Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Đối tượng chứng minh, nghĩa vụ chứng minh và quá trình chứng minh, so sánh giữa BLTTHS 2003 với BLTTHS 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.74 KB, 51 trang )

Đối tượng chứng minh, nghĩa vụ chứng minh
và quá trình chứng minh, so sánh giữa
BLTTHS 2003 với BLTTHS 2015

Nhóm 3: Danh sách nhóm:
ST
T
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Họ và tên

MSSV

Mai Thanh Sơn (nhóm trưởng)
Lê Thanh Long
Đào Mỹ Linh
Nguyễn Minh Điều
Phạm Thúy Quỳnh
Vũ Cao Ngọc Linh
Trần Trung Hiếu
Hoàng Thị Chinh


Dương Trọng Khang
Trần Trọng Hải
Võ Thu Hiền

15061504
15067014
15062083
15061030
15060167
15067013
15060598
15061120
15062150
15030135
15060133

MỤC LỤ

1


I. Đối tượng chứng minh......................................................................................6
1. Khái niệm chứng minh...................................................................................6
2. Đối tượng chứng minh...................................................................................6
2.1. Khái niệm đối tượng..................................................................................6
2.2. Đặc điểm đối tượng...................................................................................7
2.3. Nội dung của đối tượng chứng minh.........................................................8
2.4. Phân loại đối tượng.................................................................................10
II.


Nghĩa vụ chứng minh...................................................................................10

III. Quá trình chứng minh.................................................................................13
1. Khái niệm quá trình chứng minh.................................................................13
2. Ý nghĩa của quá trình chứng minh..............................................................15
3. Nội dung quá trình chứng minh..................................................................16
3.1

Chứng cứ..................................................................................................16

3.1.1. Khái niệm chứng cứ.............................................................................16
3.1.2. Thuộc tính của chứng cứ......................................................................17
3.1.3. Phân loại chứng cứ...............................................................................18
3.1.4. Nguồn chứng cứ...................................................................................20
3.1.4.1. Vật chứng.......................................................................................21
3.1.4.2. Lời khai, lời trình bày....................................................................24
3.1.4.3. Dữ liệu điện tử...............................................................................25
3.1.4.4. Kết luận giám định, định giá tài sản..............................................26
3.1.4.5. Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án
28
3.1.4.6. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác...........28
3.1.4.7. Các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án..............................................29
3.2. Các bước trong quá trình chứng minh.......................................................29
3.2.1.Phát hiện thu thập chứng cứ..................................................................29
3.2.1.1.Khái niệm thu thập chứng cứ..........................................................29
2


3.2.1.2.Thẩm quyền thu thập chứng cứ.......................................................30

3.2.1.3.Trình tự thủ tục và các biện pháp thu thập chứng cứ......................32
3.2.1.4. Củng cố chứng cứ..........................................................................34
3.2.2.Kiểm tra, đánh giá chứng cư.................................................................37
3.2.2.1.Lý luận chung về kiểm tra, đánh giá chứng cứ...............................37
3.2.2.2.Kiểm tra chứng cứ...........................................................................40
3.2.2.3. Đánh giá chứng cứ.........................................................................43

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình điều tra truy tố xét xử vụ án hình sự, các cơ quan kiểm sát
và Tòa án luôn phải chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, ai là
người thực hiện hành vi phạm tội, lỗi cố ý hay vô ý, mục đích và động cơ phạm tội,
tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra để xác định tính đúng đắn
của vụ án.Tuy nhiên quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là vấn đề vô cùng
phức tạp. Bởi lẽ, nó vừa mang tính lí luận, tính thực tiễn và đồng thời mang tính
quyết định về xác định sự thật của vụ án hình sự. Bên cạnh đó, việc xác định được
đối tượng chứng minh cũng như trách nhiệm chứng minh cũng sẽ giúp giải quyết
vụ án hình sự một cách khách quan và nhanh chóng.
Việc nhận thức đúng và đầy đủ lý luận về đối tượng chứng minh, trách
nhiệm chứng minh cũng như hoạt động chứng minh sẽ đảm bảo cho hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sẽ được
3


khách quan, chính xác không để lọt tội phạm, không làm oan sai cho những người
vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật tố tụng hình sự trên thế giới
đều quy định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề chứng minh trong tố tụng hình sự Việt
Nam hiện nay là một nội dung quan trọng có ý nghĩa lớn về cả mặt khoa học và
thực tiễn làm cho hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm hình sự đạt hiệu quả
cao giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng làm rõ được

sự khách quan của vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đáp ứng nhu cầu trong
hoạt động thực tiễn.
Dưới đây là bài nghiên cứu về đề tài: “Đối tượng chứng minh, nghĩa vụ
chứng minh và quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, so sánh giữa Bộ luật
TTHS 2003 và Bộ luật TTHS 2015”. Bài nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu
sót rất mong cô và các bạn có thể nhận xét, đánh giá và bổ sung để hoàn thiện kiến
thức cũng như giúp đỡ nhóm hoàn thành đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!!!

I.

Đối tượng chứng minh
1. Khái niệm chứng minh
Xét theo góc độ ý nghĩa của từ ngữ, chứng minh được hiểu là hoạt động của

tư duy, là một hình thức suy luận để khẳng định tính chân lý của một luận điểm nào
đó, bằng cách dựa vào những luận điểm mà tính chân lý đã được thực tiễn xác
nhận.

4


Trong cả hai bộ luật tố tụng hình sự 2003, bộ luật tố tụng hình sự 2015 và
các văn bản pháp luật khác đều chưa có sự quy định cụ thể, chính thức khái niệm
chứng minh. Tuy nhiên, trong bất kì hoàn cảnh nào, chứng minh có thể có những
nét khác nhau nhưng nhìn chung nó vẫn mang bản chất đặc trưng là hoạt động của
tư duy dùng suy luận logic để làm sáng tỏ tính chân lý, đúng đắn, khách quan của
vấn đề.
Ta có thể hiểu rằng, chứng minh trong tố tụng hình sự là một quá trình gồm
nhiều bước, sử dụng nhiều phương tiện đặc thù nhằm thu thập những dấu vết của

tội phạm và những thông tin có liên quan để làm rõ và khôi phục lại toàn bộ sự thật
khách quan của vụ án và làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan đến vụ án.
2. Đối tượng chứng minh
2.1. Khái niệm đối tượng
Trong một vụ án hình sự, đối tượng chứng minh được xác định là cơ sở của
trách nhiệm hình sự. Là tất cả các tình tiết phải được xác định đảm bảo cho việc
giải quyết đúng đắn khách quan VAHS
"Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những vấn đề chưa biết
nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan
THTT ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án."
Tuy nhiên theo một số học giả thì đối tượng chứng minh trong các vụ án
hình sự phải là tổng hợp tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết mà
những vấn đề này được luật TTHS quy định các cơ quan THTT phải làm rõ để xác
định bản chất của vụ án và những nội dung khác có liên quan đến vụ án, trên cơ sở
đó các cơ quan THTT ra các quyết định phù hợp với quy định của luật hình sự, luật
TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng ngừa
tội phạm.
5


Theo như khái niệm trên, học giả cho rằng trong quá trình các cơ quan
THTT, người THTT chứng minh làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội cũng như
các vấn đề cần chứng minh khác thì đã không chỉ góp phần giải quyết đúng đắn vụ
án mà còn phục vụ chủ yếu cho công tác phòng ngừa tội phạm. Do vậy mà những
vấn đề liên quan đến vụ án và phục vụ cho việc đề ra các biện pháp đấu tranh
phòng chống tội phạm được coi là một phần của đối tượng chứng minh.
2.2. Đặc điểm đối tượng
- Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những sự kiện và tình
tiết khác nhau, mà mỗi sự kiện, tình tiết nói riêng và tổng thể của chúng nói chung,
đều phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ một cách khách 10 quan đầy đủ toàn diện

và chính xác
- Nội dung chủ yếu của đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự trước hết
là cấu thành tội phạm. Chính cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong luật
hình sự xác định ranh giới những sự kiện, tình tiết chủ yếu phải chứng minh của vụ
án hình sự
- Do tính chất, mức độ, hoàn cảnh của các tội phạm không giống nhau nên ở
mỗi vụ án có những phạm vi, yêu cầu khác nhau, ở vụ án này thì tình tiết, vấn đề
này cần chứng minh nhưng cũng tình tiết, vấn đề đó nhưng trong vụ án khác thì lại
không cần thiết phải chứng minh.
2.3. Nội dung của đối tượng chứng minh
- BLTTHS đã quy định những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình
sự.
- Trong BLTTHS 2003 quy định tại Điều 63 Chương V: Chứng cứ gồm 4
vấn đề:
Điều 63. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự

6


Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Toà án phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý
hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ
phạm tội;
3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Đến BLTTHS 2015, cùng với sự thay đổi tên và thứ tự của chương này

thành: Chương VI: Chứng minh và chứng cứ, thì các nhà làm luật đã bổ sung thêm
2 vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự:
Điều 85. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý
hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ
phạm tội;
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
7


6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
- Việc thêm từ " chứng minh" vào trong tên chương đã góp phần đề cao và
khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động chứng minh. Hai vấn đề nguyên nhân
và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt được đưa vào trên cơ sở yêu cầu
từ thực tế. Thứ nhất là chứng minh nguyên nhân và điều kiện phạm tội nhằm xác
định đúng tội, đưa ra bản án phù hợp, lựa chọn biện pháp cải tạo hợp lý từ đó có
thể có những hiểu biết rõ hơn về tội phạm cùng cơ chế của nó, trên cơ sở đó đề ra
các biện pháp phòng chống tội phạm ,giúp giải hạn chế tiến dấn đến giải quyết triệt
để điều kiện phát sinh tội phạm, loại bỏ tội phạm ra khỏi xã hội. Thứ hai là cần
chứng minh những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt để tránh việc người phạm tội dùng mọi

thủ đoạn, cách thức tạo ra những bằng chứng giả, ngụy tạo để trốn tránh việc bị
truy cứu trách nhiệm trước pháp luật hay trốn tránh hình phạt đã được đưa ra. So
với BLTTHS 2003 thì đây là một điểm mới đáng ghi nhận của BLTTHS 2015.
- Đối với vụ án do người chưa thành niên thực hiện, do đặc điểm tâm sinh
lý, sự phát triển thể chất và tinh thần của người chưa thành niên nên trong vụ án
hình sự, ngoài những vấn đề cần phải chứng minh nêu trên còn cần phải chứng
minh các vấn đề sau:
a. Tuổi, trình độ phát triển thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của người chưa thành niên.
b. Điều kiện sinh sống và giáo dục của người chưa thành niên.
c. Khi thực hiện tội phạm có hay không có người thành niên xúi giục.
d. Những nguyên nhân và điều kiện dẫ đến việc người chưa thành niên phạm
tội.
2.4.

Phân loại đối tượng
8


+ Những vấn đề chứng minh thuộc về bản chất vụ án: có hay không có tội
phạm xảy ra, người thực hiện hành vi phạm tội, cấu thành tội phạm.
+ Những vấn đề chứng minh ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự và hình
phạt: tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm
nhẹ, đặc điểm nhân thân…
+ Những vấn đề chứng minh là những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc
giải quyết đúng đắn vụ án: các căn cứ để giải quyết việc bồi thường thiệt hại, mối
quan hệ giữa những người tham gia tố tụng…
II.

Nghĩa vụ chứng minh

Tại Điều 10 của Bộ luật TTHS quy định về nguyên tắc xác định sự thật của

vụ án như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành
tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội”.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và
chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của người bị buộc tội.
Theo đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự hiện hành bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Cụ thể, cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa
án.
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm: Các
cơ quan của Bộ đội biên phòng, các cơ quan của Hải quan; các cơ quan của Kiểm
9


lâm, các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan của Kiểm ngư, các cơ
quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra.
Việc quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng là hoàn toàn hợp lý bởi theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì
người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là thừa nhận người bị buộc tội không
có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình.

Ngược lại, để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu,
áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị
Luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện
tội phạm thì không thể kết tội người đó. Trên thực tế, có thể một người đã thực
hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không chứng minh
được người đó đã thực hiện hành vi được Luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối
với người đó. Chứng minh tội phạm là một quá trình. Qúa trình đó diễn ra ở cả giai
đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội phạm không
chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về cả Tòa án.
Quy định này đã đồng nhất vai trò, chức năng xét xử của Tòa án với chức
năng buộc tội của VKS khiến cho Tòa án không còn là 1 cơ quan “trọng tài” đứng
giữa bên buộc tội (VKS) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa) để đưa ra những
phán quyết khách quan về vụ án nữa. Bởi vì quy định như nội dung của Điều 10
LTTHS thì Tòa án cũng là 1 cơ quan tiến hành tố tụng cùng với VKS và Cơ quan
10


điều tra “rõ ràng khi được giao nhiệm vụ là phải hoàn thành nhiệm vụ được giao,
tức là chứng minh được tội phạm”. Trong khi các cơ quan tiến hành tố tụng trước
khi vụ án được đưa ra xét xử là Cơ quan điều tra và VKS đã hoàn thành hồ sơ theo
hướng buộc tội đối với bị cáo thì tại phiên tòa. HĐXX cụ thể là Thẩm phán- chủ
tọa phiên tòa lại tích cực đóng vai trò xét hỏi để chứng minh theo định kiến có tội
đối với bị cáo, điều này không đúng với bản chất của Tòa án là 1 cơ quan tư pháp,
cơ quan xét xử mà suy rộng ra là không đúng bản chất với 1 nhà nước pháp quyền
XHCN. Theo chúng tôi để thực hiện được triệt để nguyên tắc tranh tụng như tinh
thần cải cách tư pháp đặt ra, trước hết cần sửa đổi quy định của BLTTHS về trách
nhiệm chứng minh tội phạm theo hướng giao nghĩa vụ chứng minh tội phạm cho
bên buộc tội (Cơ quan điều tra, viện kiểm sát) còn Tòa án là cơ quan xét xử, là vị

trọng tài vô tư khách quan đứng giữa lắng nghe ý kiến, lập luận của các bên tham
gia phiên tòa để đưa ra phán quyết 1 cách công bằng.
Người bị tình nghi (bị bắt giữ trước khi khởi tố bị can), bị can, bị cáo có
quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Điều này có
nghĩa, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ để chứng minh
mình không phạm tội. Ví dụ, chứng minh mình vô tội bằng việc đưa ra chứng cứ
về thời gian xảy ra vụ việc mình không có ở đó và không thể thực hiện hành vi
phạm tội hoặc đưa ra chứng cứ, chứng minh có người khác,chứ không phải mình
đã thực hiện tội phạm…
Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể nhưng đã
mặc nhiên thừa nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bởi lẽ, theo các quy định của pháp luật hình sự, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng không phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo quy định tại Điều 308 của BLHS
và cũng không bị coi là có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại
11


Điều 48 của BLHS. Trong trường hợp bị can, bị cáo thành khẩn khai báo thì lại bị
coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thậm chí trong giai đoạn điều tra họ
không khai báo hoặc khai báo gian dối nhưng tại phiên tòa lại thành khẩn khai báo
thì họ vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai
báo” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp bị cáo khai
báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khai báo gian
dối theo quy định tại tại Điều 307 của BLHS.
III.

Quá trình chứng minh
1. Khái niệm quá trình chứng minh
Trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Ngọc về "Quá trình chứng minh


trong tố tụng hình sự" có đưa ra khái niệm về quá trình chứng minh trong tố tụng
hình sự như sau:
"Quá trình chứng minh vụ án hình sự là hệ thống các hành vi tố tụng hình
sự do các chủ thể tiến hành theo trình tự thực hiện được Bộ luật tố tụng hình sự
quy định nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, qua đó làm rõ sự thật khách
quan của vụ án hình sự, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa"
Xuất phát từ những quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến
kết tội, buộc tội một người phải có căn cứ. Điều 72 Hiến pháp 1992 quy định:
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Thừa kế quy định của Hiến pháp 1992, Điều
31 Hiến pháp 2013 quy định: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, một người bị buộc tội thì tội của họ
phải được chứng minh theo trình tự luật định.
12


Căn cứ vào Bộ luật hình sự quy định cơ sở trách nhiệm hình sự: Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự. Ngoài ra Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Khi phát hiện có dấu
hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các
biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm
tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này
quy định. Như vậy, để truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như để đưa ra xét
xử đối với một người thì cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Điều này làm xuất hiện quá trình chứng minh về tội phạm và người phạm tội
bằng những chứng cứ đã thu thập được trên cơ sở đã được kiểm tra, đánh giá

chứng cứ. Cho nên, quá trình chứng minh thực chất là quá trình thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo đối tượng chứng minh bằng việc so sánh, đối
chiếu những chứng cứ đã thu thập được với những vấn đề cần phải chứng
minh trong vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, các cơ quan tiến hành tố tụng mới sử
dụng chứng cứ để khởi tố, để tiếp tục các bước điều tra, để truy tố và để xét
xử vụ án hình sự.
2. Ý nghĩa của quá trình chứng minh
Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự chiếm một vị trí rất quan
trọng trong việc chứng minh vụ án hình sự . Đây là quá triǹ h xây dựng hồ sơ
vụ án, tái diễn lại hành vi phạm tội của tội phạm đã thực hiện trước đó , nhằ m

13


làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án . Để từ đó các cơ quan tiế n hành tố
tụng có một cách nhìn khách quan , toàn diện nhằm xử lý công minh, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, qua đó áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội, bảo đảm tính cưỡng chế và thể hiện tính giáo dục của Nhà
nước. Trong đó, trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án là
phải áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật đã quy định để làm sáng tỏ các tình
tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, làm sáng tỏ các yếu tố buộc tội
cũng như gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đảm
bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam. Muốn thực hiện được
điều đó thì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm phải tiếp
cận với hiện thực khách quan của vụ án, để làm sáng tỏ chân lý của vụ án
trong quá trình chứng minh VAHS. Thực hiện được quy định đó cho phép Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giải quyết đúng đắn vụ án, và sẽ tác
động đến kẻ phạm tội và những người khác về sự công minh của pháp luật.
Mặt khác, quá trình chứng minh mang môt ý nghiã hết sức to lớn trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự , góp phần vào việc đấu tranh phòng, chống tội

phạm, thực hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Và ý nghĩa của quá
trình chứng minh trong tố tụng hình sự là để phát hiện tội phạm, người phạm tội
nhằm trừng trị, cải tạo giáo dục người phạm tội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, của các tổ chức và mọi công dân, đảm bảo việc điều tra, truy
14


tố , xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, của các cơ quan tiến hành
tố tụng phải đảm bảo công bằng xã hội, chống oan, sai, chống để lọt tội phạm, cho
nên pháp luật TTHS đã qui định chặt chẽ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự, mọi hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Tòa án đều phải dựa trên những quy định của pháp luật.
3. Nội dung quá trình chứng minh
3.1 Chứng cứ
3.1.1. Khái niệm chứng cứ
Điều 86 BLTTHS 2015 quy định “Chứng cứ là những gì có thật, được thu
thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác
định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những
tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Như vậy có thể thấy các
thuộc tính của chứng cứ bao gồm: tính khách quan (có thật), hợp pháp và liên quan
đến vụ án đều vẫn là những nội hàm chính trong khái niệm chứng cứ như trong
BLTTHS 2003. Tuy nhiên trong khái niệm chứng cứ có nội dung mới quan trọng,
có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, đó chính là “chủ
thể” sử dụng chứng cứ.
Tại Điều 64 BLTTHS 2003 quy định rõ chủ thể sử dụng chứng cứ là Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án (các cơ quan tiến hành tố tụng), như vậy
BLTTHS 2015 đã không quy định “chủ thể” sử dụng chứng cứ trong khái niệm về
chứng cứ, đó chính là quy định “mở”, tiến bộ trong tố tụng hình sự, tạo điều kiện
cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội, người bào chữa, bị
hại... có thể tham gia vào quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự. Điều này

được quy định rõ hơn trong việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tố giác,
bị kiến nghị khởi tố; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt; người
bị tạm giữ; bị can; bị cáo; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người bào chữa đều
15


có quyền “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Đồng thời bổ sung thêm
quyền và nghĩa vụ cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị hại, đương sự có quyền “kiểm tra, đánh giá chứng cứ”.
3.1.2. Thuộc tính của chứng cứ
a) Tính khách quan
Tài liệu là chứng cứ dùng để chứng minh tội phạm phải có thật và tồn tại
khách quan độc lập với ý thức của con người. Những sự vật, hiện tượng chứa đựng
dấu vết của tội phạm luôn tồn tại khách quan có thể được lưu trữ ở dạng vật chất
hoặc được ghi nhận trong trí nhớ của con người. Vì thế, chứng cứ mang tính khách
quan, phản ánh sự nhận thức chủ quan của thế giới khách quan.
Theo định nghĩa” chứng cứ là những gì có thật…”, đó là những sự vât, hiện
tượng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người, không phải do suy
đoán, tưởng tượng.
b) Tính liên quan
Những sự vật, hiện tượng có thật, tồn tại khách quan chỉ được coi là chứng
cứ khi có liên quan đến vụ án, khi nó chứng minh cho vấn đề cần biết nhưng chưa
biết trong vụ án hình sự.
Những điều cần biết trong vụ án hình sự còn gọi là đối tượng chứng minh
của vụ án, gồm: sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những vấn đề khách có liên quan đến vụ án.
Tài liệu nào chứng minh cho một số vấn đề cần phải chứng minh đó của vụ án thì
được coi là chứng cứ. Như vậy, tính liên quan của chứng cứ thể hiện mối liên hệ

khách quan, cơ bản của chứng cứ với vấn đề cần phải chứng minh. Nói cách khác,
16


đó là mối quan hệ giữa sự kiện dùng làm căn cứ chứng minh với đối tượng chứng
minh.
c) Tính hợp pháp
Tính hợp pháp thể hiện ở việc tài liệu được chứa đựng ở những nguồn và thu
thập bằng biện pháp do Luật TTHS quy định, phản ánh sự nhận thức chủ quan đối
với các quy luật khách quan của các sự vật, hiện tượng.
Các thuộc tính của chứng cứ có mối liên hệ gắn bó hữu cơ với nhau trong
thể thống nhất, thiếu một trong các thuộc tính đó tài liệu sẽ không được coi là
chứng cứ dùng để chứng minh tội phạm.
3.1.3. Phân loại chứng cứ
a) Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp
Chứng cứ trực tiếp là chứng cứ chứng minh những vấn đề bản chất vụ án,
làm sáng tỏ về sự việc phạm tội, con người phạm tội và những đối tượng chứng
minh khách quy định tại điều 85, BLTTHS 2015. Chứng cứ trực tiếp là cơ sở để
các cơ quan THTT có thể khẳng định có hay không có sự việc phạm tội,…
 Có ý nghĩa hết sức quan trọng, dựa vào đó có thể nắm bắt được bản chất
vụ án.
Chứng cứ gián tiếp là chứng cứ chứng minh cho các sự việc dùng làm căn
cứ chứng minh và các vấn đề khác có liên quan trong quá trình giải quyết trong vụ
án. Chứng cứ gián tiếp không là cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề thuộc về bản chất
vụ án, không trực tiếp chứng minh sự việc phạm tội và ngườu thực hiện hành vị
phạm tội mà chỉ chứng minh những sự kiện dùng làm chứng cứ chứng minh tội
phạm.
b) Chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại
17



Chứng cứ gốc là chứng cứ được phản ánh từ nguồn trực tiếp không qua khâu
trung gian. Những sự kiện thực tế khách quan của vụ án được ghi nhận, phản ánh ở
những nguồn mang tính vật chất hoặc phi vật chất và cơ quan THTT thu nhận các
thông tin từ những nguồn này không qua khâu trung gian
 Có độ tin cậy cao, vì được phản ánh từ nguồn trực tiếp, nên khi thu thập
cần chú ý đến loại chứng cứ này. Tuy có độ tin cậy cao nhưng chứng cứ gốc không
đồng nhất với chứng cứ trực tiếp hoặc chứng cứ gián tiếp.
Chứng cứ sao lại, thuật lại là chứng cứ không được phản ánh từ nguồn trực
tiếp mà phải qua khâu trung gian. Cần phân biệt chứng cứ sao lại, thuật lại với việc
sao chụp theo nghĩa cơ học, kỹ thuật.
 Có độ tin cậy thấp hơn so với chứng cứ gốc.
c) Chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội
Chứng cứ buộc tội là chứng cứ chứng minh về hành vi phạm tội của bị can,
bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với họ.
Chứng cứ gỡ tội là chứng cứ xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành
vi của bị can, bị cáo không cấu thành tội phạm cũng như những tình tiết giảm trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
3.1.4. Nguồn chứng cứ
Theo điều 87, BLTTHS 2015:
“1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a) Vật chứng;
b) Lời khai, lời trình bày;

18


c) Dữ liệu điện tử;
d) Kết luận giám định, định giá tài sản;
đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;

e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
g) Các tài liệu, đồ vật khác.
2. Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để
giải quyết vụ án hình sự.”
Theo điều 64, BLTTHS 2003 quy định:
“2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.”
3.1.4.1. Vật chứng
Vật chứng là những vật thể tồn tại ngoài thế giới khách quan có chứa đựng
dấu vết của tội phạm được các cơ quan THTT thu thập dùng làm căn cứ để chứng
minh tội phạm. “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội,
vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá

19


trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết
vụ án.” ( điều 89, BLTTHS 2015).
a) Bảo quản vật chứng
Theo điều 90, BLTTHS 2015:
“Điều 90. Bảo quản vật chứng
Vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn, hư
hỏng. Việc bảo quản vật chứng được thực hiện như sau:
- Vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập.

Việc niêm phong, mở niêm phong được lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
Việc niêm phong, mở niêm phong vật chứng được thực hiện theo quy định
của Chính phủ;

- Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy,
chất độc, chất phóng xạ, vũ khí quân dụng phải được giám định ngay sau khi
thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại Kho bạc Nhà nước hoặc cơ
quan chuyên trách khác. Nếu vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá
quý, đồ cổ lưu dấu vết của tội phạm thì tiến hành niêm phong theo quy định
tại điểm a khoản này; vật chứng là vi khuẩn nguy hại, bộ phận cơ thể người,
mẫu mô, mẫu máu và các mẫu vật khác của cơ thể người được bảo quản tại
cơ quan chuyên trách theo quy định của pháp luật;
- Vật chứng không thể đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo
quản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ
sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ
hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;
20


- Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có thẩm
quyền trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của
pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền
tại Kho bạc Nhà nước để quản lý;
- Vật chứng đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ
quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong
giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bảo
quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
b) Xử lý vật chứng
Theo điều 106, BLTTHS 2015:

“1. Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn
điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố;
do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét
xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết
định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.
2. Vật chứng được xử lý như sau:
a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị
tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;
b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân
sách nhà nước;
c) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu
hủy.
21


3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền quy
định tại khoản 1 Điều này có quyền:
a) Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho
chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;
b) Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét
thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án;
c) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo
quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;
d) Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết
luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý
theo quy định của pháp luật.
4. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”
3.1.4.2. Lời khai, lời trình bày

Điều 91. Lời khai của người làm chứng
1. Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết nguồn tin về tội phạm, về vụ án,
nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị
hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra.
2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày
nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 92. Lời khai của bị hại
1. Bị hại trình bày những tình tiết về nguồn tin về tội phạm, vụ án, quan hệ giữa họ
với người bị buộc tội và trả lời những câu hỏi đặt ra.
22


2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do bị hại trình bày nếu họ không
thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 93. Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
1. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày những tình tiết liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra.
2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 94. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày những tình tiết trực
tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 95. Lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố
giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt,
bị tạm giữ
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ trình bày những
tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm.

Điều 96. Lời khai của người tố giác, báo tin về tội phạm
Người tố giác, báo tin về tội phạm trình bày những tình tiết liên quan đến việc
họ tố giác, báo tin về tội phạm.
Điều 97. Lời khai của người chứng kiến
23


Người chứng kiến trình bày những tình tiết mà họ đã chứng kiến trong hoạt
động tố tụng.
Điều 98. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị can, bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án.
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp
với những chứng cứ khác của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc
tội, kết tội.
3.1.4.3. Dữ liệu điện tử
Trong thời kỳ thiết bị số, số hóa trên hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội hiện nay và xu hướng phát triển trong tương lai có thể nói “Dữ liệu điện tử”
là nguồn đa dạng, bao trùm trong các giao dịch thương mại, dịch vụ của đời sống
xã hội. BLTTHS năm 2003 không quy định “Dữ liệu điện tử” là nguồn chứng cứ,
trong khi đó BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 lại có nhiều quy
định về các tội danh mới trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông như tội
truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet (Điều
226a); tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b) (nhóm tội phạm này thường gọi
“Tội phạm công nghệ cao”) nên thực tiễn đã gây khó khăn trong quá trình thu thập,
đánh giá chứng cứ để giải quyết vụ việc
Dữ liệu điện tử được quy định tại Điều 99 BLTTHS 2015:
“1. Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc
dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện

tử.
24


2. Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính,
mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.
3. Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức
khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính
toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù
hợp khác.”
3.1.4.4. Kết luận giám định, định giá tài sản
Điều 100., BLTTHS 2015:
1. Kết luận giám định là văn bản do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức giám
định lập để kết luận chuyên môn về những vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám
định.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân kết luận về vấn đề được trưng cầu, yêu cầu
giám định và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó.
Nếu việc giám định do tập thể giám định tiến hành thì tất cả thành viên đều ký vào
bản kết luận. Trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi ý kiến kết luận của
mình vào bản kết luận.
3. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với
kết luận giám định thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận chưa rõ hoặc chưa đầy đủ thì
quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục chung quy định tại
Bộ luật này.
4. Kết luận giám định của người được trưng cầu giám định thuộc trường hợp
phải từ chối hoặc thay đổi thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn
cứ để giải quyết vụ án.

25



×