Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP CỦA NƯỚC CHDCND LÀO TỪ KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.93 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BOUNKHONG CHANTHALANGMA

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ DOANH
NGHIỆP CỦA NƯỚC CHDCND LÀO TỪ KINH
NGHIỆM CỦA NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại
học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật
Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
chương trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học PGS.TS. Nguyễn Đức Minh, người đã tận tâm, nhiệt tình
chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.


Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

BOUNKHONG CHANTHALANGMA


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI

Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

BOUNKHONG CHANTHALANGMA


MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP

6
1.1. Khái quát về đăng ký doanh nghiệp
6
1.1.1. Khái niệm đăng ký doanh nghiệp
6
1.1.2. Ý nghĩa của việc đăng ký doanh nghiệp
8
1.2. Khái quát về pháp luật đăng ký doanh nghiệp
13
1.2.1. Khái niệm pháp luật đăng ký doanh nghiệp
13
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về đăng ký doanh
nghiệp của Lào
15
1.2.3. Nội dung pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
19
1.3. Kết luận
23
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CỦA LÀO VỀ ĐĂNG KÝ DOANH
NGHIỆP TRÊN CƠ SỞ SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ DOANH
25
NGHIỆP CỦA VIỆT NAM

2.1. Cơ quan nhà nước cấp đăng ký doanh nghiệp
25
2.2. Điều kiện đăng ký doanh nghiệp
31
2.2.1. Điều kiện về chủ thể
32
2.2.2. Điều kiện về mô hình tổ chức doanh nghiệp

33
2.2.3. Điều kiện về ngành nghề kinh doanh
35
2.2.4. Điều kiện về vốn kinh doanh
39
2.2.5. Điều kiện về tên doanh nghiệp
40
2.2.6. Một số điều kiện khác
42
2.3. Thủ tục đăng ký doanh nghiệp
43
2.3.1. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
43
2.3.2. Trình tự tiến hành thủ tục đăng ký doanh nghiệp
45
2.4. Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong quá trình tiến hành
đăng ký thành lập doanh nghiệp
50
2.5. Kết luận
52
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỦA
LÀO VỀ ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP DƯỚI SỰ CHÚ Ý KINH NGHIỆM ĐIỀU
56
CHỈNH PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM

3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật của Lào về đăng ký doanh
nghiệp
56
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật của Lào về đăng ký doanh
nghiệp

58
3.2.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về đăng ký
doanh nghiệp
58
3.2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
63
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp tại
Lào từ kinh nghiệm của Việt Nam
64
3.3.1. Về hệ thống cơ quan đăng ký doanh nghiệp
64


3.3.2. Về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh
3.3.3. Về nội dung đăng ký kinh doanh
3.3.4. Về chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật đăng ký kinh doanh
3.4. Kết luận
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

65
71
74
75
756
77


6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh doanh và bình đẳng trước
pháp luật. Quyền tự do kinh doanh và bình đẳng của các doanh nghiệp chỉ
thực sự được bảo đảm trên cơ sở hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn
thiện, mà trước hết là hệ thống pháp luật về đăng ký và quản lý doanh nghiệp.
Trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới nền kinh tế ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, pháp luật về kinh tế nói chung và pháp luật về đăng ký, quản lý
doanh nghiệp nói riêng được xây dựng trên nền tảng những đặc thù về chính trị,
kinh tế - xã hội, còn tương đối dè dặt và “khó khăn”, có tính chất giải pháp tình
thế, và kiểm soát chặt chẽ quyền đăng ký doanh nghiệp của các cá nhân, tổ chức.
Trong bối cảnh hiện nay, khi nhu cầu mở cửa nền kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu thì sự không tương thích về mặt pháp
luật là những rào cản chính của các nước đang phát triển, đặc biệt là pháp luật
về doanh nghiệp trong việc phát triển hoạt động thương mại trong nước và thu
hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trong bối cảnh này, việc so sánh pháp luật giữa các quốc gia có điểm
tương đồng là cần thiết vì thông qua đó có thể tìm ra những điểm giống và
khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, từ đó đánh giá tính hợp lý của các giải
pháp pháp lý của pháp luật các nước và rút ra bài học kinh nghiệm lập pháp
quan trọng áp dụng vào việc hoàn thiện, bổ sung pháp luật nước mình.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, Lào cần tiếp nhận những tinh hoa của nền
pháp lý nhân loại thông qua sự sàng lọc của luật so sánh để giúp Lào có được
một hệ thống pháp luật doanh nghiệp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, văn
hóa mà vẫn tương thích với pháp luật quốc tế. Trong quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế, Chính phủ Lào rất chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, đặc


7


biệt là Việt Nam Lào và Việt Nam cùng nằm trên Bán đảo Đông Dương, cùng
một khu vực địa lý với những nét tương đồng về tự nhiên, văn hóa, lịch sử, hai
nước đã từng cùng nhau tiến hành cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, cùng nhau
bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày nay lại cùng nhau xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam có những lợi thế riêng mà từ
đó nền kinh tế đất nước này đã có những bước phát triển đáng kể, vượt bậc. Vì
vậy, việc nghiên cứu pháp luật về đăng ký doanh nghiệp của Lào, đặt trong mối
tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam là điều cần thiết để Lào có thể tiếp
thu, học hỏi từ Việt Nam những kinh nghiệm quý báu trong điều chỉnh vấn đề
này, tạo tiền đề để giúp cho Lào hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp nói
chung, pháp luật về đăng ký doanh nghiệp nói riêng, cũng như cải thiện môi
trường pháp lý cho kinh doanh, đầu tư và hội nhập kinh tế nhanh hơn, sâu hơn,
toàn diện hơn, từ đó thúc đẩy mối quan hệ đoàn kết của hai nước anh em trong
thời bình. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp của Việt Nam được ban hành năm 2014
sau khi Luật Doanh nghiệp của Lào đã được ban hành năm 2013. Luật Doanh
nghiệp hiện hành của Việt Nam có nhiều điểm mới trong quy định về đăng ký
doanh nghiệp theo hướng cụ thể hóa nội hàm mới của quyền tự do kinh doanh
trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 33). So với Luật Doanh nghiệp của Lào, Luật
Doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam đã thể hiện rõ phương châm điều chỉnh
“hậu kiểm” thay cho “tiền kiểm”. Những giá trị này gợi mở ý tưởng việc nghiên
cứu so sánh để đưa ra luận cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật
của Lào về đăng ký doanh nghiệp. Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Hoàn
thiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào từ kinh nghiệm của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm luận
văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu về pháp luật kinh tế nói chung và
pháp luật doanh nghiệp nói riêng ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân


Lào


8

vẫn còn hạn chế. Cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học trong nước
nào nghiên cứu riêng về vấn đề hoàn thiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy
có một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài như trong các
tập bài giảng luật kinh tế; sách tham khảo; các luận án, luận văn, bài viết đăng
trên các tạp chí khoa học,… Cụ thể: Bộ Công nghiệp và Thương mại (2005),
Pháp luật về doanh nghiệp, Nxb Thống kê, Viêng Chăn; Bộ Tư pháp (2007),
Giải thích pháp luật về doanh nghiệp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
Sách hợp tác với JICA; Hoàn thiện pháp luật kinh tế trong quá trình đổi mới
kinh tế của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Xổm Xay Xỉ Hà Chắc (2001),
Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Tổ chức quản lý doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, Phothilat Phôm Phô Thi (2005) Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật
Hà Nội; Luật doanh nghiệp năm 2005 của Lào và Việt Nam dưới góc độ so
sánh, Beelee Yearseng (2011), Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ của Vathsana
Lathtanaphanh (2011), Đại học Luật Hà Nội.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật về thủ tục thành lập doanh nghiệp là một phạm trù sâu và
rộng. Chính vì vậy, trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu
thủ tục đăng ký doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm
2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành của nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào. Các quy định có liên quan đến đăng ký doanh nghiệp của các luật
khác như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đất đai .v.v. không được chú ý

hoặc chỉ được đề cập rất hạn chế ở những nội dung cần thiết. Luật Doanh
nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được chú ý so sánh.


9

Do chủ đề rộng và trong khuôn khổ luận văn có hạn nên luận văn tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp; thực
hiện thực hiện pháp luật về đăng ký doanh nghiệp của nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào không được luận văn nghiên cứu.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Làm rõ những mặt được và hạn chế của các quy định hiện hành của
pháp luật về đăng ký doanh nghiệp của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
- Kiến nghị một số giải pháp có hiệu quả làm cơ sở hoàn thiện hệ thống
pháp luật về đăng ký doanh nghiệp của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trên
cơ sở tham khảo những điểm hợp lý của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phù hợp với điều kiện, trình độ,
hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của Lào.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn trả lời hai câu hỏi nghiên cứu chính:
- Thực trạng pháp luật của Lào về đăng ký doanh nghiệp: Pháp luật về
đăng ký doanh nghiệp của Lào quy định như thế nào? Ưu điểm và hạn chế
của các quy định này là gì.
- Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật của Lào về đăng ký
doanh nghiệp dưới sự chú ý kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của Việt Nam:
Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của Việt Nam là gì? Từ kinh nghiệm đó,
phương hướng hoàn thiện pháp luật của Lào là gì? Các giải pháp hoàn thiện
pháp luật cụ thể cho pháp luật của Lào về đăng ký doanh nghiệp là gì?
6. Phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời luôn
luôn nhất quán với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.


10

Cụ thể trong khóa luận này, tác giả có sử dụng các phương pháp như phân
tích, bình luận, so sánh, liệt kê,…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn hệ thống hóa, trình bày, phân tích có tính kế thừa và làm rõ
thêm cơ sở lý luận của pháp luật về đăng ký doanh nghiệp.
Luận văn phản ánh những nội dung tích cực, những thiếu sót, hạn chế
trong quy định của pháp luật Lào về đăng ký doanh nghiệp. Cùng với đó, một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật của Lào về đăng ký doanh nghiệp trên cơ sở
tham khảo pháp luật hiện hành của Việt Nam về vấn đề này đã được luận văn
gợi mở.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc thành các nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận về pháp luật đăng ký doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật của Lào về đăng ký doanh nghiệp trên
cơ sở so sánh với pháp luật về đăng ký doanh nghiệp của Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật của Lào
về đăng ký doanh nghiệp dưới sự chú ý kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của
Việt Nam.

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về đăng ký doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm đăng ký doanh nghiệp


11

Trong Từ điển bách khoa Việt Nam thuật ngữ “đăng ký” được giải
thích với hai nội dung: đăng ký là chính thức ghi vào văn bản của cơ quan
pháp luật những thông tin cần thiết về sự kiện làm cơ sở phát sinh hoặc chấm
dứt những quan hệ pháp lý nhất định; Đăng ký là bằng chứng công nhận bắt
đầu sự tồn tại hoặc chấm dứt một sự kiện hoặc hiện tượng pháp luật.1
Phù hợp với quan niệm trên, có thể giải thích thuật ngữ “đăng ký doanh
nghiệp” dưới những phương diện như sau:
Về phương diện kinh tế: đăng ký doanh nghiệp là hoạt động của chủ
đầu tư tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất hoặc những dịch vụ nhằm
thu lợi nhuận về cho chủ đầu tư song nó là những hoạt động đầu tiên tạo tiền
đề cần thiết để chủ đầu tư có thể tiến hành được hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Vì vậy, tuy trong giai đoạn tiến hành thủ tục đăng ký doanh
nghiệp, doanh nghiệp chưa thực sự tồn tại, chưa có hoạt động kinh doanh
song chi phí trong quá trình đăng ký thành lập doanh nghiệp vẫn được tính
vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp và được khấu trừ trong khi tính thuế.
Về phương diện quản lý nhà nước: Đăng ký doanh nghiệp được coi là
biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Đăng ký doanh nghiệp là hoạt động
quản lý đầu tiên của Nhà nước đối với doanh nghiệp, nó sẽ tạo điều kiện để
Nhà nước có thể thực hiện các hoạt động quản lý tiếp theo của mình khi
doanh nghiệp đi vào sản xuất.
Về phương diện chính trị: Đăng ký doanh nghiệp được hiểu là quyền tự
do dân chủ của công dân. Tuy nhiên quyền này phải được hiểu là tự do trong
“khuôn khổ”, dân chủ phải tập trung và bình đẳng trước pháp luật. Quyền
đăng ký doanh nghiệp cũng đồng thời là nghĩa vụ phải thực hiện. Quyền tự do
kinh doanh của công dân có nội hàm bao gồm cả quyền tự do lựa chọn ngành

nghề, hình thức kinh doanh và tự do đăng ký doanh nghiệp. Bất cứ một cá

1 Từ điển bách khoa Việt Nam (2005), Nxb. Từ điển Bách khoa


12

nhân, tổ chức nào có đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp đều có thể đăng
ký với Nhà nước để tiến hành hoạt động thành lập doanh nghiệp phục vụu sản
xuất kinh doanh mà không ai có quyền ngăn cản trái phép.
Về phương diện pháp lý: đăng ký doanh nghiệp là một thủ tục pháp lý
mà theo đó nhà đầu tư phải khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
dự kiến hoạt động của mình, cũng như những thay đổi trong quá trình hoạt
động và được Nhà nước thừa nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp.
Như vậy, theo định nghĩa này, đăng ký doanh nghiệp được hiểu là một
hoạt động pháp lý bao gồm hành vi của chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh và các hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh
doanh phải khai báo theo đúng quy định của pháp luật với các nội dung cụ
thể, còn cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành ghi tên vào sổ sách của
Nhà nước đồng thời cấp cho chủ thể đăng ký doanh nghiệp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là bằng chứng
pháp lý chứng minh chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh
một cách hợp pháp, được Nhà nước chính thức công nhận và bảo hộ.
Theo Nghị định số 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam (Điều 3
khoản 1) thì đăng ký doanh nghiệp được hiểu là việc người thành lập doanh
nghiệp đăng ký thông tin về doanh nghiệp dự kiến thành lập, doanh nghiệp
đăng ký những thay đổi hoặc dự kiến thay đổi trong thông tin về đăng ký
doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh và được lưu giữ tại Cơ sở dữ

liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng
ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp
và các nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác theo quy định của Nghị định này.
Như vậy, đăng ký doanh nghiệp không chỉ là đăng ký kinh doanh.
Đăng ký doanh nghiệp là hành vi của người kinh doanh nhằm khai báo với cơ


13

quan Nhà nước về hoạt động kinh doanh của mình trong quá trình thành lập
và tồn tại, đồng thời cũng là biện pháp để Nhà nước quản lý hoạt động của
các doanh nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp cũng được hiểu rộng hơn đăng ký
thành lập doanh nghiệp, bởi ngoài thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp,
khi thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp và trong quá trình hoạt động
doanh nghiệp phải thực hiện nhiều nghĩa vụ đăng ký khác.
1.1.2. Ý nghĩa của việc đăng ký doanh nghiệp
Thành lập doanh nghiệp là nội dung quan trọng trong pháp luật về doanh
nghiệp, đầu tư. Do đó, pháp luật về thủ tục đăng ký doanh nghiệp mang ý nghĩa
đặc biệt không chỉ đối với Nhà nước mà đối với cả các chủ thể kinh doanh.
Đối với Nhà nước
Có thể khẳng định pháp luật đăng ký doanh nghiệp là một trong những
cách thức giúp Nhà nước quản lý chặt chẽ hơn các hoạt động kinh doanh.
Thực tế cho thấy, trong môi trường tự do kinh doanh, nhiều chủ thể kinh
doanh vì lợi nhuận trước mắt mà bất chấp mọi thủ đoạn, kể cả thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật. Chính vì thế, Nhà nước ban hành pháp luật về đăng ký
doanh nghiệp nhằm mục đích:
Thứ nhất, thông qua đăng ký doanh nghiệp giúp Nhà nước kiểm soát
những hành vi sản xuất, kinh doanh tự phát, cạnh tranh không lành mạnh,
lũng đoạn thị trường.
Quy định pháp luật về đăng ký doanh nghiệp là “thước đo” đánh giá

tiêu chuẩn của một chủ thể kinh doanh có thể được Nhà nước thừa nhận là
doanh nghiệp hay không. Rõ ràng, đối với những chủ thể không đáp ứng đầy
đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp theo luật định thì đương nhiên không
được cấp giấy đăng ký kinh doanh, đồng thời không được Nhà nước thừa
nhận cũng như bảo hộ quyền lợi hợp pháp. Như vậy, thủ tục này là sự “sàng
lọc” nhằm loại bỏ những chủ thể kinh doanh mong muốn thành lập doanh


14

nghiệp với mục đích trái với lợi ích của Nhà nước, của nhân dân; từ đó góp
phần nâng cao tính ổn định, tính lành mạnh của môi trường kinh doanh.
Thông qua đăng ký doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
thể kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi hành vi
kinh doanh không phù hợp với nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đăng ký doanh nghiệp tạo điều kiện cho Nhà nước nắm bắt
thực trạng nền kinh tế ở tầm vi mô và tầm vĩ mô, từ đó đề ra đường lối, chính
sách phát triển đất nước hợp lý.
Bởi lẽ, thông qua việc các chủ thể thực hiện thủ tục đăng ký doanh
nghiệp, Nhà nước nắm được số lượng doanh nghiệp ra đời hoặc tồn tại, lượng
vốn đầu tư vào các ngành nghề kinh doanh, cơ cấu kinh tế… ở các cấp địa
phương và trên toàn quốc. Các chỉ số này giúp Nhà nước đưa ra các chủ
trương, chính sách, đề án phát triển kinh tế hợp lý cho từng vùng miền, cũng
như cho cả nền kinh tế.
Thứ ba, nếu đăng ký doanh nghiệp tiến bộ sẽ là tạo thuận lợi thu hút
đầu tư.
Thủ tục pháp lý đăng ký doanh nghiệp có thể là rào cản pháp lý, nếu
thủ tục đó phức tạp, gây phiền hà, tốn kém cho doanh nghiệp. Do đó, cải cách
hành chính, trong đó có cải cách thủ tục đăng ký doanh nghiệp là việc làm

thường xuyên và cần thiết để cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư.
Thứ tư, đăng ký doanh nghiệp xác nhận sự tồn tại hợp pháp của doanh
nghiệp.
Bởi lẽ, sau khi hoàn thành thủ tục này, chủ thể kinh doanh bắt buộc
phải công khai đăng báo tên doanh nghiệp mới thành lập. Nhờ đó những
người quan tâm biết được sự tồn tại hợp pháp của một tổ chức kinh tế mới,
chứ không phải những “doanh nghiệp ma” (doanh nghiệp không hề tồn tại).
Đối với các chủ thể kinh doanh


15

Điều 14 Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định:
“Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh
trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài,
hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”. Đây là sự bảo đảm của
Nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh của công dân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào.
Đối với chủ thể kinh doanh, đăng ký doanh nghiệp là một trong những
công cụ để bước đầu thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình theo quy
định của pháp luật. Đăng ký doanh nghiệp là điều bắt buộc nếu cá nhân, tổ
chức kinh doanh muốn hoạt động kinh doanh của đơn vị mình được tốt hơn.
Tuy nhiên, đăng ký doanh nghiệp không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền năng
pháp lý của chủ thể kinh doanh.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh cho chủ thể thành lập doanh nghiệp cũng như đăng ký
thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp khi có đầy đủ hồ sơ và theo đúng
trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách
nhiệm tiếp nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, xem xét tính hợp lệ của hồ sơ
đăng ký doanh nghiệp và cấp đăng ký doanh nghiệp cho chủ thể kinh doanh

theo quy định của pháp luật.
Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư nhiều
quyền và lợi ích thiết thực. Khi thành lập doanh nghiệp, cá nhân, tập thể sáng
lập nên doanh nghiệp bằng cách đầu tư hoặc góp vốn thành lập doanh nghiệp
sẽ có quyền quyết định và quản lý mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, quyết định từ cơ cấu tổ chức đến cách thức hoạt động, từ quan
hệ quản lý nội bộ doanh nghiệp đến việc quyết định các quan hệ hợp tác kinh
doanh với đối tác và quan hệ hành chính với cơ quan nhà nước. So với các
quy mô nhỏ hơn, việc thành lập doanh nghiệp sẽ giúp hoạt động kinh doanh,
sản xuất được mở rộng và thu về nhiều lợi nhuận hơn, thành lập doanh nghiệp


16

sẽ thuận lợi cho việc quản lý sản xuất kinh doanh, có hệ thống rõ ràng giúp
hoạt động tốt hơn.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hoạt động kinh
doanh hợp pháp của chủ thể kinh doanh được chính thức tiến hành và được Nhà
nước bảo hộ. Kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,
chủ thể kinh doanh chính thức được tiến hành hoạt động kinh doanh của mình
theo đúng nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp. Điều đó có nghĩa, chủ thể kinh doanh được quyền tự
do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Nếu vi phạm những nội dung này, chủ
thể kinh doanh sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Bằng sự kiện được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, chủ thể
kinh doanh chính thức xác định tư cách chủ thể của mình khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật trong quá trình kinh doanh; được hưởng các quyền và
thực hiện những nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. Đồng thời, giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp cũng là một phương tiện bảo vệ chủ thể kinh
doanh khỏi sự can thiệp trái pháp luật của các tổ chức, cá nhân vào hoạt động

kinh doanh hợp pháp của mình. Đối với các doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân, việc đăng ký doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp bảo vệ người chủ
thông qua hai lợi thế quan trọng: tính chịu trách nhiệm hữu hạn và tư cách
pháp nhân. Thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã góp
hoặc cam kết góp vào công ty. Doanh nghiệp là thực thể độc lập, nó có tư
cách pháp nhân riêng, nó tạo ra vỏ bọc pháp lý che chắn cho người chủ.
Trong quan hệ kinh doanh với công ty, đối tác muốn kiện tụng gì thì kiện
công ty, còn người chủ sẽ thoát khỏi những vụ kiện đó. Như vậy, có thể thấy
rằng, đăng ký doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là một thủ tục khai sinh cho
chủ thể kinh doanh mà còn là biện pháp bảo vệ lợi ích cho họ với tư cách là
một chủ thể kinh doanh trên thương trường.
Thông qua đăng ký doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh công khai hóa
hoạt động kinh doanh của mình. Khi thành lập doanh nghiệp, khách hàng sẽ


17

biết đến hoạt động kinh doanh, sản xuất của cá nhân, tổ chức kinh doanh
nhiều hơn. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, chủ thể
kinh doanh phải công khai hóa hoạt động kinh doanh của mình. Việc công
khai hóa có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi đăng ký doanh
nghiệp, chủ thể kinh doanh đã tự công khai hóa về mình với các cơ quan quản
lý; cũng qua đó khách hàng có thể xem hồ sơ đăng ký doanh nghiệp để nắm
được các thông tin về chủ thể kinh doanh. Bên cạnh đó, trên bảng hiệu và
giấy tờ giao dịch của chủ thể kinh doanh cũng phải ghi rõ ràng các thông tin
cơ bản về mình để tránh nhầm lẫn trong công chúng.
Đối với các chủ thể khác:
Trong quan hệ giao dịch trực tiếp, giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp chính là đảm bảo pháp lý quan trọng nhất về năng lực pháp luật của
chủ thể kinh doanh với đối tác của mình. Xét trên phương diện thông tin,

đăng ký kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng đối với giới thương nhân
trong việc tìm kiếm và thiết lập quan hệ hợp tác, kinh doanh. Việc cung cấp
đầy đủ thông tin về sự ra đời và hoạt động của các chủ thể kinh doanh là yêu
cầu không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Những thông tin cơ
bản trong nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được cấp cho chủ
thể kinh doanh công bố trên phương tiện thông tin đại chúng như: tên chủ thể
kinh doanh, loại hình tổ chức kinh doanh mà chủ thể kinh doanh lựa chọn
thành lập, mục tiêu và ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, số vốn
đầu tư vào hoạt động kinh doanh,… giúp cho giới thương nhân xác định được
tư cách chủ thể của họ, bước đầu tìm hiểu các cơ hội hợp tác kinh doanh của
mình với chủ thể kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh và
với quy mô vốn đầu tư đã được công bố.
Thêm vào đó, việc ghi các thông tin về đăng ký doanh nghiệp của chủ
thể kinh doanh trong sổ đăng ký doanh nghiệp của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cũng tạo thành một hệ thống dữ liệu, thông tin khá đầy đủ về chủ thể
kinh doanh, trạng thái hoạt động của chủ thể kinh doanh theo các tiêu chí: thời


18

gian, ngành nghề kinh doanh, quy mô vốn đầu tư, loại hình tổ chức kinh
doanh,… Hệ thống dữ liệu này trước hết giúp cho các cơ quan quản lý nhà
nước nắm bắt được tình hình phát triển của các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế thị trường, nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa thiết thực đối với giới
thương nhân trong quá trình tiếp cận thị trường, tìm hiểu những thông tin cần
thiết về chủ thể kinh doanh.
Tóm lại, việc đăng ký doanh nghiệp vẫn bảo đảm quyền tự do kinh
doanh của công dân được thực hiện trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật,
nhưng đồng thời góp phần tạo nên trật tự ổn định của nền kinh tế, xã hội.
1.2. Khái quát về pháp luật đăng ký doanh nghiệp

1.2.1. Khái niệm pháp luật đăng ký doanh nghiệp
Có người cho rằng pháp luật đăng ký doanh nghiệp là một bộ phận hay
một chế định của pháp luật hành chính bởi các quan hệ mà nó điều chỉnh có yếu
tố hành chính công, trong đó chủ yếu là quan hệ phát sinh giữa cơ quan đăng ký
doanh nghiệp với chủ thể là cá nhân, tổ chức muốn thành lập doanh nghiệp.
Có quan điểm khác thì coi pháp luật đăng ký doanh nghiệp là một bộ
phận của pháp luật doanh nghiệp bởi đăng ký doanh nghiệp chỉ là một trong
những nội dung thuộc đối tượng điều chỉnh của luật doanh nghiệp.
Hoạt động đăng ký doanh nghiệp phát sinh từ các quan hệ thỏa thuận
thành lập doanh nghiệp, đăng ký thành lập doanh nghiệp, quan hệ về thuế trong
đăng ký doanh nghiệp. Tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ nói trên hợp thành pháp luật về đăng ký doanh nghiệp. Nói cách khác, pháp
luật về đăng ký doanh nghiệp là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp trên lãnh thổ
quốc gia. Các văn bản pháp luật đó hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành, hoặc là các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương mà nước
đó cam kết.
Pháp luật đăng ký doanh nghiệp của Lào có những đặc điểm sau đây:


19

Thứ nhất, hiểu theo nghĩa rộng, pháp luật đăng ký doanh nghiệp là tập
hợp các quy định của pháp luật doanh nghiệp và của một số lĩnh vực pháp
luật khác như pháp luật về thuế, luật hành chính, luật tài chính, luật thương
mại v.v.
Hoạt động đăng ký doanh nghiệp được quy định trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật: Hiến pháp, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, hay
luật quy định về các hoạt động thương mại như: Luật Thương mại, Luật Kinh
doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Thuế

thu nhập doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Môi trường v.v. Nội dung pháp
luật về đăng ký doanh nghiệp không chỉ được ghi nhận trong một đạo luật mà
còn được ghi nhận trong các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư.
Thứ hai, pháp luật về đăng ký doanh nghiệp là một bộ phận của thể chế
kinh tế thị trường. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nói chung, về đăng ký
doanh nghiệp nói riêng ở Lào chỉ thực sự được quan tâm xây dựng từ khi
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, pháp luật về đăng ký doanh nghiệp có một quá trình phát triển
từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn.
Thứ tư, pháp luật về đăng ký doanh nghiệp là một hệ thống pháp luật
vừa mang tính chất công lại vừa mang tính chất tư. Điều này được thể hiện qua
các quan hệ pháp luật mà pháp luật về đăng ký doanh nghiệp điều chỉnh. Pháp
luật công thể hiện trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa Nhà nước mà đại diện
là các cơ quan có thẩm quyền với tổ chức, cá nhân có yêu cầu đăng ký doanh
nghiệp trong việc tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, đánh giá và cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh; trong hoạt động đăng ký mã số thuế cho doanh nghiệp.
Pháp luật tư thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp
tác kinh doanh, góp vốn thỏa thuận thành lập doanh nghiệp giữa các chủ đầu tư
với nhau.


20

1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về đăng ký doanh
nghiệp của Lào
Có thể khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định pháp luật
về đăng ký doanh nghiệp qua các giai đoạn như sau:
a. Thời kỳ từ năm 1975 đến 1993 (trước khi có Luật Kinh doanh năm 1994)
Từ những năm đầu sau ngày thành lập đất nước (năm 1975) cho đến

năm 1986, để quản lý các hoạt động kinh doanh, Nhà nước mới chỉ ban hành
các văn bản dưới luật. Những văn bản pháp luật này còn phản ánh sự phân
biệt của Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế thuộc các chế độ sở hữu khác
nhau. Giữa các hình thức sở hữu chưa có sự bình đẳng trong kinh doanh.
Thẩm quyền đăng ký doanh nghiệp không thống nhất.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV năm 1986, chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần đã được Nhà nước triển khai. Đây là thời kỳ trăn
trở để đổi mới nền kinh tế. Nhiều quyết định đã được ra đời. Song song với
chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, Nhà nước cũng có
quy định về việc đăng ký doanh nghiệp. Bằng các luật và văn bản dưới luật
được ban hành sau năm 1986, tính dân chủ trong nền kinh tế được thể hiện
khá rõ nét. Đăng ký doanh nghiệp đã đặt ra như một yêu cầu chung của các
đơn vị kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh tế. Các đơn vị kinh tế của
cơ quan hành chính sự nghiệp muốn sản xuất kinh doanh cũng phải đăng ký
kinh doanh tại ủy ban nhân dân các cấp.
Thông qua các văn bản quy định về đăng ký doanh nghiệp thời kỳ
1986-1993 cho thấy công tác đăng ký doanh nghiệp cho các tổ chức có hoạt
động sản xuất, kinh doanh đã có sự chuyển biến. Tuy nhiên, các quy định về
đăng ký doanh nghiệp còn thiếu rõ ràng và thủ tục rất rườm rà, đòi hỏi nhiều
giấy tờ không có ý nghĩa quản lý. Quy định về đăng ký doanh nghiệp giai
đoạn này còn mang nặng dấu ấn của kinh tế kế hoạch hóa, thiếu quy định
thống nhất.


21

b. Thời kỳ từ năm 1994 đến năm 2004 (trước khi ban hành Luật doanh
nghiệp năm 2005)
Sau năm 1994, Nhà nước triển khai tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IV và lần thứ V, dành nhiều thời gian cho công tác xây dựng pháp

luật, trong đó chủ yếu là xây dựng pháp luật về kinh tế. Đứng trước những
thay đổi lớn của nền kinh tế, các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân xuất hiện
ngày càng nhiều. Để đáp ứng được yêu cầu quản lý doanh nghiệp trong tình
hình mới, ngày 18/7/1994, Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã
thông qua cùng lúc hai đạo luật là Luật Kinh doanh, Luật Phá sản của doanh
nghiệp. Đây là các luật đầu tiên tại Lào có ghi nhận vấn đề thành lập doanh
nghiệp trong một chế định pháp luật. So với các quy định trước, chế định về
đăng ký doanh nghiệp trong các luật trên có sự tiến bộ hơn và thể hiện sự
hoàn thiện nhất định. Trong Luật Kinh doanh năm 1994, vấn đề đăng ký
doanh nghiệp được quy định khá rõ ràng, đầy đủ về tổ chức quản lý của cơ
quan đăng ký thành lập doanh nghiệp, về điều kiện và thủ tục đăng ký kinh
doanh cho doanh nghiệp. Có thể thấy, thông qua Luật Kinh doanh năm 1994
pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp đã có sự hoàn thiện nhất định.
So với giai đoạn trước, ở thời kỳ này, nội dung, mục đích của đăng ký doanh
nghiệp đã thể hiện rõ, quy trình thành lập, việc đăng ký kinh doanh được phân
cấp cụ thể cho các cơ quan chức năng. Pháp luật quy định một quy trình đăng
ký doanh nghiệp khá chặt chẽ. Mặc dù vậy, chế định pháp luật về đăng ký
doanh nghiệp trong thời kỳ này vẫn còn có nhiều nội dung chưa đảm bảo
quyền tự do thành lập doanh nghiệp, vi phạm nguyên tắc tự do kinh doanh mà
bất cứ một Nhà nước nào khi thừa nhận nền kinh tế thị trường cũng đều phải
tôn trọng. Bên cạnh đó pháp luật còn thiếu tính chặt chẽ, cản trở quá trình
thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
c. Thời kỳ từ năm 2005 đến năm 2012 (thời kỳ trước khi có Luật Doanh
nghiệp năm 2013)


22

Sau những năm đổi mới, nền kinh tế của nước Lào đã có sự phát triển
nhất định và đạt mức tăng trưởng cao hơn so với sự tăng trưởng của những

năm 90. Số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường đã tăng lên đáng kể, cơ
chế thị trường ngày càng hoạt động với quy mô và cường độ lớn hơn, mức độ
mở cửa của Nhà nước với bên ngoài cũng tăng lên. Trong khi đó Luật Kinh
doanh được ban hành trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới không còn
phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh đã có nhiều phát triển. Những thiếu
sót và hạn chế trong chế định đăng ký doanh nghiệp đã làm giảm tính linh
hoạt của các nhà đầu tư trong việc lựa chọn hình thức và cơ hội đầu tư phù
hợp với khả năng và điều kiện của họ. Những hạn chế này đã góp phần làm
cho khung pháp lý của Lào chưa tạo điều kiện phát huy tối đa các nguồn nội
lực cho phát triển kinh tế. Đồng thời, đó cũng là những nguyên nhân làm
giảm hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Để khắc phục những
vấn đề trên đây, ngày 09/11/2005, Quốc hội Lào đã thông qua Luật Doanh
nghiệp thay thế cho Luật Kinh doanh năm 1994. Theo quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2005, việc đăng ký doanh nghiệp được thực hiện đơn giản
hơn theo hướng chỉ giữ lại những hồ sơ, giấy tờ và thủ tục thực sự cần thiết.
Luật cũng mở rộng các hình thức tổ chức kinh doanh bằng cách đưa ra nhiều
loại hình doanh nghiệp để các nhà đầu tư có thể lựa chọn. Tuy nhiên, bên
cạnh những ưu điểm, chế định đăng ký doanh nghiệp trong Luật Doanh
nghiệp năm 2005 vẫn còn hạn chế.
d. Thời kỳ từ năm 2013 đến nay (thời kỳ thực hiện việc đăng ký doanh
nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2013)
Trong giai đoạn này, việc mở rộng kinh tế quốc tế, gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi Lào phải có hệ thống pháp luật đồng bộ
và phù hợp với pháp luật quốc tế. Ngày 26/12/2013, Quốc hội Lào ban hành
Luật Doanh nghiệp năm 2013 thay thế Luật Doanh nghiệp năm 2005. So với
các quy định trước, chế định về đăng ký doanh nghiệp đã có sự thay đổi cả về


23


kỹ thuật xây dựng luật và nội dung quy định, thể hiện sự đổi mới trong tư duy
và phương pháp quản lý của Nhà nước. Việc đăng ký doanh nghiệp hiện nay
được thực hiện theo hướng đơn giản hóa nhiều thủ tục hành chính. Có thể nói
sự thay đổi về thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2013
là bước đột phá về thủ tục hành chính nhằm giải phóng và phát huy tiềm năng,
tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền tự do kinh doanh. Không chỉ đưa ra
những quy định đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, vấn đề đăng ký
doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp năm 2013 đã có sự thay đổi cơ bản, thể
hiện sự đổi mới trong nhận thức của nhà làm luật, của Nhà nước đối với quyền
tự do kinh doanh của công dân. Các quy định pháp luật về đăng ký doanh
nghiệp hiện hành là sự phản ánh các quy luật kinh tế và phù hợp với thông lệ
quốc tế khi thừa nhận việc đăng ký doanh nghiệp là một trong những quyền cơ
bản của nhà đầu tư2.
1.2.3. Nội dung pháp luật về đăng ký doanh nghiệp
Pháp luật về đăng ký doanh nghiệp thường bao gồm một số nội dung sau:
Thứ nhất, quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan thực hiện việc đăng ký doanh nghiệp.
Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, đại diện cho nhân dân
thống nhất quản lý mọi mặt đời sống xã hội vì mục tiêu chung của toàn xã
hội, vì vậy trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp Nhà nước cũng đóng vai trò
quan trọng. Vai trò của Nhà nước không chỉ là thực hiện việc xem xét hồ sơ
và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà là một quá trình kiểm tra, xác
nhận về các điều kiện kinh doanh, về vốn pháp định, cấp giấy phép kinh
doanh và đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ, giấy tờ để quyết định việc cấp hay từ
chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Để đáp ứng
được các hoạt động quản lý này, Nhà nước phải tổ chức ra nhiều cơ quan
2 Xổm Xay Xi Hà Chắc (2001), Hoàn thiện pháp luật kinh tế trong quá trình đổi mới kinh tế của Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr. 17.



24

khác nhau, với những cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với
từng chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước giao. Hoạt động kiểm tra, xác nhận
các điều kiện kinh doanh, cấp giấy phép kinh doanh hay xác nhận vốn kinh
doanh có hiệu quả và phù hợp nhất vẫn là do các cơ quan chuyên môn, quản
lý các ngành, lĩnh vực cụ thể thực hiện. Tuy nhiên, việc tổng hợp kiểm tra,
đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp cần phải thực hiện tại cơ
quan chuyên trách mới có thể đáp ứng được việc theo dõi, cung cấp thông tin
về hệ thống các doanh nghiệp, đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.
Việc quy định cơ cấu tổ chức của cơ quan đăng ký doanh nghiệp như
thế nào, theo hình thức chuyên trách, thống nhất từ trung ương đến địa
phương hay tổ chức trong một bộ, ngành đều phải căn cứ vào yêu cầu nâng
cao năng lực và hiệu lực của cơ quan đăng ký doanh nghiệp trong việc giám
sát các hoạt động của doanh nghiệp.
Để tránh việc tùy tiện, không thống nhất, Luật đã quy định rõ chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký doanh nghiệp. Khi thực hiện
việc đăng ký doanh nghiệp, cơ quan chủ được thực hiện theo thẩm quyền
những nội dung mà pháp luật đã quy định. Các quyết định không dựa trên cơ
sở pháp luật, vượt quá thẩm quyền quy định đều bị coi là hành vi vi phạm cần
phải xử lý. Bên cạnh việc trao thẩm quyền cho cơ quan đăng ký doanh
nghiệp, pháp luật cũng quy định trách nhiệm phối hợp trong quản lý vơi các
cơ quan liên quan, hướng dẫn người đăng ký doanh nghiệp về mô hình tổ
chức doanh nghiệp, về ngành nghề kinh doanh phải có điều kiện, xây dựng và
quản lý cung cấp thông tin về doanh nghiệp,…
Thứ hai, về điều kiện thành lập doanh nghiệp
Kinh doanh có hiệu quả là yếu tố thúc đẩy kinh tế phát triển, củng cố sự
tồn tại bền vững của chế độ chính trị. Để đảm bảo cho doanh nghiệp sau khi
ra đời có thể hoạt động được, đồng thời hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp không phương hại đến lợi ích của các chủ thể khác, Luật Kinh doanh



25

quy định nhà đầu tư phải thỏa mãn những điều kiện nhất định về ngành, nghề
kinh doanh, về vốn kinh doanh, về chuyên môn và các điều kiện nhất định về
nhân thân. Cụ thể:
- Điều kiện về ngành, nghề kinh doanh: Nhu cầu của xã hội quyết định
sự hình thành của ngành, nghề kinh doanh. Tuy nhiên, nhu cầu của xã hội
không phải lúc nào cũng lành mạnh và chính đáng. Có những nhu cầu của
một số cá nhân nhưng lại xâm phạm đến lợi ích của những cá nhân khác và
lợi ích của cộng đồng, làm ảnh hưởng, băng hoại giá trị đạo đức, văn hóa, trật
tự an toàn xã hội. Trong những trường hợp đó, để bảo vệ quyền lợi của số
đông, lợi ích của Nhà nước và cộng đồng, pháp luật quy định những ngành,
nghề cấm kinh doanh. Phạm vi ngành, nghề cấm kinh doanh rộng hay hẹp tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, vào quan niệm về những giá trị
và lợi ích xã hội mà quốc gia đó quan tâm bảo vệ. Bên cạnh danh mục ngành,
nghề cấm kinh doanh, đối với những ngành, nghề kinh doanh có nguy cơ xâm
phạm đến lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước và cộng đồng
nhưng có khả năng khắc phục khi có điều kiện kèm theo để đảm bảo thì nhà
đầu tư phải đáp ứng các điều kiện nhất định, đó là những ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện. Chỉ khi nào đáp ứng những điều kiện nhất định do pháp
luật quy định thì doanh nghiệp mới được phép tiến hành những hoạt động
kinh doanh. Hầu hết các quốc gia đều có xu hướng hạn chế dần các lĩnh vực
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện cũng như đơn giản hóa để tạo môi
trường thuận lợi cho các nhà đầu tư.
- Điều kiện về vốn kinh doanh: Vốn kinh doanh không những là tiền đề
ban đầu không thể thiếu để nhà đầu tư triển khai các hoạt động của mình mà
còn là cơ sở để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của nhà đầu tư phát
sinh từ hoạt động điều kiện bắt buộc đối với nhà đầu tư khi muốn tiến hành

đăng ký thành lập doanh nghiệp. Quy mô vốn đó sẽ được xây dựng trên yêu


×