải rất sâu sắc vai trò của nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI. Tác giả
cho rằng, trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão hiện
nay thì nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định
đến sự thành công trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia trong đó có
Việt Nam. Song hiện nay nguồn nhân lực nước ta đang ở trình độ của các
nước đã phát triển cao trong thời kỳ cách mạnh công nghiệp lần thứ nhất do
vậy không đáp ứng được yêu cầu của thời đại công nghệ thông tin, kinh tế tri
thức hiện nay. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực để chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công
nghiệp trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN. Chúng ta phải chuẩn bị một nguồn nhân lực chất lượng cao hướng
đến nền kinh tế tri thức. Do vậy, chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nguồn lực con
người là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục nước ta trong những năm
tới.
Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, thời gian qua đã có một số nhà khoa
học bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề hiện đại hóa quân đội và công
an cũng như phát triển nguồn nhân lực phục vụ quân đội và công an.
Đề tài KHXH. 07 - 06: "Hiện đại hóa quân đội và công an với đẩy
mạnh CNH, HĐH” đã tập trung vào nghiên cứu làm rõ tính tất yếu và nội
dung của vấn đề hiện đại hóa quân đội và công an trong tình hình mới. Đề tài

đưa ra kiến nghị; Nhà nước phải đầu tư trực tiếp và huy động sức mạnh tổng
hợp của quốc gia để phát huy nhân tố con người trong xây dựng Quân đội


nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại.
Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Đỗ Văn Dạo về “Phát triển nguồn
nhân lực quân sự chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội Nhân
dân Việt Nam” cũng là một công trình nghiên cứu về phát triển nguồn nhân
lực, trong đó xác định rõ được tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân
đội hiện nay [3]. Luận án đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát
triển lực lượng này đến năm 2020.
Trong lĩnh vực quản lý báo chí, đề tài phát triển nguồn nhân lực cũng là
vấn đề mới. Từ năm 2010, Chính phủ giao Bộ Thông tin- Truyền thông dự
thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh, truyền hình.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức nhiều hội thảo xây dựng Dự
thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình đến năm
2020. Trong quy hoạch nhân lực báo chí quan trọng là phải bảo đảm được xu
hướng phát triển của hệ thống báo chí. Đào tạo nhân lực báo chí có sự khác
biệt, không chỉ là chỉ đào tạo thuần túy chuyên môn về nghiệp vụ báo chí mà
báo chí phản ánh toàn diện mọi mặt đời sống nên kiến thức về chuyên ngành
là hết sức quan trọng. Nhân lực báo chí là nhân lực để tác nghiệp, để hình
thành những sản phẩm báo chí, tác phẩm báo chí chứ không phải là người làm
nghiên cứu nên phải có yếu tố, tố chất để đáp ứng được yêu cầu này. Nhân lực
báo chí còn là những người làm nhiệm vụ tuyên truyền tập thể, cổ động tập
thể, những nhà chính trị nên phải hội tụ đầy đủ các phẩm chất về chính trị,
năng lực chuyên môn, đạo đức. Tất cả những cái đó cần phải tính toán trong
phát triển nguồn nhân lực”. Theo đó, quy hoạch nhân lực báo chí cần phải
tính tới cả xu hướng trong hội tụ thông tin, khi một cơ quan báo chí có cả báo

in, PT-TH, báo điện tử sẽ có nhu cầu nhân lực khác với 4 đơn vị báo chí riêng
rẽ. Sự hội tụ đó không chỉ diễn ra trong 1 tòa soạn mà còn diễn ra trong 1 cá


nhân nhà báo. Quy hoạch cũng phải tính đến những vấn đề sâu như vậy để
đưa ra những dự báo phù hợp. Bất cập trong công tác đào tạo nhân lực báo chí
hiện nay là hầu hết các giáo viên không hoặc ít hành nghề báo trong thực tế.
Đó chính là lý do sinh viên ra trường không thể tác nghiệp được. Bởi vậy,
những mâu thuẫn đó cần được giải quyết bằng các quan điểm quy hoạch phát
triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình.
Nhìn lại phần tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới luận văn, bản
thân tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu thể hiện rõ trong việc đặt vấn
đề, trong cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu mang tính hệ thống trên cơ sở
những phương pháp liên ngành, so sánh,… Bằng cách làm trên, các công trình
đã tìm ra và lý giải một cách thuyết phục vai trò đặc biệt của nhân tố con
người trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh. Mặt
khác, các công trình cũng đưa ra những dự báo có cơ sở khoa học về tương lai
phát triển nguồn nhân lực và những lợi ích và tính hiệu quả mà chiến lược này
mang lại cho sự phát triển của đất nước nói chung và hệ thống báo chí nói
riêng, mà trong đó hệ thống báo chí Công an Nhân dân là một thành tố.
Mặc dù, tính hệ thống của các công trình trên là tương đối cao, có công
trình nghiên cứu một cách tổng thể về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân
lực chất lượng cao, có công trình đi sâu vào phân tích phát triển nguồn nhân
lực ở cấp ngành. Tuy nhiên, do những đặc thù riêng biệt, những mục đích
nghiên cứu khác nhau, nên cho tới nay chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an
Nhân dân với tư cách là một công trình khoa học độc lập.
Do đó, đề tài luận văn này (tập trung nghiên cứu phát triển nguồn nhân
lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân) tuy có kế thừa kết quả nghiên
cứu của nhiều nhà khoa học đi trước, song không trùng lặp với bất kỳ một

công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


* Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển nguồn
nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an Nhân dân
- Phân tích thực trạng, vai trò, nội dung, cơ cấu và những nhân tố ảnh hưởng
tới phát triển phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân.
Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, những vấn đề đặt ra từ thực trạng.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để phát triển
nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực trong
hệ thống báo chí Công an Nhân dân
* Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát nguồn nhân lực công tác tại các cơ quan
báo chí hoạt động có tính chất chuyên nghiệp trong hệ thống báo chí Công an
Nhân dân; với các loại hình truyền thông đa phương tiện như: báo in, báo nói
(phát thanh), báo hình (truyền hình), báo điện tử (báo mạng)… Không khảo sát
các tạp chí, bản tin nghiệp vụ lưu hành nội bộ trong ngành công an, vì đây là loại
hình báo chí không chuyên nghiệp, nhân lực làm tạp chí thường kiêm nhiệm
thêm các chuyên môn khác; nội dung trong các tạp chí hoặc bản tin đó không
phổ biến rộng rãi đến công chúng là các tầng lớp nhân dân.
* Thời gian khảo sát: từ năm 2000 đến nay

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển con người, tham khảo các báo cáo chuyên đề xây dựng lực lượng
CAND và bài viết của các học giả và các công trình khoa học có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng phương pháp chủ nghĩa
duy vật biện chứng, các phương pháp của Kinh tế chính trị, trong đó coi trọng
phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Đồng thời vận dụng tổng hợp các
phương pháp như: hồi cứu tư liệu, phân tích – tổng hợp, lôgíc – lịch sử, tổng
kết thực tiễn, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, chuyên gia…
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nguồn
nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân đáp ứng cầu mới. Qua
đó làm phong phú lý luận nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực.
Luận văn cũng góp phần xác định chủ trương, chính sách để nguồn nhân
lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân phát huy thế mạnh và tạo ra
hiệu quả rõ nét hơn trong hệ thống báo chí Cách mạng Việt Nam cũng như
trong lực lượng CAND.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung 3 chương,
(8 tiết), phần kết luận.



Chương 1
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ
CÔNG AN NHÂN DÂN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực

1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho
con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham
gia vào quá trình lao động- con người có sức lao động.
Thuật ngữ nguồn nhân lực xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX
khi mà có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý sử dụng con người
trong kinh tế lao động, thể hiện một sự nhìn nhận lại vai trò yếu tố con người
trong quá trình phát triển. Nội hàm nguồn nhân lực không chỉ bao hàm những
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, cũng không chỉ bao hàm
về mặt chất lượng, mà còn chứa đựng các hàm ý rộng hơn. Có thể nói sự xuất
hiện thuật ngữ “ nguồn nhân lực” là một trong những biểu hiện cụ thể cho sự
thắng thế của phương thức quản lý mới với phương thức quản lý cũ trong việc
sử dụng nguồn lực con người. Có khá nhiều quan điểm và định nghĩa khác
nhau về nguồn nhân lực.
C.Mác quan niệm: đó là "những con người có năng lực phát triển toàn
diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong
thực tiễn" [26, tr.474].
Lênin đã từng đặc biệt coi trọng của vai trò của con người trong hệ
thống sản xuất vật chất của xã hội, người coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết
định của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin nhấn mạnh: “Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động”
[24, tr.430].
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được coi là một
phương tiên hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững,
thậm chí con người được coi là một nguồn vốn đặc biệt cho sự phát triển -


vốn nhân lực. Về phương diện này, Liên Hiệp Quốc cho rằng, nguồn lực con
người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực con người có quan hệ tới

sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày nay, nguồn nhân lực còn bao
hàm khía cạnh về số lượng, không chỉ những người trong độ tuổi, mà cả
những người ngoài độ tuổi.
Dưới góc độ giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực được xác định là
những người được đào tạo ở các bậc trình độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu hoạt
động nghề nghiệp đem lại thu nhập cho bản thân và cộng đồng. Đó là những
con người có đủ những điều kiện về sức khoẻ, bằng cấp, trình độ nghiệp vụ
chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp, tham gia trực tiếp
vào quá trình hoạt động thực tiễn đem lại hiệu suất lao động cao
Ở nước ta, khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ khi
Đảng ta bắt đầu công cuộc Đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
năm 1986. Điều này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về
nguồn nhân lực. Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc, nguồn lực con người
được thể hiện thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao gồm thể
lực, trí lực và năng lực phẩm chất). Như vậy, nguồn nhân lực không chỉ bao
hàm chất lượng nguồn nhân lực hiện tại mà còn bao hàm cả nguồn cung cấp
nhân lực trong tương lai [20].
Về cơ bản, quan niệm quốc tế và trong nước đều thống nhất với nhau
về bản chất, nội dung và các giới hạn xác định nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở
hai khía cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn
lực. Nguồn nhân lực nằm ngay trong bản thân con người, đó cũng là sự khác
nhau cơ bản giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác. Thứ hai,
nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân con người.
Với tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là
nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho
xã hội, được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời
điểm nhất định.



Từ những phân tích trên, ở dạng khái quát nhất, có thể hiểu nguồn nhân
lực là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn trong dân cư, khả năng huy
động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội
trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể
hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng và chất
lượng con người có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Từ đó tác giả luận văn hiểu rằng: Nguồn nhân lực là nguồn lực con
người, là tiềm năng lao động của mỗi con người trong một thời gian nhất
định. Nguồn nhân lực là động lực nội sinh quan trọng nhất, được nghiên cứu
trên giác độ số lượng và chất lượng, trong đó trí tuệ, thể lực và phẩm chất đạo
đức, kỹ năng nghề nghiệp và sự tương tác giữa các cá nhân trong cộng đồng,
là tổng thể các tiềm năng lao động của một ngành, một tổ chức. Nguồn nhân
lực là toàn bộ sức lao động của những người trong độ tuổi lao động có khả
năng hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại. Cần phân biệt ranh giới và không nên đồng nhất nguồn
nhân lực với lực lượng lao động. Cần quan tâm nghiên cứu nguồn nhân lực
cho phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh.
Nguồn nhân lực chưa phải là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh
tế xã hội. Nguồn nhân lực với chất lượng thấp, số lượng đông trong nhiều
trường hợp lại trở thành lực cản đối với sự phát triển. Vì vậy, ngày nay người
ta quan tâm nhiều đến sự hình thành hoặc đầu tư để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực, chúng ta cũng có thể thấy
rằng, vốn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi
quốc gia cũng như cơ quan- đơn vị, doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh của nguồn nhân lực, đặc biệt phải phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Vốn nhân lực là tập hợp các kiến thức, khả năng, kỹ năng mà
con người tích lũy được trong quá trình đào tạo hoặc làm việc.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
Cho đến nay, do xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau nên khái niệm
phát triển nguồn nhân lực không giống nhau.



Theo Tổ chức Văn hóa – Giáo dục Liên Hiệp Quốc UNESCO, phát
triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn phù
hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Quan niệm này gắn với
sự phát triển sản xuất; do đó, phát triển nguồn nhân lực giới hạn trong phạm
vi phát triển kỹ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về việc làm.
Còn theo Tổ chức Lao động Quốc tế - ILO, phát triển nguồn nhân lực
là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề và phát triển năng lực, sử dụng năng lực
đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn
nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân; hay, phát triển nguồn nhân lực là quá trình
làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp
ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế xã hội.
Với cách tiếp cận trên, phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển
thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp cận kiến thức, tay nghề, tính năng
động xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hóa, truyền thống lịch
sử… Do đó, phát triển nguồn nhân lực đồng nghĩa với quá trình nâng cao
năng lực xã hội và tính năng động xã hội của nguồn nhân lực về mọi mặt: thể
lực, trí lực, nhân cách, đồng thời phân bố, sử dụng, phát huy có hiệu quả nhất
năng lực đó, để phát triển đất nước.
Với góc độ khoa học quản trị nhân lực- một cách hình dung cụ thể thìphát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức, được
tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định, để nhằm tạo ra sự thay đổi
hành vi nghề nghiệp của người lao động. Như vậy, xét về nội dung, phát triển
nguồn nhân lực theo góc độ này bao gồm 3 loại hoạt động là: giáo dục, đào
tạo và phát triển. Theo đó, thứ nhất: Giáo dục được hiểu là các hoạt động học
tập để chuẩn bị cho con người bước vào nghề nghiệp thích hợp hơn trong
tương lai. Thứ hai: Đào tạo (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng) được hiểu như
các hoạt động học tập, nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện hiệu
quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm
cho người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động
học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện nhiệm

vụ của người lao động có hiệu quả hơn. Thứ ba: Phát triển là các hoạt động
học tập vươn ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm


mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương
lai của tổ chức.
Với cách tiếp cận phát triển từ góc độ xã hội, có thể định nghĩa phát triển
nguồn nhân lực là quá trình tăng lên về số lượng (quy mô) nguồn nhân lực và
nâng cao về mặt chất lượng nguồn nhân lực, tạo ra cơ cấu nguồn nhân lực ngày
càng hợp lý. Cả ba mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu trong phát triển nguồn
nhân lực gắn chặt với nhau, trong đó, yếu tố quyết định nhất của phát triển là
chất lượng nguồn nhân lực phải được nâng cao. Phát triển nguồn nhân lực nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển các hoạt động sản xuất
kinh doanh của cơ quan- đơn vị, doanh nghiệp, và đến lượt nó, phát triển kinh tế
xã hội đòi hỏi đòi hỏi phải phát triển nhanh nguồn nhân lực.
Với cách tiếp cận phát triển từ góc độ cá nhân, thì ở luận văn này, phát
triển nguồn nhân lực được hiểu như sau: Phát triển nguồn nhân lực là quá
trình đào tạo, phát triển, phát huy năng lực toàn diện của con người vì sự tiến
bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện bản thân của mỗi người; hay nói một cách
khác phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm cho con người trưởng thành,
có năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội cao.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an Nhân dân: Khái
niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố tác động
1.2.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an nhân dân
Dưới góc độ chung nhất, phát triển là sự biến đổi, gia tăng về số lượng,
chất lượng và các mối quan hệ.
Tiếp cận dưới góc độ con người là mục tiêu của sự phát triển thì phát
triển con người hay phát triển nguồn lực con người là mở rộng các khả năng
của con người, tạo cho con người có cơ hội tiếp cận với nền giáo dục tốt hơn,

các dịch vụ y tế tốt hơn, có chỗ ở tiện nghi và điều kiện làm việc tốt hơn. Hay
nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực là tăng cường năng lực, nâng cao
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc cho con người.


Đứng trên quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh
tế - xã hội, khi nói phát triển nguòn nhân lực là nói tới phát triển hoạt động
đầu tư nhằm tạo ra nguồn lực xã hội với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời bảo đảm sự phát triển
của mỗi cá nhân. Theo đó, phát triển nguồn nhân lực là những chính sách và
hoạt động tạo ra sự biến đổi về số lượng, chất lượng biểu hiện ở sự hình thành
và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, thái độ, nhân cách
nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao động của cá nhân và sự phát triển
của xã hội.
Tiếp cận phát triển nguồn nhân lực ở một ngành, một tổ chức nào đó
thực chất là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu của
nguồn nhân lực được thực hiện thông qua hệ thống các chính sách, biện pháp
của tổ chức và cá nhân với mục đích là tạo ra lực lượng lao động phù hợp với
nhu cầu, định hướng và mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực, tổ chức trong
từng thời kỳ. Thực chất phát triển nguồn nhân lực của một ngành, một tổ chức
là hoạt đọng của chủ thể quản lý ngành, tổ chức trước yêu cầu phát triển mang
tính khách quan và hướng đích giúp cho cá nhân và tập thể người lao động đạt
được khả năng thích ứng cao nhất theo định hướng và mục tiêu phát triển
chung của ngành trong mỗi thời kỳ.
Từ những phân tích trên đây tác giả cho rằng, phát triển nguồn nhân
lực trong hệ thống báo chí CAND Việt Nam là đẩy mạnh quá trình sử dụng
tổng hợp các cơ chế, chính sách, biện pháp, cách thức nhằm phát hiện, thu
hút, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý cả về cơ cấu, số lượng
và chất lượng của đội ngũ những người làm báo có phẩm chất chính trị, bản
lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có tri thức rộng, kỹ năng nghiệp vụ báo chí tốt,

nắm vững pháp luật và nghiệp vụ công an, nhằm phát huy hiệu quả cao nhất
để các đơn vị báo chí CAND hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trên mặt trận
văn hóa - tư tưởng.
1.2.2. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an Nhân dân


Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân có những vai trò
chủ yếu sau:
Một là, bảo đảm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công nhân
viên, biên tập viên, phóng viên. Phát triển nhân lực báo chí Công an nhân dân
không chỉ nhằm làm tăng năng lực thực thi nhiệm vụ của các báo và từng cán
bộ công nhân viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của các báo, mà còn nhằm bảo
đảm cho sự phát triển hiệu quả ngày càng mạnh mẽ của các báo cả về số
lượng và chất lượng. Phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND đóng góp
không nhỏ cho công tác xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh.
Trên thực tế, báo chí là một kênh thông tin, kênh kết nối giữa lực lượng công
an với nhân dân và từ báo chí công tác xây dựng lực lượng công an có thêm
nguồn đánh giá, kiểm chứng. Người dân có thêm thiện cảm, gần gũi với lực
lượng công an, giúp đỡ lực lượng công an thực thi nhiệm vụ, cũng là nhờ có
phần đóng góp của báo chí CAND. Đặc biệt, phát triển nguồn nhân lực báo
chí CAND còn giúp củng cố công tác bảo vệ nội bộ; bởi, nếu mặt trận văn
hóa- tư tưởng có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức công an sắc bén
nghiệp vụ, thì có thể đấu tranh phòng ngừa tốt trước hiện tượng một số cán
bộ trong lực lượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” hoặc thoái hóa, biến chất từ
tư tưởng đến hành động.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân đáp ứng
yêu cầu, nội dung chính quy hóa, chuẩn hóa đội ngũ trong lực lượng CAND.
Thực tiễn hoạt động của hệ thống báo chí Công an nhân dân cho thấy, trước
nhiệm vụ nặng nề của sự nghiệp báo chí cách mạng hiện nay, đòi hỏi đội ngũ

người làm báo cách mạng không chỉ phải không ngừng được trau dồi về phẩm
chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc,
mà còn cần được tạo môi trường điều kiện làm việc thuận lợi, được quan tâm
chăm lo và tạo điều kiện được học tập nâng cao trình độ mọi mặt; có cơ cấu,
qui mô hợp lý.
Đặc biệt hiện nay đặc điểm, tính chất, quy mô của các cuộc chiến tranh
tư tưởng, chiến tranh tâm lý, chiến tranh công nghệ giữa bối cảnh tình hình


thế giới phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch có khả năng sử dụng các hệ
thống truyền thông đa phương tiện hỗ trợ các cuộc chiến tranh tư tưởng, chiến
tranh tâm lý, chiến tranh công nghệ. Chúng ta cần chuẩn bị phương án trong
tương lai (nếu xảy ra, phòng ngừa thế nào) đối với hệ thống báo chí CAND
nói riêng và báo chí cách mạng nói chung. Ví dụ: Điển hình trên thế giới như
cách mạng nhung, cách mạng màu với sự can dự của các thế lực bên ngoài
khi sử dụng mạng xã hội, đè bẹp các phương tiện báo chí truyền thống trong
nước ở Gruzia, Ai Cập…Do vậy, phát triển nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản
để phát triển kinh tế báo chí trong CAND góp phần hiện đại hóa và nâng cao
tiềm lực hậu cần - kỹ thuật của lực lượng CAND.
1.2.3. Nội dung phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí
Công an Nhân dân
* Phát triển về qui mô hoàn thiện về cơ cấu nguồn nhân lực
Quy mô nguồn nhân lực, nhân tố phản ánh số lượng nguồn nhân lực
hiện có tại một thời điểm nhất định, là toàn bộ những người cụ thể tham gia
vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố vật chất và tinh thần được đưa
vào lao động
Để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phản ánh tình hình đất nước và
hoạt động của lực lượng CAND. Với đặc thù của mình, việc phát triển quy
mô nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân bên cạnh việc
tăng qui mô phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của ngành CAND đã được

Đảng và và nhà nước giao nhiệm vụ, việc tăng qui mô đặc biệt chú trọng tới
việc tăng số lượng nhân sự theo hai hướng: hướng thứ nhất là nhân sự có
bằng cấp chuyên ngành phù hợp với công tác báo chí và được đào tạo về công
an, hướng thứ hai là tăng số lượng công an chuyên nghiệp được đào tạo bổ
sung nghiệp vụ báo chí
Cơ cấu nguồn nhân lực có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau theo
trình độ chuyên môn, theo phòng ban, theo giới tính nam nữ, trực tiếp ; gián
tiếp; theo nhóm tuổi.


Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân còn được cơ
cấu theo biên chế CAND. Trong đó, bao gồm: cán bộ trong biên chế CAND
(sĩ quan, hạ sĩ quan) và cán bộ viên chức ngoài biên chế công an làm việc
theo chế độ hợp đồng lao động (3 tháng, 6 tháng, 1 năm và không xác định
thời hạn). Cán bộ ngoài biên chế thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tổng số
cán bộ. Cán bộ trong biên chế thì được xét xếp vào bộ máy khung của các cơ
quan báo chí công an, trong đội ngũ các cấp chỉ huy, tham mưu… Các cơ
quan báo chí cũng có thể cơ cấu theo đặc thù chuyên môn bộ phận nghiệp vụ,
như: Ban biên tập, thư ký tòa soạn, biên tập viên, họa sỹ, cán bộ kinh doanhquảng cáo, cán bộ phát hành… trong hệ thống nhân lực báo chí CAND.
* Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên nhiều mặt nguồn nhân
lực như phẩm chất chính trị, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức lối sống, thể lực,
kinh nghiệm công tác.v.v. Theo đó, phát triển về chất lượng nguồn nhân lực
gồm các mặt cơ bản sau:
Một là, phát triển trình độ chuyên môn nghiệp vụ nguồn nhân lực.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là kiến thức tổng hợp, kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ kỹ thuật, kiến thức đặc thù cần thiết để đảm đương các chức vụ
trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động khác, là phát triển nâng cao kiến
thức về kỹ thuật, kinh tế, xã hội . Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn
nhân lực có được chủ yếu thông qua đào tạo

Các chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo: Là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số
lao động đang làm việc
∑ L đào tạo
T đào tạo =

x 100
∑ L làm việc


Trong đó:
T đào tạo: là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang
làm việc;
L đào tạo: là số lao động đã qua đào tạo đang làm việc
L làm việc: là số lao động đang làm việc
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ chuyên môn của lực lượng lao
động mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hoặc theo đặc thù ngành, ở đây là hệ
thống báo chí CAND.
Mô hình đào tạo báo chí ở Việt Nam đáp ứng được phần lớn nguồn
nhân lực cho hệ thống báo chí Cách mạng Việt Nam loại trừ nguồn nhân lực
cho hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Hiện tại, nguồn nhân lực cho hệ
thống báo chi Công an Nhân dân chưa được đào tạo đầy đủ ngay trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cần thiết mà còn cần phải đào tạo bổ sung để đáp ứng.
Vì vậy, hệ thống Báo chí CAND cần 2 lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ được
chú trọng đào tạo và tổ chức có qui mô là: đào tạo bổ sung nghiệp vụ công an
và đào tạo bổ sung nghiệp vụ báo chí.
Hai là, phát triển kỹ năng nguồn nhân lực. Có hai loại kỹ năng: Kỹ
năng cứng và kỹ năng mềm. Kỹ năng cứng là kỹ năng có được do người lao
động được đào tạo tại nhà trường hoặc tự tìm tòi nghiên cứu, đây là kỹ năng
có tính nền tảng qua một quá trình đúc rút. Kỹ năng mềm là kỹ năng người

lao động có được thông qua thực tế trong nghề nghiệp và trong cuộc sống
hàng ngày.
Kỹ năng cứng tạo nền tảng, kỹ năng mềm tạo sự phát triển. Để thành
công trong lao động và cuộc sống thì người lao động cần phải vận dụng linh
hoạt hai loại kỹ năng này. Hệ thống báo chí CAND chú trọng tuyển dụng
người đã có kỹ năng cứng, phát triển được tư duy phân tích, lý luận về báo
chí. Kỹ năng mềm có thể được bồi dưỡng thêm trong thực tiễn công tác tại
các tòa soạn báo.
Ba là, nâng cao trình độ nhận thức nguồn nhân lực. Nhận thức là sự phản
ánh trình độ khách quan vào trong bộ óc của con người, sự phản ánh đó không
phải là hành động nhất thời , máy móc mà đó là cả một quá trình của hoạt động


trí tuệ. Trình độ nhận thức của người lao động là trình độ phản ánh mức độ hiểu
biết về chính trị, xã hội và tính tự giác trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lực lượng báo chí Công an Nhân dân phải ý thức được nhiệm vụ và
giữ vững bản lĩnh của mình trong việc góp phần tăng cường ổn định chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội, tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống các luận
điệu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hoặc sự dao
động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính nội bộ. Bên cạnh đó, nguồn
nhân lực còn cần nâng cao nhận thức về chính trị, luật pháp, ý thức trách
nhiệm xã hội để đáp ứng được đặc thù công việc.
Đặc biệt, đối với mỗi một cán bộ, công nhân viên chức công tác trong
hệ thống báo chí CAND thì có 2 nội dung cần hết sức chú trọng là phẩm chất
chính trị và đạo đức nghề nghiệp. Đã công tác trong cơ quan, đơn vị có đặc
thù vũ trang thì phẩm chất chính trị là đặc biệt quan trọng. Nếu không rèn
luyện và thường xuyên tu dưỡng thì không thể đứng vững trên mặt trận văn
hóa - tư tưởng. Thực tiễn nghề báo có muôn vàn những cám dỗ và muôn vàn
những tác động khách quan cũng như chủ quan khiến nhà báo có thể bị “che
mắt”, không thể hiện hết bản chất vấn đề, không đi được đến cùng của sự

việc, hiện tượng. Bởi vậy, Hội Nhà báo Việt Nam đề ra những nội dung về
đạo đức nghề nghiệp cần tuân thủ. Cùng với việc rèn luyện phẩm chất chính
trị thì việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp là 2 nội dung song hành cần đặc biệt
quan tâm trang bị cho nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng công tác đánh giá,
bố trí, sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm nhân lực. Quản lý nguồn nhân lực nói
chung và công tác XDLL trong CAND nói riêng là một hoạt động quản lý bao
gồm nhiều nội dung: đánh giá cán bộ, tổ chức thực hiện các chế độ, chính
sách của Nhà nước, của ngành; bố trí, phân công điều động, thuyên chuyển
công tác; đánh giá khen thưởng, kỷ luật cán bộ…v.v… Và, mỗi nội dung có
một vị trí nhất định và có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong đó đánh giá là
khâu đầu tiên, là cơ sở để tiến hành các khâu tiếp sau. Đánh giá cán bộ là việc
làm khó, rất nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến tất cả các khâu khác. Đánh giá


×