Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Các loài thực vật quý hiếm ở VQG Bến En Phần IA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.38 MB, 35 trang )

MỘT SỐ LOÀI
THỰC VẬT QUÝ HIẾM, CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ
Ở VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN

NHÀ XUẤT BẢN THANH HÓA
THANH HÓA – 2016


SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THANH HÓA
VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN

MỘT SỐ LOÀI
THỰC VẬT QUÝ HIẾM, CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ
Ở VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN

NHÀ XUẤT BẢN THANH HÓA
THANH HÓA – 2016
2


CÁC TÁC GIẢ THAM GIA SOẠN THẢO
AUTHORS
HỌ VÀ TÊN
1. Tiến sỹ Trần Ngọc Hải
2. Thạc sỹ Đặng Hữu Nghị
3. Thạc sỹ Lê Đình Phương
4. Thạc sỹ Tống Văn Hoàng
5. Thạc sỹ Nguyễn Quang Sỹ
6. Kỹ sư Lê Văn Dũng
7. Kỹ sư Phạm Văn Hùng


BỘ PHẬN CÔNG TÁC
Trường Đại học Lâm nghiệp
Vườn quốc gia Bến En
Vườn quốc gia Bến En
Vườn quốc gia Bến En
Vườn quốc gia Bến En
Vườn quốc gia Bến En
Vườn quốc gia Bến En

3


LỜI NÓI ĐẦU
Vườn Quốc gia Bến En được thành lập theo Quyết định số 33/CT ngày
27/01/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ),
Vườn có tổng diện tích 14.734,67 ha, nằm trên địa bàn hành chính của hai huyện
Như Thanh và Như Xuân – tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 45km
về phía Tây Nam.
Kết quả điều tra bổ sung danh lục động thực vật năm 2013, VQG Bến En
có 2.974 loài động thực vật. Riêng khu hệ thực vật có 1.417 loài thuộc 6 ngành,
7 lớp, 77 bộ, 191 họ, với 57 loài quý hiếm nằm trong sách đỏ thế giới năm 2013
(IUCN, 2013), 46 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam năm 2007, trong đó có một
số loài ở mức độ cực kỳ nguy cấp và nguy cấp trên phạm vi toàn thế giới như:
Trầm hương, Táu mặt quỷ, Sến mật, Sao hải nam, , Chò nâu, Táu nước, Lim
xanh, Vù hương,…
Để góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, bảo vệ rừng và bảo
tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là bảo tồn, phát triển các loài thực vật quý hiếm, có
giá trị kinh tế. Trong khuôn khổ của dự án “Bảo tồn và phát triển loài Vù hương
(Cinnamomum balansae Lecomte) tại Vườn Quốc gia Bến En, tỉnh Thanh Hoá”,
VQG Bến En đã biên soạn và xuất bản cuốn sách “Một số loài thực vật quý

hiếm, có giá trị kinh tế ở Vườn quốc gia Bến En”, xin trân trọng giới thiệu đến
quý vị độc giả.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn cuốn sách này vẫn còn một số sai
sót nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp của các nhà chuyên môn, đồng
nghiệp và những độc giả quan tâm.
Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc hiểu sâu hơn về đa dạng
thực vật ở Vườn Quốc gia Bến En nhằm góp phần tích cực trong công tác bảo
tồn thiên nhiên và nghiên cứu khoa học ở Vườn Quốc gia Bến En.
Qua đây, chúng tôi xin chân thành cám ơn các tác giả, các đồng nghiệp,
Nhà xuất bản Thanh Hóa, đặc biệt là Tiến sỹ Trần Ngọc Hải đã tham gia viết bài,
đóng góp ý kiến, biên tập và hỗ trợ VQG Bến En phát hành cuốn sách này./.
BAN BIÊN SOẠN

4


PHẦN I
THẢM THỰC VẬT VÀ HỆ THỰC VẬT Ở VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN
I. ĐẶC ĐIỂM THẢM THỰC VẬT Ở VQG BẾN EN
1.1. Hiện trạng các loại rừng
Diện tích từng trạng thái rừng của VQG Bến En được thể hiện tại bảng 01
Bảng 01: Hiện trạng tài nguyên đất và rừng ở VQG Bến En


Hiện trạng rừng

Diện tích (ha)

I


Đất lâm nghiệp

12.033,0

1.1

Đất có rừng

11738,07

IIA

Rừng phục hồi chưa có trữ lượng

IIB

Rừng phục hồi có trữ lượng

IIIA1

Rừng nghèo

3514,03

IIIA2

Rừng trung bình

2079,84


IIIA3

Rừng giàu

G-N

Rừng hỗn giao gỗ và tre nứa

2094,37

N

Rừng tre nứa

1.755,80

RT

Rừng trồng

1.2

Đất không có rừng

IA

Đất trống có cỏ

44,65


IB

Đất trống có cây bụi

96,40

IC

Đất trống có cây gỗ rải rác

II

Đất ngoài lâm nghiệp

NN

Đất sản xuất nông nghiệp

MN

Đất mặt nước

TSC

Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp

TC

Đất thổ cư


24,72

ĐK

Đất khác

19,25

1064,48
790,96

162,42

276,3
294,87

153,82
2.701,67
318,00
2.333,23

Tổng

6,47

14.734,67

Nguồn: Số liệu TNR năm 2011 và kết quả phúc tra: tháng 10 năm 2012
Diện tích đất lâm nghiệp của Vườn quốc gia (VQG) Bến En chiếm tỷ lệ
lớn nhất 81,67% tổng diện tích cả Vườn; tiếp theo là diện tích đất phi nông

nghiệp chiếm 16,18%, trong đó diện tích hồ Sông Mực tới 2.333,23ha; diện tích
đất sản xuất nông nghiệp chiếm 2,16%; diện tích đất thổ cư chiếm một tỉ lệ nhỏ
trong diện tích Vườn (0,17%) tập trung tại 3 xã Xuân Quỳ, Hóa Quỳ và Tân
Bình, phần diện tích này là nơi ở của người dân 9 thôn sống trong vùng lõi của
5


Vườn, điều này gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
đặc dụng.
Trong tổng số 12.033 ha đất lâm nghiệp, diện tích đất có rừng là 11.738,07
ha chiếm 97,5% diện tích đất lâm nghiệp, cụ thể từng loại rừng như sau:
- Rừng giàu: Rừng giàu trong Vườn chỉ có 162,42 ha, chiếm 1,38% tổng
diện tích đất có rừng của Vườn, phần diện tích này tập trung chủ yếu tại khu vực
Sông Chàng và Điện Ngọc. Thực vật chủ yếu là Lim xanh, Săng lẻ, Gội nếp,
Lim xẹt, Vàng anh,…, chiều cao trung bình của rừng đạt 18 -25 m; đường kính
bình quân của cây rừng từ 25-30 cm; cấu trúc rừng ổn định. Đây là loại rừng có
trữ lượng lớn (đạt từ 210-230 m3/ ha), còn nhiều nguồn gen đặc hữu, quý hiếm,
cần được bảo vệ tốt để rừng phát huy vai trò phòng hộ đầu nguồn, bảo tồn đa
dạng sinh học và phục vụ nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái.
- Rừng trung bình: Diện tích là 2.079,84 ha, chiếm 17,7% diện tích đất có
rừng, phân bố trên tất cả các phân khu chức năng của Vườn, với loài ưu thế
như: Lim xanh, Trường mật, Trường sâng, Ngát, Giẻ,...., độ tàn che từ 0,6-0,8;
chiều cao trung bình của rừng đạt 16-18m; đường kính trung bình của cây rừng
từ 20-25 cm; trữ lượng bình quân của rừng từ 110-130 m3/ha.
- Rừng nghèo: Diện tích 3.514,03 ha, chiếm 30% diện tích đất có rừng của
Vườn chiếm tỉ lệ cao nhất trong các loại rừng của Vườn, phân bố ở các phân
khu, trong đó tập trung nhiều nhất tại phân khu phục hồi sinh thái. Độ tàn che từ
0,3-0,4; đường kính trung bình của cây rừng từ 20-24 cm; trữ lượng bình quân
của rừng < 100 m3/ha, các loài cây ưu thế Trâm trắng, Bời lời, Thị rừng, Đa, Thôi
ba, Kháo vàng, Ba soi,…

- Rừng phục hồi: Diện tích 1.855,44 ha, chiếm 15,8% diện tích đất có rừng
trong cả Vườn, tập trung chủ yếu tại phân khu phục hồi sinh thái. Đây là kết quả của
quá trình tái sinh sau canh tác nương rẫy và khai thác kiệt, trong thời gian tới cần có
biện pháp tác động để nhanh quá trình phục hồi của rừng. Thực vật chủ yếu là các
loài cây ưa sáng mọc nhanh như: Võ mãn, Bời lời, Thẩu tấu, Hoắc quang, Chẹo tía,
…, trữ lượng rừng thấp từ 10-50 m3//ha.
- Rừng hỗn giao: Diện tích 2.094,37 ha, chiếm 17,8% diện tích đất có rừng
của Vườn và đứng thứ hai trong các trạng thái rừng. Rừng hỗn giao phân bố ở tất cả
các phân khu, chủ yếu hỗn giao cây Gỗ và Vầu, Sặt, Giang, Nứa; rừng có 2-3 tầng,
độ tàn che từ 0,7-0,8. Tổ thành gồm nhiều loài cây thân gỗ như: Giẻ, Gội, Thị
6


rừng, Máu chó, Ngát, Lim xanh,... tầng dưới có cây họ tre nứa mật độ tương đối
cao từ 2.000-2.500 cây/ha.
- Rừng tre nứa: Diện tích 1.755,80 ha, chiếm 15% tổng diện tích đất có
rừng của Vườn, phân bố ở tất cả các phân khu, loài cây chủ yếu là Vầu, Giang,
Sặt,… Phần lớn diện tích rừng tre nứa là rừng nghèo, cây có đường kính nhỏ
trong rừng có nhiều dây leo bụi rậm, mật độ cây < 2000 cây/ha.
- Rừng trồng: Diện tích 276,3 ha, chiếm 2,4% diện tích rừng của Vườn,
cây trồng chủ yếu là các loài cây bản địa như: Lim xanh, Lát hoa,…
1.2. Các kiểu thảm thực vật.
- Kiểu rừng nhiệt đới thường xanh trên núi đá vôi ít bị tác động
Phân bố: Kiểu rừng này phân bố ở những nơi nguy hiểm, con người khó
tiếp cận, hoặc rất khó vận chuyển sau khai thác. Có thể gặp ở khu vực Thung
Sen, Núi Đàm khu vực Sông Chàng, cổng trời Đức Lương.
Cấu trúc: Thảm thực vật chia làm 4 tầng rõ rệt: Tầng tán chính, thường
cao hơn 15m, các loài chiếm ưu thế là: Song xanh (Actinodaphne obovata), Cà
lồ (Caryodanophsis tonkinensis), Gội nếp (Aglaia spectabilis), Vàng anh
(Saraca dives), Trường mật (Pavieasia anamensis), Cà ổi Bắc bộ (Castanopsis

tonkinensis), Gội (Aglaia silvestris) và Gội trắng (Aphanamixis grandiflora).
Tầng dưới tán, thấp hơn 15m, các loài chiếm ưu thế là: Tu hú (Callicarpa
dichotoma), Thị rừng (Diospyros montana), Ô rô núi (Acanthus leucostachyus),
Thị rừng (Diospyros montana), Máu chó lá nhỏ (Knema conferta), Rau sắng
(Melientha suavis), Dẻ xanh (Lithocarpus pseudosundaicus), Chòi mòi Hải nam
(Antidesma hainanensis), Chòi mòi (Antidesma acidum), Chòi mòi núi
(Antidesma montanum), Mạy tèo (Streblus macrophylla), Ruối ô rô (Streblus
indicus), Bời lời lông (Litsea mollifolia), Kháo vàng (Machilus bonii) và Kháo
quả to (Phoebe macrocarpa). Tầng cây bụi với một số ít loài: Huyết giác
(Dracaena cochinchinensis), Chòi mòi bun (Antidesma bunius), Mạy tèo
(Streblus macrophylla), Thị rừng lông (Diospyros hirsuta), Bời lời (Litsea
impressa), Nanh chuột (Cryptocarya lenticellata). Tầng thảm tươi với một số
loài thuộc các họ: Họ Bóng nước (Balsaminaceae), Họ Ô rô (Acanthaceae), Họ
gai (Urticaceae) và Họ thầu dầu (Euphorbiaceae).
- Kiểu rừng thường xanh trên núi đá vôi bị tác động mạnh

7


Phân bố: Kiểu rừng này thường phân bố ở những nơi người dân dễ tiếp
cận, hoặc dễ dàng vận chuyển sau khi khai thác, tại VQG Bến En có thể gặp ở
khu vực núi Thủ Lợn - Sông Chàng; Ba Bái - Xuân Thái
Cấu trúc: Cấu trúc rừng với 3 tầng: Tầng tán, tầng dưới tán và tầng cây
bụi. Trong đó tầng tán và tầng dưới tán thường khó phân biệt rõ, hai tầng này có
các loài ưu thế như: Tu hú lá to (Callicarpa macrophylla), Tu hú (Callicarpa
dichotoma), Ô rô lá bé ( Acanthus ilicifolius), Thị rừng (Diospyros montana),
Bằng lăng (Lagerstromia
calyculata), Lòng mang cụt (Pterospermum
truncatolobatum), Lòng mang Xanh (Pterospermum heterophylum), Chòi mòi
núi (Antidesma montanum), Ô rô (Acanthus leucostachyus)... Đối với tầng cây

bụi thường có một số loài như: Mạy tèo (Streblus macrophylla), Chòi mòi núi
(Antidesma bunius), Sảng nhung (Sterculia lanceolata), Ô rô núi (Acanthus
leucostachyus), Thị rừng lông (Diospyros hirsuta). Tầng thảm tươi là một số ít
loài thuộc các họ: Ô rô (Acanthaceae), họ Bóng nước (Balsaminaceae), họ Thầu
dầu (Euphorbiaceae). Các lâm phần thuộc kiểu rừng này đều đã bị khai thác quá
mức trong thời gian dài, tuy nhiên với nhiều nỗ lực bảo vệ tài nguyên rừng trong
các lâm phần này đã dần đi vào ổn định.
- Trảng cây bụi trên núi đá vôi
Phân bố: Khu vực núi Đầu lớn - Xuân Thái, núi Thủ Lợn - Sông Chàng
Cấu trúc: Ở đây có một số loài chiếm ưu thế như: Huyết giác (Dracaena
cambodiana),), Mua đồi (Melastoma sp), Mãi táp (Randia pycnantha), Tu hú
(Callicarpa arborea), Đẻn 3 lá (Vitex trifolia, Acanthus ilicifolius), Hoa dẻ
(Desmos cochichinensis), Dây dất na (Uvaria micrantha), Đom Đóm
(Alchornea tiliifolia), Thẩu tấu (Aporosa microcalyx) và một số ít loài thuộc họ
Gai (Urticaceae). Các lâm phần kiểu rừng này nằm ở hầu hết các khu vực núi đá
của Bến En thực vật còn lại chủ yếu là cây bụi, có giá trị về dược liệu.
- Kiểu rừng nhiệt đới thường xanh trên núi đất ít bị tác động
Phân bố: Kiểu rừng này còn lại rất ít tại VQG Bến En do qua trình khai
thác trong quá khứ, tuy nhiên có thể gặp kiểu rừng này tại khu vực Thung Sen,
Núi Đàm - Sông Chàng, Điện Ngọc, Xuân Bình, Xuân Thái.
Cấu trúc: Cấu trúc rừng gồm 4 tầng bao gồm: Tầng tán thường trên 15m;
tầng dưới 15 mét; tầng cây bụi và tầng thảm tươi, trong đó tầng trên 15 mét với
các loại ưu thế: Lim xẹt (Peltophorum tonkinensis), Lim xanh (Erythrophloeum
fordii), Vàng anh (Saraca dives), Trường sâng (Pavieasia annamensis), Gội trắng
8


(Aphanamixis grandiflora), Song xanh (Actinodaphne obovata), Lòng mang cụt
(Pterospermum truncatolobatum)…. Tầng dưới tán cao dưới 15m với các loài ưu
thế: Thị rừng (Diospyros montana), Chòi mòi núi (Antidesma motanum), Thị

rừng lông (Diospyros hirsuta), Bời lời lá tròn (Litsea monopetala)…. Tầng cây
bụi thường gặp các loài Chòi mòi núi (Antidesma bunius), Ba bét (Mallotus
decipiens), Thị lông (Diospyros hirsuta), Bời lời vòng (Litsea verticillata)... Tầng
thảm tươi thường gặp các loài thuộc các họ: Gừng (Zingiberaceae), họ cỏ
(Poaceae), họ ô rô (Acanthaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae). Đây là kiểu rừng chứa đựng nhiều giá trị về mặt bảo tồn và đa
dạng sinh học,cùng với đó trữ lượng gỗ và giá trị gỗ của các loài cây rất cao, do
vậy cần có biện pháp bảo vệ khỏi những nguy cơ xâm hại của con người.
- Kiểu rừng nhiệt đới thường xanh trên núi đất bị tác động mạnh
Phân bố: Kiểu rừng này phân bố ở hầu hết các lâm phần trên VQG, đây là
hậu quả của quá trình khai thác quá mức, tuy nhiên sau nhiều năm bảo vệ và phát
triển các trạng thái rừng của kiểu rừng này đã phát triển tốt và đi vào ổn định.
Cấu trúc: Cấu trúc rừng gồm 3 tầng bao gồm : tầng tán; tầng cây bụi và
tầng thảm tươi, trong đó: tầng tán với các loài ưu thế: Trâm trắng (Syzygium
wightianum), Bời lời (Litsea balansae), Thị rừng ( Diospyros hirsuta), Đa
(Ficus hispida), Thôi ba (Alangium chinense), Kháo vàng (Machilus bonii), Ba
soi (Mallotus paniculatus), Mò trung hoa (Cryptocarya chiensis), Dẻ xanh
(Lithocarpus peseudosundaicus), Bời lời lá tròn (Litsea rotundifolia), Trám
trắng (Canarium album), Lim xanh (Erythrophloeum fordii); tầng cây bụi
thường gặp các loài: Thị rừng (Diospyros hirsuta) và Sưa vẩy ốc (Dalbergia
lanceolaria).... Tầng thảm tươi chủ yếu là các loài thuộc các họ: họ Gừng
(Zingiberaceae), họ Lúa (Poaceae), họ Na (Anonaceae), họ Cà phê (Rubiaceae),
họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) và Dương xỉ. Đây là kiểu rừng phổ biến tại Bến
En, một số trạng thái của kiểu rừng này đã phục hồi và ổn định, tuy nhiên hiện
tại còn rất nhiều các lâm phần kiểu rừng này là rừng nghèo, do vậy trong thời
gian tới cần có biện pháp tác động để nâng cao chất lượng các lâm phần thuộc
kiểu rừng này.
- Kiểu trảng cỏ cây bụi trên núi đất
Phân bố: Khu vực Xuân Thái, Đức Lương, Xuân Bình, Đồng Thổ, Xuân Lý.
Cấu trúc: Thực vật còn lại chỉ là nhóm loài cây bụi như: Bồ cu vẽ

(Breynia fleuryi), Mua bà (Melastoma cadidum), Thầu tấu ( Aporosa
9


microcalyx), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Cọc rào (Cleistanthus petelotii),
Bùm bụp (Mallotus barbatus), Lá nến (Macaranga denticulata), Hà the
(Desmodium heterocarpon)..... Trạng thái này chúng ta còn gặp ở ven hồ Sông
Mực với ưu thế là loài Mai dương (Mimosa pigra). Các lâm phần của kiểu rừng
này phân bố rải rác trên Vườn, diện tích nhỏ, đặc biệt các vùng bán ngập tại hồ
sông Mực. Trong thời gian tới cần có biện pháp lâm sinh nhằm thúc đẩy quá
trình tái sinh và phục hồi đối với các lâm phần chứa cây mục đích và các biện
pháp xử lý đối loài Mai dương.
- Kiểu rừng tre nứa xen với cây lá rộng
Phân bố: Kiểu rừng này phân bố rải rác khắp Vườn.
Cấu trúc: Ở kiểu rừng này nứa chiếm ưu thế so với cây lá rộng, nhưng có
nơi chỉ một vài cây bụi nứa xen lẫn với cây gỗ. Tre nứa ở Bến En chủ yếu là:
Nứa (Schizotachyum funghomii), đôi khi xen lẫn một số Hóp gai (Bambusa
Flexuos) và Vầu ngọt (Indosasa sinica). Các loài cây gỗ thường phân bố cùng
tre nứa là: Mang xanh (Pterospermum heterophylum), Bạc tán xanh
(Beilschmiedia balansae), Kháo vàng (Machilus bonii), Bằng lăng
(Lagerstroemia calyculata), , Ba soi (Mallotus paniculatus), Vàng anh (Saraca
dives), Kháo nước (Phoebe paniculata).
Tầng cây bụi thảm tươi thường là một số ít loài thuộc họ gừng
(Zingiberaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Lúa (Poaceae), họ Cà phê
(Rubiaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Ô rô (Acanthaceae), và họ
Dương xỉ.
II. ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ GIÁ TRỊ BẢO TỒN
2.1. Đa dạng hệ sinh thái
VQG Bến En có 3 hệ sinh thái chính như sau:
+ Hệ sinh thái rừng núi đất nhiệt đới đai thấp: Hệ sinh thái rừng núi đất ở

đây chủ yếu là rừng thứ sinh, cây gỗ có đường kính nhỏ. Tuy nhiên, đây là trung
tâm phân bố của giống Lim xanh, đặc hữu nổi tiếng ở Việt Nam, có cây tuổi thọ
đến vài trăm năm với đường kính gần 2m. Ngoài ra còn có các loài cây gỗ quý
hiếm như Chò chỉ, Vù hương, Sến mật, Vàng tâm, Lim xanh, Lát hoa, Trai lý,...
và những nhóm cây thân mềm như song, mây, giang, tre, ... Đặc biệt phong phú
là có 570 loài cây dược liệu. Đây là hệ sinh thái tập trung chủ yếu tài nguyên
rừng của VQG trải khắp cả 3 phân khu chức năng của Vườn.
10


+ Hệ sinh thái ngập nước: Vườn Quốc gia Bến En có hồ sông Mực rộng
trên 2000 ha, là thủy vực của bốn con suối lớn trong vùng. Sau khi xây dựng đập
Mẫy năm 1979, hồ bị chia cắt thành hồ Thượng và hồ Hạ. Trên hồ có 21 hòn đảo
và bán đảo, kết hợp với hệ thống hang động là nơi có tiềm năng để phát triển du
lịch sinh thái, nghĩ dưỡng để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và khu vực Bắc
Trung bộ. Hồ sông Mực có khu hệ cá khá đa dạng với sản lượng cá cao. Bến En
là khu vực cư trú của nhiều loài chim nước và số lượng cá thể rất lớn, đa dạng
về thành phần loài. Với hợp phần ngập nước như vây thì xứng đáng đề xuất
Vườn Quốc gia Bến En trở thành khu Ramsar của thế giới, khu thắng cảnh quốc
gia.
+ Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi của VQG Bến En chiếm tỷ lệ nhỏ, hầu
hết các trạng thái rừng thuộc hệ sinh thái này phần lớn bị tác động mạnh, hiện trạng
còn lại chủ yếu cây gỗ trung bình và nhỏ, cây bụi, dây leo. Tuy nhiên, đây là nơi
được ghi nhận về mức độ đa dạng cao về số loài thực vật trên núi đá vôi, điển hình
như ngành Mộc lan chiếm tỉ lệ lớn với nhiều loài cây có giá trị dược liệu.
Ngoài 3 hệ sinh thái chính ở trên, VQG Bến En còn có hệ sinh thái bán
ngập và hệ sinh thái đất nông nghiệp:
+ Hệ sinh thái đất bán ngập: Do điều kiện địa hình đồi núi thấp, sau khi
xây dựng đập Mẫy năm 1979, một phần đồi thấp của Vườn bị ngập nước theo
mùa hình thành nên hệ sinh thái đất bán ngập nước. Thực vật chủ yếu của hệ

sinh thái này là cây Mai Dương (Mimosa pigra) và các dạng cây bụi khác, loài
cây này đang ngày càng xâm lấn rộng ra các khu vực khác của Vườn làm ảnh
hưởng tới khả năng tái sinh, sinh trưởng, phát triển của các loài cây bản địa, đây
đang là một vấn đề cần phải quan tâm giải quyết trong thời gian tới.
+ Hệ sinh thái đất nông nghiệp hình thành chủ yếu do người dân địa
phương vén rừng làm nương rẫy trái phép và sống trong vùng lõi của Vườn, cây
trồng chủ yếu là Mía, Sắn, Lúa được canh tác hàng năm.
2.2. Đa dạng loài
2.2.1. Hệ thực vật
Vườn quốc gia Bến En có 1.417 loài thực vật, thuộc 712 chi, 191 họ, 76
bộ, 9 lớp và 6 ngành thực vật bậc cao có mạch. Có 4 loài thực vật mới của Việt
nam được phát hiện ở Bến En là: Xâm cánh Bến En (Glyptoetalum
sclerocarpum (Kurz) M.A Lawson), Đậu khấu Bến En (Myristica yunanensis
11


Y.H. Li), Găng Bến En (Timonius arborea Elmer) và cây họ gừng
(Distichochlamys benenica) phát hiện năm 2011 và được công nhận năm 2012.
* Đa dạng các Taxon thực vật.

Bảng 02. Sự phân bố các taxon các ngành của hệ thực vật – VQG Bến En

1. Quyết lá thông (Psilotophyta)

Bộ
Số
bộ
1

Họ

Tỷ lệ Số
(%)
họ
1,3
1

Chi
Tỷ lệ Số
(%)
chi
0,5
1

Tỷ lệ
Số loài
(%)
0,1
1

Tỷ lệ
(%)
0,1

2. Thông đất (Lycopodiophyta)

2

2,6

2


1,0

3

0,4

8

0,6

3. Cỏ tháp bút (Equisetophyta)

1

1,3

1

0,5

1

0,1

1

0,1

4. Dương xỉ (Polypodiophyta)


7

9,2

22

11,5

47

6,6

99

7,0

5. Hạt trần (Gymnospermae)

3

3,9

4

2,1

4

0,6


8

0,6

6. Hạt kín (Angiospermae)
Tổng

62
76

81,6

161

84,3

657

92,1

1.300

91,7

100

191

100


713

100

1.417

100

Ngành

Loài

Phần lớn các taxon tập trung trong ngành Hạt kín (Angiospermae) với 62
bộ (81,6%), 161 họ (84,3%), 657 chi (92,1%), 1.300 loài (91,7%) so với tổng số
họ, chi, loài của hệ thực vật, tiếp đến là ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) với 7
bộ (9,2 %), 22 họ (11,5%), 47 chi (6,6%) và 99 loài (7,0%). Các ngành còn lại
chiếm tỉ lệ không đáng kể.
Bảng 03. Thành phần các taxon thực vật VQG Bến En so với khu hệ thực
vật Việt Nam
Họ
Số họ

Chi

Ngành

VQG
Bến
En


Việt
Nam

Tỷ
lệ
(%)

Quyết lá thông (Psilotophyta)

1

1

Thông đất (Lycopodiophyta)

2

Cỏ tháp bút (Equisetophyta)

Loài

Số chi

Số loài
Tỷ lệ
(%)

VQG
Bến

En

Việt
Nam

1

100

1

2

50,0

3

5

60,0

8

57

14,0

100

1


1

100

1

2

50,0

25

88,0

47

137

34,3

99

669

14,8

4

8


50,0

4

23

17,4

8

63

12,7

Hạt kín (Angiospermae)

161

299

53,8

657

2175

30,2

1300


9789

13,3

Tổng

191

337

56,7

713

2342

30,4

1.417

10.582

13,4

VQG
Bến
En

Việt

Nam

100

1

3

66,7

1

1

Dương xỉ (Polypodiophyta)

22

Hạt trần (Gymnospermae)

Tỷ lệ
(%)

Qua kết quả bảng 03 cho thấy: VQG Bến En có 191 họ chiếm 56,7%; 713
chi chiếm 30,4%; 1.417 loài chiếm 13,4% tổng số theo họ, chi và loài thực vật ở
Việt Nam.
12


* Đa dạng thực vật bậc họ và bậc chi.

Theo kết quả thống kê danh lục thực vật VQG Bến En có 10 họ thực vật
có số lượng loài lớn nhất, đó là:
Bảng 04. Mười họ có số chi lớn nhất
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Họ
Tên Việt Nam
Họ Thầu dầu
Họ Cỏ
Họ Cúc
Họ Đậu
Họ Cà Phê
Họ Lan
Họ Trúc đào
Họ Bầu bí
Họ Hoa môi
Họ Long não

Số lượng chi
Tên latinh

Euphorbiaceae
Poaceae
Asteraceae
Fabaceae
Rubiaceae
Orchidaceae
Apocynaceae
Cucurbitaceae
Lamiceae
Lauraceae

37
36
27
25
21
17
13
12
12
12

* Đa dạng nguồn gen quý hiếm.
Theo Danh lục đỏ IUCN 2013, danh lục thực vật bậc cao ở VQG Bến En
có 58 loài. Trong đó: Cấp độ Rất nguy cấp (CR) có 4 loài gồm Sao Hòn gai
(Hopea chinensis (Merr.) Hand.-Mazz); Sao Hải nam (Hopea hainanensis Merr.
et Chun); Táu mặt quỷ (Hopea mollissima C.Y. Wu) và Trầm hương (Aquilaria
crassna Pierre ex Lecomte). Nguy cấp (EN) có 3 loài là Vù hương
(Cinnamomum balansae Lecomte); Táu nước (Vatica cinerea King) và Lim xanh
(Erythrophleum fordii Oliv). Cấp độ sẽ nguy cấp (VU) có 3 loài là Chò nâu

(Dipterocarpus retusus Blume); Sến mật (Madhuca pasquieri H.J. Lam) và Xoài
rừng (Mangifera minutifolia Evrard). Cấp độ ít nguy cấp (LR) có 10 loài; cấp độ
ít lo ngại (LC) có 36 loài và thiếu dẫn liệu có 2 loài.
Theo Sách đỏ Việt nam năm 2007 (phần thực vật), khu hệ thực vật bậc
cao có mạch ở VQG có 46 loài quý hiếm. Trong đó: cấp độ rất nguy cấp (CR) có
3 loài; nguy cấp (EN) có 12 loài; sẽ nguy cấp (VU) có 30 loài; ít nguy cấp (LR)
có 1 loài là Nghèn (Cycas chevalieri Leandri).
Theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý, hiếm thì hệ thực vật VQG có 10 loài có tên trong Nghị định này
và đều thuộc nhóm IIA.
Theo Thông tư số 34/2013/TT-BNNPTNT ngày 05/9/2013 của Bộ Nông
nghiệp & PTNT, có 11 loài có tên trong Thông tư này.
13


* Đa dạng về dạng sống.
Áp dụng phổ dạng sống theo Raunkiaer (1934), ghi theo Thái Văn Trừng
(1978) được áp dụng cho các loài thực vật thuộc hệ thực vật VQG.
Bảng 05. Thang phân chia dạng sống áp dụng trong phân tích phổ dạng
sống của hệ thực vật bậc cao VQG Bến En

Số loài
hiệu
A. Cây chồi trên Phanerophytes: Là cây có chồi tái sinh nằm trên
1000
mặt đất từ 25 cm trở lên
Cây chồi trên lớn (Megaphanerophytes): Là cây
Mg
84
1

gỗ cao từ 25m trở lên
Cây chồi trên trung bình (Mesophanerophytes):
Me
285
2
Là cây gỗ cao từ 8m – 25m
Cây chồi trên nhỏ (Microphanerophytes): Là cây
Mi
191
3
bụi và cây bụi cao từ 2m – 8m
Cây chồi trên lùn (Nanophanerophytes): Là cây
Na
105
4
bụi lùn, cây thảo hoá gỗ cao từ 25 cm – 2m
Cây bì sinh (Epiphytes): Gồm các loài bì sinh
sống lâu năm trên thân, cành cây và bám trên Ep
31
5
đá...
Dây leo (Liannes): Cây chồi trên dạng dây leo
Li
279
6
thân hoá gỗ hoặc thân thảo.
TT

Nội dung


7
Cây chồi trên thân thảo hoá gỗ (Herbaceous)
B. Cây chồi sát đất:

He

Cây chồi sát đất (Chamaephytes): Cây có chồi
Ch
8
cách mặt đất dưới 25 cm
C. Cây chồi nửa ẩn:
Cây chồi nửa ẩn (Hemicryptophytes): Cây có
Hm
9
chồi nằm sát mặt đất, được lá khô che phủ bảo vệ
D. Cây chồi ẩn:
Cây chồi ẩn (Cryptophytes): Chồi nằm dưới đất
Cr
10
hay đất dưới nước
E.Cây một năm:
11

Cây một năm (Therophytes): Cây sống một năm,
Th
tái sinh bằng hạt

Tổng số

Tỉ lệ %

70,06
5,93
20,11
13,48
7,41

2,19

19,69

25

1,76

11

0,78

11

0,78

170

12

170

12


133

9,39

133

9,39

103

7,27

103

7,27

1.417

100

Ưu thế về dạng sống thuộc vệ nhóm cây chồi trên với 1000 loài chiếm
70,06% tổng số loài toàn khu hệ, tiếp đến là nhóm chồi nửa ẩn có 170
14


loài (12%), cây chồi ẩn có 133 loài (9,39%), nhóm cây hàng năm (một
năm) có 103 loài (7,27) và cuối cùng là nhóm cây chồi sát đất có 11 loài
(0,78%).
Công thức phổ dạng sống của hệ thực vật:
SB = 70,06 Ph + 0,78 Ch + 12,0 Hm + 9,39 Cr + 7,27Th.


15


PHẦN II
CÁC LOÀI THỰC VẬT NGUY CẤP, QUÝ HIẾM
Ở VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN
I. NGÀNH DƯƠNG XỈ (POLYPODIOPHYTA)
1. Rau dớn (Diplazium esculentum (Retz) Sw.)
Tên địa phương: Ráng song quần, dớn rừng, rau dớn rừng, thái quyết,…
Bộ: Tổ diều (Aspleniales)
Họ: Ráng gỗ nhỏ (Woodsiaceae)
1.1. Đặc điểm nhận dạng:
Rau dớn có thân rễ nghiêng, hướng lên cao tới 15 cm, thường bao phủ
nhiều vẩy ngắn hình mũi mác hẹp, mỏng, có khía răng cưa ở mép, màu hung.
Cành dài lá nhỏ xòe trên đầu cây ra xung quanh như tán một cái ô rộng lớn,
những cành lá già gần gốc có màu đen, những cành lá non mọc lên từ giữa gốc
tạo thành khoảng từ hai đến ba cái cần với độ dài có thể lên đến nửa mét, đầu
cong như móc câu còn những nhánh lá non vươn thẳng lên, phần trên cùng uốn
lại như vòi voi…
Ngọn của cây rau dớn dễ gãy gọn, khi bị gãy ứa dòng nhựa xanh trong. Lá
xanh mượt, mọc so le, hình ngọn giáo dài 60–100 cm, cuống lá dài 50–60 cm,
đường kính ở gốc khoảng 3–5 mm. Phiến lá kép lông chim 1 lần (lá non) hay 2
lần (lá già), dài 60–80 cm, rộng 30–60 cm; lá chét 12-16 cặp, mọc cách, các lá
chét dưới có cuống, hình mũi mác rộng, 16-20 × 6–9 cm; các lá chét trên không
cuống, thuôn hình mũi mác hay thẳng, 6-10 × 1–2 cm, gốc cụt, mép khía răng
cưa hay chia thùy lông chim (các thùy có khía răng cưa nhỏ), nhọn mũi; các gân
trên mỗi thùy hình lông chim, gân con 8-10 cặp, lên dần, 2 hoặc 3 cặp dưới
thường chắp lại. Phiến lá cứng; gân sống lá xẻ rãnh nông, không lông hoặc đôi
khi có lông ngắn màu nâu nhạt.

1.2. Sinh học, sinh thái:
Rau dớn sinh sản vào mùa Xuân – Hè bằng bao tử hoặc sinh sản vô tính
bằng thân. Ổ túi bào tử chủ yếu là thẳng hoặc hơi cong, từ gần gân giữa tới mép
phiến lá; màng bao màu nâu vàng, thẳng, nguyên. Bề mặt bào tử với các chỗ lồi
lớn dạng hột hay dạng mấu.
16


Rau dớn thường mọc ở bờ suối, bờ khe, dưới các tán rừng thấp có độ ẩm
ướt cao, bên những tảng đá xen lẫn với các loại cây cỏ khác. Ở một số nơi có độ
ẩm cao, rau dớn mọc thành đám rộng.
Vùng sinh thái phân bố tự nhiên của rau dớn từ mực nước biển tới độ cao
2.300 m.
Rau dớn (Diplazium esculentum (Retz) Sw.)
1

2

1.3. Phân bố:
Trong nước: Phân bố cả nước.
Thế giới: Rau dớn phân bố ở Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ,
Đông Nam Á và Papua New Guinea.
1.4. Giá trị:
Các lá lược non được sử dụng làm rau rất phổ biến và là loại rau đặc biệt
của các nhà hàng cao cấp.
Lá rau dớn có thể được sử dụng làm thuốc chữa sốt rét, đau tai, đau răng,
vàng da, táo bón, điều trị hậu sản,… Thân rễ được dùng làm thuốc tẩy giun,
chống côn trùng, sâu bệnh, hạ sốt, điều trị hen suyễn, ho, đau bụng, kiết lỵ, tiêu
chảy, chảy máu cam.
17



1.5. Phân hạng:
Rau dớn thuộc hạng LC, IUCN – 2013.
1.6. Tình trạng bảo tồn:
Thường mọc hoang, là loài phổ biến dưới tán cây ở các khu rừng ẩm,
hoặc ven khe suối trên phạm vi cả nước.
2. Cẩu tích (Cibotium barometz J. Sm.)
Tên địa phương: Kim mao cẩu tích, cu ly, nhung nô, xích tiết.
Bộ: Cẩu tích (Dicksoniales)
Họ: Cẩu tích (Dicksoniaceae)
2.1. Đặc điểm nhận dạng:
Cây thuộc loại dương xỉ tạng, thường xanh, cao tới 3 m. Thân rễ to ngắn,
mọc vùi sát mặt đất, hơi nạc, phủ dầy lông tơ màu vàng nâu óng ánh.
Từ thân rễ mọc lên 1 - 5 lá to, lá kép lông chim 3 lần, nhỏ dần ở đỉnh, dài
1 - 2,5 m, cả phiến rộng đến 80cm. Cuống lá cứng, màu nâu đến nâu thẫm. Thùy
lá cấp 3 hình răng thưa, mặt trên xanh, mặt dưới nhạt hơn, có 1 - 2 túi bào tử,
màu nâu nhạt, nắp 2 mảnh.
2.2. Sinh học, sinh thái:
Mùa có bào tử tháng 10 - 1. Tái sinh bằng bào tử ra hàng năm, phát tán
nơi lận cận. Nếu bị đào mất phần thân rễ già, phần non mang lá còn lại vẫn có
thể tái sinh.
Mọc thành từng đám lớn dọc hành lang ven suối ở rừng kín thường xanh
ẩm nhiệt đới hay á nhiệt đới nuí cao, độ cao 800m trở lên (ở miền nam), 500 1500m (miền bắc). Đặc biệt ưa ẩm, ưa bóng, ưa khí hậu ẩm mát, sinh trưởng
phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm.
2.3. Phân bố:
Trong nước: các tỉnh miền núi: Lai Châu (Phong Thổ), Lào Cai (Than
Uyên), Cao Bằng (Quảng Hòa, Ba Bể), Bắc Thái (Đại Từ), Hoà Bình (Mai
Châu, Đà Bắc), Thanh Hóa (Bá Thước), Nghệ An (Kỳ Sơn), Quảng Nam - Đà
Nẵng (Trà My), Kontum (Đắc Tô: Đắc Kỳ), Lâm Đồng (Đà Lạt, thác Prenn, Trại

Hầm, Bảo lộc, Lạc Dương).
Thế giới: Trung Quốc, Lào, Malaixia, Inđônêxia.
2.4. Giá trị:
18


Thân rễ làm thuốc chữa đau nhức xương khớp, chữa đau lưng, dây thần
kinh hông. Còn dùng làm thuốc chống viêm, khí hư và bệnh đi tiểu nhiều ở
người già. Lông mao làm thuốc cầm máu vết đứt tay (kinh nghiệm dân gian).
Thân rễ còn được dùng tạo dáng các con vật để làm cảnh.
2.5. Phân hạng:
Chưa có thông tin chính xác về mức độ nguy cấp của loài.
2.6. Tình trạng bảo tồn:
Trước đây trữ lượng nhiều song do khai thác liên tục với khối lượng lớn
để dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời nạn phá rừng đã làm thu hẹp vùng
phân bố.
Cần chọn lọc khai thác những cây có thân rễ từ 1 kg trở lên, bảo vệ
nguyên trạng những cá thể hiện có trong các vùng rừng cấm và vườn quốc gia
(Ba Bể, Ba Vì...).
Cẩu tích (Cibotium barometz J. Sm.)

19


1

2

3


4

II. NGÀNH HẠT TRẦN (PINOPHYTA)
1. Gắm đẹp (Gnetum formosum Markgraf)
Tên địa phương: Gắm, dây gắm
Bộ: Dây gắm (Gnetales)
Họ: Dây gắm (Gnetaceae)
1.1. Đặc điểm nhận dạng:
Là cây dây leo dài đến 25m, thường có thớ. Lá mọc đối, dai dai, thuôn, có
mép gần song song, phiến dài 12 - 14cm, rộng 3 - 4,5cm, có mũi ngắn ở đầu.
Cụm hoa đực phân nhánh 1 - 2 lần, bông gồm 10 vòng có bao chung ở ra bao ấy
mỗi vòng khoảng 30 hoa. Cụm hoa cái dài 5cm, chia nhánh 1-2 lần, gồm những
20


bông chia nhiều vòng, mỗi vòng mang 6-8, có khi 10-12 hoa cái. Quả không
cuống, thuôn đều hình thoi, dài nhọn hai đầu, cỡ 2,5 x 1cm, đỏ, bóng lúc chín.
Gắm đẹp (Gnetum formosum Markgraf)
1

2

1.2. Sinh học, sinh thái:
Cây mọc trong rừng rậm ẩm, trên đất đá hay hoa cương, tới độ cao 200m
ở miền Trung của nước ta. Ra hoa tháng 4 - 6, có quả tháng 8.
1.3. Phân bố:
Trong nước: Là loài đặc hữu của Việt Nam, phân bố từ Phú Thọ, Hà Tây,
Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, tới Kontum, Lâm Đồng.
Thế giới: Không có.
1.4. Giá trị:

Cây có vỏ cho sợi tốt, thường dùng làm dây nỏ, làm chạc hay thừng. Hạt
ăn được. Rễ và thân dây gắm được dung trong y dược.
1.5. Phân hạng:
Gắm đẹp thuộc hạng LC, IUCN – 2013.
1.6. Tình trạng bảo tồn:
Là loài phổ biến trong các khu rừng từ Bắc vào Nam.
2. Gắm núi (Gnetum montanum Markgraf)
Tên địa phương: Dây gắm, dây sót, dây mấu
Bộ: Dây gắm (Gnetales)
Họ: Dây gắm (Gnetaceae)
21


2.1. Đặc điểm nhận dạng:
Là loài thực vật dây leo khác gốc, thân sần sùi, có đốt, màu nâu. Lá dày,
dai, hình trừng thuôn, dài 7 - 15 (20)cm, rộng 4 - 8cm, gần tròn hay gần nhọn ở
gốc, có mũi ngắn ở chóp; gân bên 5 - 8 đôi; cuống dài 0,5 ( - 1,5)cm.
Cụm hoa đực ở nách lá hay ở thân, chia nhánh 2 - 3 lần, gồm nhiều bông
hình trụ, mang 18 vòng sít nhau, với bao chung loe ra bao lấy 20 - 30 hoa đực
xếp xắn ốc trên hai dãy và 10 - 15 hoa cái không sinh sản trên một dãy. Cụm hoa
cái phân nhánh 2 - 3 lần với vòng khá cách biệt, mỗi vòng mang 5 - 7 hoa.
Quả hình trứng thuôn, dài 2 - 2,5cm, rộng 1 - 1,3cm, không cuống hay
cuống rất ngắn, tù hay hơi tròn và có mũi cứng ở đỉnh.
Gắm núi (Gnetum montanum Markgraf)
1

2

2.2. Sinh học, sinh thái:
Cây mọc trong rừng rậm ẩm, trên đất sét đá tốt, ở độ cao 500 - 1.500m tại

khu vực núi Đàm, dông Bao cù ở độ cao từ 300m trở lên.
Ra hoa tháng 1 - 2, có quả tháng 5 - 7.
2.3. Phân bố:
Trong nước: Gặp từ Vĩnh Phúc, Hà Tây, Quảng Trị, Quảng Nam, Lâm
Đồng tới Tây Ninh và Kiên Giang.
Thế giới: Loài phân bố ở Ấn Độ, Nêpal, Butan, Atxam, Mianma, Nam
Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào, Mã Lai.
2.4. Giá trị:
Cây có vỏ cho sợi tốt, thường dùng làm dây nỏ, làm chạc hay thừng. Hạt
ăn được. Rễ và thân dây gắm được dùng làm thuốc giảm đau, chữa phong tê
thấp, sản hậu gầy mòn, giải các chất độc (độc thức ăn, sơn ăn da, rắn cắn...) cũng

22


dùng làm thuốc chữa sốt và sốt rét. Rễ gắm còn dùng chữa kinh nguyệt không
đều. Lá gắm giã đắp chữa rắn cắn.
2.5. Phân hạng:
Gắm núi thuộc hạng LC, IUCN – 2013.
2.6. Tình trạng bảo tồn:
Là loài phổ biến trong phạm vi cả nước trong các khu rừng mưa nhiệt đới
từ độ cao 300 m trở lên.
3. Nghèn (Cycas chevalieri Leandri (C. balansae))
Tên địa phương: Nghèn
Bộ: Tuế (Cycadales)
Họ: Tuế (Cycadaceae)
3.1. Đặc điểm nhận dạng:
Có thân hình trụ thẳng, sẹo lá rõ, màu vàng nhạt. Cây cao khoảng từ 110m, đường kính tới o,5m, ít chia nhánh. Lá mọc thành vòng thưa ở phía ngọn.
Lá có hình lông chim, cuống lá có gai mang lá chét dài từ 15-18cm, mũi nhọn có
gai, mép cong lại. So với cây Vạn tuế thì lá Nghèn cứng và dày hơn nhưng số lá

trên thân ít hơn.
3.2. Sinh học, sinh thái:
Nghèn thường mọc trong các khu rừng nhiệt đới thường xanh, độ ẩm cao
trên đất sét pha mùn cát phát triển trên đá sa phiến và đá granit.
Nghèn có khả năng sinh sản vô tính và thường mọc thành từng cụm lớn.
Ra vào khoảng tháng 4, kết quả vào tháng 7 hằng năm. Quả nghèn khi còn non
có màu xanh nhạt to như quả trứng gà, lúc chín trái chuyển sang màu vàng, hạt
to…
Nghèn (Cycas chevalieri Leandri (C. balansae))

23


1

2

3.3. Phân bố:
Trong nước: Ở nước ta Nghèn là loài cây khá phổ biến ở các tỉnh miền
Trung từ Thanh Hóa đến Quảng Trị.
Thế giới: Nghèn phân bố tự nhiên ở Lào và Việt Nam.
3.4. Giá trị:
Nghèn thường được dùng làm cây cảnh, quả có thể ăn được.
3.5. Phân hạng:
Nghèn thuộc nhóm LR trong IUCN – 2013 và nhóm IIA – Nghị định
32/2006/NĐ-CP.
3.6. Tình trạng bảo tồn:
Là loài phổ biến ở các tỉnh miền Trung, thường được nhân dân trồng làm
cảnh và lấy quả.
4. Tuế xẻ lông chim nhiều lần (Cycas multipinnata Craib)

Tên địa phương: Tuế xẻ lông chim
Bộ: Tuế (Cycadales)
Họ: Tuế (Cycadaceae)
4.1. Đặc điểm nhận dạng:
Thân hoá gỗ thường nằm trong đất, dài 20 - 40 cm, đường kính 10 - 20
cm, vỏ sần xùi, sẹo lá rõ, mang từ 1 hay hiếm khi 2 - 3 lá ở đỉnh. Lá vảy
(cataphylls) dài 4,5 - 6 cm, rộng 3 - 3,5 cm tại gốc, thuôn nhọn về đỉnh. Lá mọc
thẳng đứng hay hơi nghiêng, dài 2 - 4 m, rộng 1,5 - 1,8 m; trục lá (rachis)
thường mang 14 - 36 lá chét giả (pinnae) dài 20 - 60 cm; các lá chét này lại

24


mang 6 - 8 lá chét nhỏ hơn do được phân hai ngả liên tiếp; các thuỳ lá chét
phẳng, xanh sẫm, có hệ gân chính rất
nổi rõ và liên kết với nhau; cuống lá dài 1,2 - 2,7m, đường kính 1,7-2cm, mang
gai cách nhau 30-35mm trên 90% chiều dài, gai dài 3-5 mm.
Nón đực dựng đứng, hình trụ, dài 25–40 cm, đường kính 6–8 cm, màu
kem tới vàng; cuống nón dài 3,5 cm, đường kính 2,5 cm. Vẩy nhị dài 2,5 - 3 cm,
rộng 2 - 2,5 cm, có 2 - 6 răng nhỏ ở mép, mũi nhọn ở đỉnh hơi tiêu giảm hoặc
không có. Nón cái có đường kính 16 - 18 cm; vảy noãn dài 10 - 12 cm, mang 2 6 noãn; phiến vẩy hình trứng, dài 6 - 7 cm, rộng 5 - 6 cm, mép xẻ sâu thành 40 44 thuỳ nhọn bên, mềm, dài 3–4 CM, rộng 3 - 4 mm tại gốc. Hạt gần hình cầu,
đường kính 3 cm, màu vàng khi chín.
Tuế xẻ lông chim nhiều lần (Cycas multipinnata Craib)
1

2

4.2. Sinh học, sinh thái:
Nón xuất hiện tháng 4 - 5, hạt chín khoảng tháng 10 - 11. Khả năng tạo
hạt và tái sinh từ hạt bình thường.

Là loài tung sinh và chịu bóng, mọc rất rải rác trên sườn núi đá vôi, ở độ
cao 200 - 400 m hoặc ở các thung lũng nhỏ giữa các núi đất nơi có độ ẩm cao,
dưới tán rừng thường xanh.
4.3. Phân bố:
Trong nước: Phân bố ở Yên Bái, Ninh Bình, Thanh Hóa.
25


×