Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tìm hiểu pháp luật quốc tế về chống biến đổi khí hậu và việc thực thi trên thế giới và VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.09 KB, 25 trang )

Thực hiện: Nhóm 2 lớp CPQT
Ngày thực hiện: Tháng 4/2016

“TÌM HIỂU PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
VÀ VIỆC THỰC THI TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM”


MỤC LỤC

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BĐKH

Biến đổi khí hậu

UNFCCC

United Nations Framework Convention on Climate Change
(Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu)

COP 21

Hội nghị lần thứ 21 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc

UNEP

United Nations Environment Programme
(Chương trình Mơi trường Liên Hiệp Quốc)


WHO

World Health Organization
(Tổ chức Y tế Thế giới)

EU

European Union (Liên minh Châu Âu)

INDC

Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định

ASEAN

Association of Southeast Asian Nations
(Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á)

G20

Nhóm 20 nền kinh tế lớn

3


MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra và trở thành vấn đề mang tính chất tồn cầu. Sự
biến đổi khí hậu tồn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng kéo theo những hậu quả nặng nề.
Biểu hiện rõ nhất là sự nóng lên của trái đất, là băng tan, nước biển dâng cao; là các hiện tượng
thời tiết bất thường, bão lũ, sóng thần, động đất, hạn hán và giá rét kéo dài… dẫn đến thiếu

lương thực, thực phẩm và xuất hiện hàng loạt dịch bệnh trên người, gia súc, gia cầm...
Thế giới đang đứng trước những thách thức to lớn từ những hậu quả do biến đổi khí hậu
gây ra. Biến đổi khí hậu khơng chỉ tác động mạnh mẽ đến hệ sinh thái trái đất, mà kéo theo đó
cịn là các vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội... Việc này địi hỏi các tổ chức quốc tế cần phải có
những cam kết nhằm nỗ lực phịng chống và ứng phó với biến đổi khí hậu. Từ năm 1992 đến
nay, các hội nghị quốc tế đã được tổ chức và cho ra đời các điều ước quan trọng như Công ước
Khung của Liên hợp quốc, Công ước Montreal, Nghị định thư Kyoto...Và gần đây là COP 21
diễn ra tại Paris được cho là đã thành công với những điểm khác biệt so với những hội nghị
trước đó, mang đến sự thống nhất về nỗ lực chung nhằm cứu Trái Đất. Không chỉ các nước phát
triển, cả các nước đang phát triển cũng phải cắt giảm khí thải. Nhưng đó cũng mới chỉ là một
bước đi cần thiết của nhân loại trong hành trình gian nan hạn chống biến đổi khí hậu. Vẫn cịn
rất nhiều thử thách ở trước mắt, và khó khăn chưa thể giải quyết. Đã gần 30 năm trôi qua, nhưng
cuộc chiến chống biến đổi khí hậu tồn cầu vẫn chỉ mới ở giai đoạn bắt đầu…
Nằm bên bờ Tây của biển Đơng, có đường bờ biển dài và có tới 26/63 tỉnh giáp biển, Việt
Nam là nước sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao.
Nhận thức được những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển bền vững ở
Việt Nam cũng như trên thế giới, đã từ lâu, Chính phủ Việt Nam ln quan tâm xây dựng và
thực hiện các chương trình, chính sách quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu. Việt Nam đã
có những cam kết mạnh mẽ trong cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu ở cả phương diện quốc
gia và quốc tế. Tuy nhiên, những hành động này trên thực tế cịn chưa đủ so với những gì mà
biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ gây ra cho cộng đồng quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng.
Từ những thách thức đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề biến đổi
khí hậu và q trình thực thi ở trên thế giới và Việt Nam có ý nghĩa hết sức to lớn, góp phần thúc
đẩy hơn nữa q trình hoạch định chính sách và giải pháp trong phịng chống các biểu hiện cực
đoan của biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Bài nghiên cứu: “Tìm hiểu pháp luật quốc tế về chống biến đổi khí hậu và việc thực
thi trên thế giới và ở Việt Nam”

4



Mục đích của đề tài nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý quốc tế liên quan
đến biến đổi khí hậu, bao gồm các nội dung: Quy định của pháp luật quốc tế về chống biến đổi
khí hậu; tác động của biến đổi khí hậu ... Trên cơ sở đó, đánh giá và đề xuất các giải pháp tăng
cường mức độ thực thi các quy định của pháp luật quốc tế và hướng hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về vấn đề này.
Bài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật về chống biến đổi khí hậu; một
số điều ước quốc tế về biến đổi khí hậu, bao gồm: Nghị định thư Montreal về các chất làm suy
giảm tầng Ozone; Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu; COP 21 và Nghị
định thư Kyoto về giảm phát thải khí nhà kình; các chính sách chung nhằm hạn chế biến đổi khí
hậu trên thế giới và pháp luật của Việt Nam về ứng phó biến đổi khí hậu.
Trong đề tài này, nhóm sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, mơ tả, so sánh... để
đưa ra cái nhìn khách quan về biến đổi khí hậu, đồng thời đánh giá mức đố hồn thiện và tương
thích của pháp luật Việt Nam so với các quy định của pháp luật quốc tế nhằm đưa ra những giải
pháp để hoàn thiện...

5


NỘI DUNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1.
Định nghĩa biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu Trái Đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển,
sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo
trong một giai đoạn nhất định từ tính bằng thập kỷ hay hàng triệu năm. Sự biển đổi có thế là
thay đổi thời tiết bình qn hay thay đổi sự phân bố các sự kiện thời tiết quanh một mức trung
bình. Sự biến đổi khí hậu có thế giới hạn trong một vùng nhất định hay có thế xuất hiện trên
tồn Địa Cầu.

Sự biến đổi khí hậu là sự thay đổi các đặc điểm mang tính thống kê của hệ thống khí hậu
khi xét đến những chu kỳ dài hoặc hàng thập kỷ hoặc lâu hơn, mà khơng kể đến các ngun
nhân. Theo đó, những thay đổi bất thường trên những chu kỳ ngắn hơn một vài thập kỷ, như El
Niđo, khơng thể hiện sự thay đổi khí hậu.
Thuật ngữ này đơi khi được sử dụng để nhắc đến những trường hợp đặc biệt của biến đổi
khí hậu do tác động của hoạt động con người; ví dụ, trong Công ước Khung của Liên hợp Quốc
về Biến đổi Khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change 1992) định
nghĩa: “Biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu mà hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp do tác động
của hoạt động con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển tồn cầu và ngồi ra là những
biến thiên tự nhiên của khí hậu được quan sát trên một chu kỳ thời gian dài."
1.2.

Nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
1.2.1. Nguyên nhân

Những nhân tố có thể hình thành sự biến đổi khí hậu là thay đổi bức xạ khí quyển, bao
gồm các quá trình như biến đổi bức xạ mặt trời, độ lệch quỹ đạo của Trái Đất, quá trình kiến tạo
núi, kiến tạo trôi dạt lục địa và sự thay đổi nồng độ khí nhà kính. Nhiều phản ứng khác nhau của
mơi trường về biến đổi khí hậu có thể tăng cường hoặc giảm bớt các biến đổi ban đầu. Một số
thành phần của hệ thống khí hậu, chẳng hạn như các đại dương và chỏm băng, phản ứng chậm
với biến đổi bức xạ mặt trời vì khối lượng lớn. Do đó, hệ thống khí hậu có thể mất hàng thế kỷ
hoặc lâu hơn để phản ứng hoàn toàn với những biến đổi từ bên ngoài.
Tác động từ con người:
Trong hồn cảnh biến đổi khí hậu, các yếu tố nhân sinh cũng ảnh hưởng đến khí hậu.
Quan điểm khoa học về biến đổi khí hậu được nhiều người đồng ý là "khí hậu đang thay đổi và
những thay đổi này một phần lớn do tác động của con người." Do đó, các cuộc thảo luận đang
6


hướng vào 2 cách, một là giảm tác động của con người và tìm cách thích nghi với sự biến đổi đã

từng xảy ra trong quá khứ[ và được dự kiến xảy ra trong tương lai.
Vấn đề được quan tâm nhất trong yếu tố nhân sinh là việc tăng lượng khí CO 2 do
đốt nhiên liệu hóa thạch, tạo thành các sol khí tồn tại trong khí quyển và sản xuất xi măng. Các
yếu tố khác như sử dụng đất, sự suy giảm ơzơn và phá rừng, cũng góp phần quan trọng làm ảnh
hưởng đến khí hậu, vi khí hậu.
Theo Nghị định thư Kyoto, sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O,
HFCs, PFCs và SF6.
CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà kính
chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO 2 cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp
như sản xuất xi măng và cán thép.
- CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự
nhiên và khai thác than.
N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động cơng nghiệp.
HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm phụ của
quá trình sản xuất HCFC-22.
PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
Kiến tạo mảng:
Qua hàng triệu năm, sự chuyển động của các mảng làm tái sắp xếp các lục địa và đại
dương trên toàn cầu đồng thời hình thành lên địa hình bề mặt. Điều này có thể ảnh hưởng đến
các kiểu khí hậu khu vực và tồn cầu cũng như các dịng tuần hồn khí quyển-đại dương.
Vị trí của các lục địa tạo nên hình dạng của các đại dương và tác động đến các kiểu dịng
chảy trong đại dương. Vị trí của các biển đóng vai trị quan trọng trong việc kiểm sốt sự truyền
nhiệt và độ ẩm trên tồn cầu và hình thành nên khí hậu tồn cầu. Một ví dụ về ảnh hưởng của
kiến tạo đến sự tuần hoàn trong đại dương là sự hình thành eo đất Panama cách đây khoảng 5
triệu năm, đã làm dừng sự trộn lẫn trực tiếp giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Đều này
có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các chế độ động lực học của đại dương của hải lưu Gulf
Stream và đã làm cho bắc bán cầu bị phủ băng. Trong suốt kỷ Cacbon, khoảng 300 đến 365 triệu
năm trước, hoạt động kiến tạo mảng có thể đã làm tích trữ một lượng lớn cacbon và làm
tăng băng hà. Các dấu hiệu địa chất cho thấy những kiểu tuần hồn "gió mùa lớn"

(megamonsoonal) trong suốt thời gian tồn tại của siêu lục địa Pangaea, và từ mơ hình khí hậu
người ta cho rằng sự tồn tại của siêu lục địa đã dẫn đến việc hình thành gió mùa.
7


Thay đổi quỹ đạo:
Những biến đổi nhỏ về quỹ đạo Trái Đất gây ra những thay đổi về sự phân bố năng lượng
mặt trời theo mùa trên bề mặt Trái Đất và cách nó được phân bố trên tồn cầu. Đó là những thay
đổi rất nhỏ theo năng lượng mặt trời trung bình hàng năm trên một đơn vị diện tích; nhưng nó có
thể gây biến đổi mạnh mẽ về sự phân bố các mùa và địa lý. Có 3 kiểu thay đổi quỹ đạo là thay
đổi quỹ đạo lệch tâm của Trái Đất, thay đổi trục quay, và tiến động của trục Trái Đất. Kết hợp
các yếu tố trên, chúng tạo ra các chu kỳ Milankovitch, là các yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến khí
hậu và mối tương quan của chúng với các chu kỳ băng hà và gian băng, quan hệ của chúng với
sự phát triển và thoái lui của Sahara, và đối với sự xuất hiện của chúng trong các địa tầng.
Hiện tượng núi lửa:
Núi lửa là một quá trình vận chuyển vật chất từ vỏ và lớp phủ của Trái Đất lên bề mặt của
nó. Phun trào núi lửa, mạch nước phun, và suối nước nóng, là những ví dụ của các q trình đó
giải phóng khí núi lửa và hoặc các hạt bụi vào khí quyển.
Phun trào đủ lớn để ảnh hưởng đến khí hậu xảy ra trên một số lần trung bình mỗi thế kỷ,
và gây ra làm mát (bằng một phần ngăn chặn sự lây truyền của bức xạ mặt trời đến bề mặt Trái
Đất) trong thời gian một vài năm. Các vụ phun trào của núi lửa Pinatubo vào năm 1991, ảnh
hưởng đến khí hậu đáng kể. Nhiệt độ tồn cầu giảm khoảng 0,5 °C (0.9 °F). Vụ phun trào
của núi Tambora năm 1815 đã khiến khơng có một mùa hè trong một năm. Phần lớn các vụ phun
trào lớn hơn xảy ra chỉ một vài lần mỗi trăm triệu năm, nhưng có thể gây ra sự ấm lên tồn cầu
và tuyệt chủng hàng loạt.
Núi lửa cũng là một phần của chu kỳ carbon mở rộng. Trong khoảng thời gian rất dài (địa
chất), chúng giải phóng khí cacbonic từ lớp vỏ Trái Đất và lớp phủ, chống lại sự hấp thu của đá
trầm tích và bồn địa chất khác dioxide carbon. Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ ước tính rằng các
hoạt động của con người tạo ra nhiều hơn 100-300 lần số lượng khí carbon dioxide phát ra từ
núi lửa.

Thay đổi ở đại dương:
Đại dương là một nền tảng của hệ thống khí hậu. Những dao động ngắn hạn (vài năm đến
vài thập niên) như El Niño, dao động thập kỷ Thái Bình Dương (Pacific decadal oscillation),
và dao động bắc Đại Tây Dương (North Atlantic oscillation), và dao động Bắc Cực (Arctic
oscillation), thể hiện khả năng dao động hậu hơn là thay đổi khí hậu. Trong khoảng thời gian dài
hơn, những thay đổi đối với các quá trình diễn ra trong đại dương như hồn lưu muối nhiệt đóng
vai trị quan trọng trong sự tái phân bố nhiệt trong đại dương trên thế giới.
8


Những thay đổi trên đã dẫn đến một số hiện tượng tự nhiên như: Hiệu ứng nhà kính, mưa
axit, thủng tầng ozon, cháy rừng, lũ lụt, hạn hán, sa mạc hóa, hiện tượng sương khói,….
1.2.2. Tác động và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu

Các hệ sinh thái bị phá hủy
Biến đổi khí hậu và lượng cacbon dioxite ngày càng tăng cao đang thử thách các hệ sinh
thái của chúng ta. Các hậu quả như thiếu hụt nguồn nước ngọt, khơng khí bị ơ nhiễm nặng, năng
lượng và nhiên liệu khan hiếm, và các vấn đề y tế liên quan khác không chỉ ảnh hưởng đến đời
sống của chúng ta mà còn là vấn đề sinh tồn.
Mất đa dạng sinh học
Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các lồi sinh vật biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt
chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050
nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường
sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận
thấy đã có một số lồi động vật di cư đến vùng cực để tìm mơi trường sống có nhiệt độ phù hợp.
Ví dụ như là lồi cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng
Bắc cực.
Con người cũng khơng nằm ngồi tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang hóa và mực nước
biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi cây cỏ và động vật bị mất đi
cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương thực, nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi.

Chiến tranh và xung đột
Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai dần biến mất nhưng dân số cứ
tiếp tục tăng; đây là những yếu tố gây xung đột và chiến tranh giữa các nước và vùng lãnh thổ.
Do nhiệt độ trái đất nóng lên và biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu đã dần làm cạn
kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc xung đột điển hình do biến đổi khí hậu là ở
Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong thời gian một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ
có một lượng mưa nhỏ giọt và thậm chí nhiều năm khơng có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng
cao.
Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước và
mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh.
9


Các tác hại đến kinh tế
Các thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra cũng ngày càng tăng theo nhiệt độ trái
đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đơ la; ngoài ra, để khống chế dịch
bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng
làm thâm hụt các nền kinh tế.
Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân phải chịu cảnh
giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải đối mặt với việc lợi nhuận từ các
ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực phẩm và nước sạch của người dân
sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng
thẳng về đường biên giới.
Dịch bệnh
Nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các con vật truyền
nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền nhiễm bệnh gây nguy hại đến sức khỏe
của nhiều bộ phận dân số trên thế giới.
Tổ chức WHO đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi
trên thế giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các
loại bệnh nhiệt đới.

Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu, từ
bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy.
Hạn hán
Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền miên thì một số nơi khác
lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài. Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt
và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản
lượng và nguồn cung cấp lương thực bị đe dọa, một lượng lớn dân số trên trái đất đang và sẽ
chịu cảnh đói khát.
Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi đang hứng chịu những đợt hạn hán,
lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình trạng này cịn tiếp tục kéo dài trong vài
thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm 2020, sẽ có khoảng 75 triệu đến 250 triệu người dân châu
Phi thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh tác, dẫn đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ
giảm khoảng 50%.
10


Bão lụt
Nhiệt độ nước ở các biển và đại dương ấm lên là nhân tố tiếp thêm sức mạnh cho các cơn
bão. Những cơn bão khốc liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng
những cơn giông bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đơi.
Những đợt nắng nóng gay gắt
Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với
trước đây, và dự đốn trong vịng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so
với hiện nay.
Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do nhiệt độ cao gây ra,
và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất.
Các núi băng và sông băng đang bị thu hẹp
Các núi băng và sông băng đang co lại. Những lãnh nguyên bao la từng được bao phủ bởi
một lớp băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các núi băng ở dãy
Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và canh tác của khoảng

500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm.
Mực nước biển đang dâng lên
Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ
tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng
nước đổ vào các biển và đại dương.
Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng
Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc hay các quốc
gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít nhất 6m
nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phố ven biển
khác sẽ hoàn toàn biến mất.

2. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
2.1.
Pháp luật quốc tế về chống biến đổi khí hậu là gì?

11


Pháp luật quốc tế về chống biến đổi khí hậu là một chế định pháp luật môi trường quốc
tế, bao gồm hệ thống các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ
phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế trong quá trình hợp tác trong lĩnh vực chống BĐKH.
2.2.

Vai trò của pháp luật quốc tế đối với biến đổi khí hậu

Một là, thiết lập một khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc hợp tác giữa các chủ thể nhằm
chống lại các tác động của BĐKH
Hai là, nâng cao ý thức và xác định trách nhiệm cho từng quốc gia trong việc ứng phó
với BĐKH trên cơ sở cơng bằng, phù hợp với trách nhiệm chung nhưng có phân biệt
Ba là, tạo ra những cơ sở để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia phát sinh trong quá

trình thực thi các cam kết trong các điều ước quốc tế
Bốn là, tạo tiền đề quan trọng cho việc hình thành một ngành luật mới, độc lập của luật
quốc tế.
2.3.

Nguyên tắc của pháp luật quốc tế về chống biến đổi khí hậu

Một là, chống BĐKH là nghĩa vụ của từng quốc gia và của cả cộng đồng quốc tế
Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu các quốc gia (đặc biệt là những nước chịu tác động nặng
nề nhất của BĐKH) phải chủ động xây dựng kế hoạch, chiến lược nhằm giảm thiểu và ứng phí
với BĐKH. Đồng thời,các quốc gia cũng phải xác định đây là cuộc chiến chung, dài hạn của
nhân loại.
Hai là, các quốc gia phát triển có trách nhiệm hỗ trợ tài chính và chuyển gia cơng nghệ
cho các nước đang phát triển chống BĐKH
Chống BĐKH là trách nhiệm chung của tất cả các quốc gia “nhưng có sự phân biệt”, tùy
vào mức độ phát triển và phát thải khác nhau, trong đó, trách nhiệm lớn thuộc về các quốc gia
phát triển.
Ba là, phát triền bền vững là cơ sở chống BĐKH ở từng quốc gia và trên toàn thế giới
Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ mơi trường để đảm bảo cho thế hệ hiện tại và mai sau
được sống trong một trường trong lành. Ngun tắc cịn cơng nhận quyền được phát triển của tất
cả các quốc gia trên cơ sở cơng bằng, bình đẳng, trong đó có ưu đãi cho các nước đang phát
triển thông qua các trợ giúp tài chính và kỹ thuật,…
Bốn là, ngăn ngừa và giảm thiểu tổn hại môi trường
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản đối với vấn đề chống BĐKH dựa trên cơ sở
thực tế là môi trường sẽ được bảo về một cách tốt nhất thông qua các biện pháp phịng ngừa
thiệt hại hơn là thơng qua các nỗ lực sửa chữa và đền bù sau khi thiệt hại đã xảy ra.
2.4.

Một số điều ước quốc tế về chống biến đổi khí hậu
2.4.1. Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozon


12


Nghị định thư Montreal là một hiệp ước quốc tế được thiết kế để bảo vệ tầng ozone bằng
cách loại bỏ dần việc sản xuất nhiều các chất được cho là gây ra sự suy giảm tầng ozone. Hiệp
ước này được ký kết vào ngày 16 tháng 9 năm 1987, và đã có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
1989, theo sau một cuộc họp đầu tiên tại Helsinki, tháng 5 năm 1989. Kể từ đó, nó đã trải qua
bảy sửa đổi: năm 1990 (London), 1991 (Nairobi), 1992 (Copenhagen), 1993 (Bangkok), 1995
(Viên), 1997 (Montreal), 1999 (Bắc Kinh). Người ta tin rằng nếu các thỏa thuận quốc tế được
tôn trọng, tầng ozone dự kiến sẽ phục hồi vào năm 2050. Nghị định thư Montreal đã được 196
quốc gia phê duyệt thơng qua và thực hiện rộng rãi. Nó đã được ca ngợi là một ví dụ về hợp tác
quốc tế đặc biệt. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lúc đó là Kofi Annan đã nói rằng "có lẽ thỏa
thuận quốc tế thành công nhất cho đến nay đã đạt được trên thế giới là Nghị định thư
Montreal" .
2.4.2. Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu

Cơng ước khung của Liên Hợp Quốc là một hiệp ước quốc tế về môi trường được đàm
phán tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED), thường được gọi
là Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất diễn ra tại Rio de Janeiro từ ngày 3 đến 14 tháng 6 năm 1992.
Mục tiêu của hội nghị là "ổn định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn
ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu".
Bản thân công ước này không ràng buộc giới hạn phát thải khí nhà kính cho các quốc gia
đơn lẻ và khơng bao gồm cơ chế thực thi. Do đó cơng ước này là không bắt buộc về mặt pháp
lý. Thay vào đó cơng ước cung cấp một bộ khung cho việc đàm phán các hiệp ước quốc tế cụ
thể (gọi là "nghị định thư") có khả năng đặt ra những giới hạn ràng buộc về khí nhà kính.
UNFCCC được mở ra để ký kết từ 9 tháng 5 năm 1992, sau khi một Ủy ban Đàm phán
Liên chính phủ xây dựng văn bản của công ước khung như một báo cáo theo sau cuộc họp tại
New York từ ngày 30 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm 1992. Nó bắt đầu có hiệu lực ngày 21 tháng 3
năm 1994. Tính đến tháng 5 năm 2011 UNFCCC đã có 195 bên tham gia.

Các bên tham gia Công ước gặp mặt hằng năm từ năm 1995 tại Hội nghị các bên (COP)
để đánh giá tiến trình đối phó với biến đổi khí hậu. Năm 1997, Nghị định thư Kyoto được ký kết
đã tạo ra những nghĩa vụ ràng buộc pháp lý cho các quốc gia phát triển nhằm cắt giảm khí thải
nhà kính. Các thỏa thuận Cancun năm 2010 tuyên bố rằng sự ấm lên toàn cầu trong tương lai
cần được giới hạn dưới 2,0 °C (3,6 °F) tương đương với mức tiền công nghiệp.
2.4.3. Nghị định thư Kyoto

13


Nghị định thư Kyoto là một nghị định liên quan đến Chương trình khung về biến đổi khí
hậu tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Bản dự thảo được kí kết vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ
ba khi các bên tham gia nhóm họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm
2005
Kể từ tháng 9 năm 2011 đã có khoảng 191 nước kí kết tham gia chương trình này. Trong
đó có khoảng 36 nước phát triển (với liên minh Châu Âu được tính là một) được u cầu phải có
hành động giảm thiểu khí thải nhà kính mà họ đã cam kết cụ thể trong nghị trình (lượng khí này
chiếm hơn 61.6% của lượng khí của nhóm nước Annex I cần cắt giảm). Nghị định thư cũng
được khoảng 137 nước đang phát triển tham gia kí kết trong đó gồm Brasil, Trung Quốc và Ấn
Độ nhưng không chịu ràng buộc xa hơn các vấn đề theo dõi diễn biến và báo cáo thường niên về
vấn đề khí thải.
Bên cạnh đó cũng cịn nhiều tranh cãi xung quanh mức độ hiệu quả của nghị định này
giữa các chuyên gia, khoa học gia và những nhà hoạt động môi trường. Một vài nghiên cứu về
phí tổn bỏ ra nhằm hậu thuẫn cho sự thành công của nghị định cũng đã được quan tâm tiến hành.
Nghị định thư Kyoto là một cam kết được tiến hành dựa trên các nguyên tắc của Chương
trình khung của Liên hiệp quốc về vấn đề biến đổi khí hậu. Trong đó những quốc gia tham gia kí
kết phải chấp nhận việc cắt giảm khí CO2 và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác, hoặc có
thể tiến hành biện pháp thay thế như Emission trading nếu không muốn đáp ứng yêu cầu đó.
Theo một bài báo về Chương trình biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc thì: Nghị định thư

đại diện cho sự thống nhất giữa các quốc gia cơng nghiệp trong vấn đề cắt giảm khí thải trên
5.2% so với năm 1990 (lưu ý rằng mức độ cắt giảm theo đó đến năm 2010 phải đạt được thì chỉ
tiêu này là khoảng 29%). Mục tiêu hướng đến việc giảm thiểu các loại khí carbon
dioxide, methane, nitơ ôxít, lưu huỳnh hexafluorua, clorofluorocarbon và perflourocarbon trong
khoảng thời gian 2008-2021. Mức trần đã được quy định cho các nước tham gia cụ thể là 8%
mức cắt giảm cho Liên minh Châu Âu và 7% cho Hoa Kỳ, 6% với Nhật Bản, 0% với Nga trong
khi mức hạn ngạch cho phép tăng của Úc là 8%, và 10% cho Iceland.
Đó là sơ thảo do Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc đưa
ra - UNFCCC khi được nhất trí trong Hội nghị thượng đỉnh tồn cầu tại Rio de Janeirovào 1992.
Khi đó chỉ có những nước thuộc Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu mới tham gia kí
kết. Sau đó Nghị định thư Kyoto mới được đệ trình trong phiên họp thứ ba của Hội nghị các bên
tham gia nằm trong Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu được tổ chức vào năm 1997
tại Kyoto, Nhật Bản.
14


Hầu hết những điều khoản trong Nghị định thư là yêu cầu dành cho các nước công
nghiệp phát triển - được liệt vào nhóm Annex I trong UNFCCC, và khơng có hiu lực đối với các
nguồn khí thải đến từ lãnh vực hàng không và hàng hải thuộc phạm vi quốc tế.
Nghị định thư giờ đây có hiệu lực với hơn 170 quốc gia, chiếm khoảng 60% các nước
liên quan đến vấn đề khí thải nhà kính. Tính đến tháng 12 năm 2007, Hoa Kỳ vàKazakhstan là
hai nước duy nhất khơng tiến hành các biện pháp cắt giảm dù có tham gia kí kết nghị định thư.
Hiệu lực của bản hiện tại sẽ hết vào năm 2012, để vun đắp thành cơng cho nghị trình hiện tại,
nhiều hội nghị quốc tế với sự tham gia của các bên liên quan đã được tiến hành từ tháng 5/2007.
2.4.4. Hội nghị lần thứ 21 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc

(COP 21)
Hội nghị COP 21 diễn ra từ ngày 29/11 đến ngày 13/12/2015 với sự tham gia của gần
40.000 đại biểu từ 195 quốc gia tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí
hậu. COP 21 diễn ra trong bối cảnh các quốc gia tăng cường nỗ lực ứng phó với các thách thức

an ninh phi truyền thống, trong đó có biển đổi khí hậu. Đây là một trong những hội nghị toàn
cầu lớn nhất trong năm 2015 được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Mục tiêu chính của
COP 21 là thơng qua một số khn khổ pháp lý tồn cầu mới về biến đổi khí hậu cho giai đoạn
sau năm 2020 (gọi là Thỏa thuận Pa-ri 2015), theo đó các nước cam kết cắt giảm lượng khí thải
nhằm hạn chế tăng nhiệt độ trung bình tồn cầu ở mức dưới 2 độ C vào cuối thế kỷ XXI so với
thời kỳ tiền công nghiệp 1850 - 1990. Hội nghị đã nhận được sự quan tâm và tham dự của lãnh
đạo Chính phủ và Nhà nước của 150 quốc gia.
Hội nghị bao gồm các phiên họp của Hội nghị lần thứ 21 các Bên tham gia Công ước
khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 21), Hội nghị lần thứ 11 các Bên tham gia
Nghị định thư Kyoto (CMP 11), Khóa họp thứ 43 Ban bổ trợ về tư vấn khoa học và cơng nghệ
(SBSTA 43), Khóa họp thứ 43 Ban bổ trợ về thực hiện (SBI 43), Khóa họp lần thứ hai Nhóm
cơng tác đặc biệt về thúc đẩy Diễn đàn Durban-phần 12 (ADP2.12).
Sau hai tuần đàm phán căng thẳng với các phiên họp kéo dài suốt đêm trong giai đoạn nước rút,
vào lúc 19h28 (giờ Paris) ngày 12/12, đại diện của 195 nước tham dự Hội nghị COP21 đã chính
thức thơng qua Thỏa thuận Paris. Thỏa thuận vừa đạt được là đánh dấu bước đột phá quan trọng
trong nỗ lực của Liên hợp quốc suốt hơn hai thập kỷ qua nhằm thuyết phục Chính phủ các nước
hợp tác để giảm lượng khí thải gây ơ nhiễm, hạn chế việc gia tăng nhiệt độ của Trái đất.
Bản Thỏa thuận Paris có 31 trang, 29 điều khoản và sẽ thay thế Nghị định thư Kyoto từ năm
2020. Thoả thuận Paris sẽ có hiệu lực trong vào 30 ngày sau khi có ít nhất 55 quốc gia, chiếm ít
nhất 55% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính tồn cầu phê chuẩn.
Về mục tiêu, thỏa thuận này đặt ra mức tăng nhiệt độ của Trái đất đến năm 2100 là thấp
hơn đáng kể so với ngưỡng 2 độ C và gắng tiến tới ngưỡng thấp hơn 1,5 độ C.
15


Thỏa thuận Paris còn đề ra cơ chế để mỗi nước tự nguyện rà sốt, theo đó từ năm 2023,
cứ 5 năm/lần Liên hợp quốc sẽ tổ chức đánh giá hiệu quả tổng hợp về các nỗ lực chống biến đổi
khí hậu của các nước. Việc đánh giá này sẽ giúp các nước có thêm thơng tin để cập nhật và tăng
cường các cam kết của họ.
Trong điều khoản về ‘tổn thất và thiệt hại’, các bên sẽ tăng cường hiểu biết, hành động và

hỗ trợ thông qua Cơ chế quốc tế về tổn thất và thiệt hại cùng với tác động của biến đổi khí hậu.
Các nước phát triển sẽ cung cấp nguồn lực tài chính để hỗ trợ các nước đang phát triển thích ứng
và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và các bên được khuyến khích cung cấp hoặc tiếp tục cung
cấp hỗ trợ này trên cơ sở tự nguyện. Mức đóng góp 100 tỷ đơ la mỗi năm cho đến năm 2020 tiếp
tục được khẳng định lại nhưng quan trọng là Thỏa thuận Paris xem con số 100 tỷ USD này
không đủ và đang kêu gọi tăng thêm. Đến năm 2025 sẽ lại đưa ra được một con số cụ thể khác
về đóng góp tài chính.
Được xem là hội nghị về chống biến khí hậu có ý nghĩa quyết định, COP 21 đã kết thúc
thành công khi thông qua Thỏa thuận Pa-ri. Thỏa thuận Pa-ri khơng chỉ dừng lại là một thỏa
thuận, mà cịn là một dấu mốc mới mở ra hy vọng cho hơn 9 tỷ người dân trên Trái đất, như
Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon tuyên bố: “Thỏa thuận Pa-ri về biến đổi khí hậu là
một thành cơng vĩ đại đối với hành tinh và người dân địa cầu. Ngày hơm nay, chúng ta cuối
cùng cũng có thể nói với con cháu chúng ta rằng, chúng ta đã chung tay cho việc để lại một thế
giới tốt đẹp hơn cho thế hệ mai sau”.
3. THỰC THI CHỐNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM

“Chúng ta đã mất 30 năm để tranh cãi xem có đúng là Trái đất đang ấm lên không. Giá như khi
ấy chúng ta hành động ngay thì cái giá phải trả ấy đã khơng q cao như bây giờ... chúng ta
khơng cịn thời gian để tranh cãi nữa, thế giới cần phải hành động ngay chứ không thể chần
chừ thêm nữa. Chúng ta không thể xa xỉ chuyển vấn đề này cho thế hệ sau quyết định” .
Achim Steiner (Giám đốc UNEP).
3.1.

Việc thực thi chống biến đổi khí hậu trên thế giới

Thứ 7 ngày 12/12/2015, 187 quốc gia trong tổng số 195 thành viên của Công ước Khung
của Liên hợp quốc về chống biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã đệ trình phương hướng, chương
trình hoạt động của họ. Đây đươc xem là cơ sở nền tảng định hướng các bước đi tiếp theo.
3.1.1. Giảm lượng khí thải


Trong tổng số đã nước tham gia vào việc đóng góp do quốc gia tự quyết ( INDCs), gần
90% quốc gia đã đưa ra các mục tiêu giảm nhẹ (nghĩa là giảm thải khí nhà kính) trên cấp độ
kinh tế. Như vậy tất cả các lĩnh vực – năng lượng, các quy trình cơng nghiệp, nơng nghiệp, các
chất thải cũng như rừng (lâm nghiệp) và việc sử dụng đất -đều được tính đến trong các khoản
16


đóng góp. Tất cả các nước phát triển và G20 cũng như phần lớn các quốc gia đang phát triển
(Ethiopia, Kenya, Morocco, Colombia …) đã chọn tuân theo loại cam kết đã nêu –tích cực giảm
lượng khí thải trên cấp độ kinh tế.
Các nước phát triển đã giữ đúng trách nhiệm của mình cũng như duy trì một “bộ phận
lãnh đạo” về mặt giảm phát thải khí-đặc biệt là EU với mức giảm ít nhất 40% vào năm 2030 so
với năm 1990, và Hoa Kỳ giảm 26-28% vào năm 2025 so với 2005 (Theo báo cáo INDC Mỹ).
Một số nước đang phát triển cũng đã tuân thủ theo việc giảm phát thải (như Cộng hòa Dominica,
Trinidad và Tobago), bao gồm các quốc gia nghèo nhất (Benin, Quần đảo Marshall), điều này
tạo nên sự đi đầu quan trọng đối với hầu hết các quốc gia.
Nếu như, Trung Quốc – nền kinh tế phát triển lớn thứ 2 thế giới với lượng khí thải hàng
năm chiếm tới gần 1/3 tổng lượng khí thải ra khí quyển (Theo xếp hạng của Maplecroft (Anh),
một trong những công ty tư vấn quản lý rủi ro hàng đầu thế giới), những năm trước vẫn còn
ngần ngại trong những cam kết đóng góp thì đến hơm nay, quốc gia này đã đồng ý thực hiện
những điều khoản của bản cam kết chung. Hơn thế Chính phủ Trung Quốc cam kết tăng thị phần
năng lượng phi hóa thạch, hỗ trợ các nước nghèo 3 tỉ USD chống biến đổi khí hậu (Theo Dự
kiến INDC của Trung Quốc) .
Như vậy tất cả các lĩnh vực – năng lượng, các quy trình cơng nghiệp, nơng nghiệp, các
chất thải cũng như rừng (lâm nghiệp) và việc sử dụng đất -đều được tính đến trong các khoản
đóng góp. Tất cả các nước phát triển và G20 cũng như phần lớn các quốc gia đang phát triển
(Ethiopia, Kenya, Morocco, Colombia …) đã chọn tuân theo loại cam kết về giảm lượng khí
thải.
3.1.2. Tái tạo năng lượng, sử dụng hiệu quả năng lượng sát cánh cùng quản lý rừng


bền vững
Các nền kinh tế tiên tiến nhất đã đưa năng lượng tái tạo vào trong cơ cấu năng lượng của
họ và đã có kế hoạch tăng cường sử dụng chúng để đạt được mục tiêu giảm nhẹ gánh nặng năng
lượng của họ: Nhật Bản đặt mục tiêu đạt 22-24% sản lượng điện từ các nguồn năng lượng tái tạo
vào năm 2030 và Liên minh châu Âu (EU) dự đoán rằng các nguồn năng lượng tái tạo sẽ đạt
27% mức tiêu thụ.
Các nền kinh tế kém phát triển hơn cũng đang thực hiện phần của họ: 40% các quốc gia
khơng thuộc G20 đã trình những đóng góp với mục tiêu cụ thể trong lĩnh vực này, chẳng hạn
như Jordan (11% của hỗn hợp năng lượng trong năm 2025), Bờ Biển Ngà (16% trong cơ cấu
năng lượng vào năm 2030, 32% với sự hỗ trợ quốc tế) hoặc Algeria (27% sản lượng điện quốc
gia vào năm 2030).
Các khu vực tiềm năng về tiết kiệm năng lượng đã được xác định: Các nước sẵn sàng
thông qua các thực hành hiệu quả nhất trên tất cả các cấp độ phát triển. Các biện pháp hiệu quả
17


năng lượng liên ngành (các tịa nhà, giao thơng, cơng nghiệp, vv) đã được lên kế hoạch bởi
nhiều quốc gia.
Rất nhiều quốc gia có rừng bao phủ, bao gồm những nước có kinh tế kém phát triển nhất,
đã dự liệu nhằm ngăn chặn, hoặc thậm chí đảo ngược, xu thế phá rừng hiện nay. Rừng thực tế
tạo thành các “giếng carbon” (đầm lầy carbon) tự nhiên đồng thời có lợi cho việc thích ứng và
bảo tồn đa dạng sinh học. Mexico đã đặt ra mục tiêu 0% nạn phá rừng vào năm 2030, trong khi
Cộng hòa Dân chủ Congo lên kế hoạch trồng khoảng 3 triệu ha rừng chậm nhất đến năm 2025.
Chương trình trồng rừng của Trung Quốc, đã được tiến hành, sẽ giúp tăng dự trữ rừng quốc gia
lên 4,5 tỉ mét khối vào năm 2030 so với năm 2005, gấp đơi so với những gì đã được thực hiện
trong thập kỉ qua.
3.1.3. Ưu tiên dự đoán các thảm họa thông qua các hệ thống cảnh báo sớm

Các quốc gia đặc biệt là các nước thuộc nhóm nước “dễ bị tổn thương” như Việt Nam, đã
tuyên bố rằng họ muốn tạo ra các hệ thống như vậy, hoặc gia cố những cái hiện có. Hệ thống

báo động sớm được thiết kế để phát hiện các sự kiện thời tiết cực đoan và để báo trước cho
người dân để họ có thể tìm nơi trú ẩn. Các hệ thống này có chi phí tương đối khiêm tốn và giúp
giảm thiểu thiệt hại về người và của khi xảy ra thiên tai. Hệ thống chủ động cảnh báo sớm các
rủi ro khí hậu (Crews), dẫn đầu bởi Pháp, nhằm mục đích đẩy nhanh việc triển khai các hệ thống
cảnh báo sớm.
3.1.4. ASEAN với chống biến đổi khí hậu

Đơng Nam Á là một khu vực có đường bờ biển dài, mật độ dân số cao, có nhiều hoạt
động kinh tế trong các khu vực ven biển và phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp, ngư nghiệp,
lâm nghiệp và các điều kiện tài nguyên tự nhiên.
Vị trí địa lý này đã khiến Đông Nam Á trở thành một trong những khu vực dễ bị tổn
thương nhất do các tác động của biến đổi khí hậu như nước biển dâng cao, lũ lụt và hạn
hán. Chúng ta chưa thể quên những thảm họa thiên tai mà các nước thành viên ASEAN từng
phải hứng chịu trong suốt thập kỷ qua như trận động đất lịch sử năm 2004 ở Ấn Độ Dương, cơn
bão Nargis năm 2008, lũ lụt ở Thái Lan năm 2011, bão Washi ở Philippines, Siêu bão Haiyan
năm 2013…
Theo phó Tổng Thư ký ASEAN Vongthep Arthakaivalvatee: Ở cấp hoạch định chính
sách, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã ra Tuyên bố liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu vào
các năm 2007, 2009, 2010 và 2014 Hội nghị Cấp cao -các báo cáo này đã chứng tỏ mối quan
tâm lớn của ASEAN về các vấn đề về biến đổi khí hậu và thể hiện rõ ASEAN đồng lịng hướng
tới q trình đàm phán diễn ra tại COP.

18


Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 27 vào tháng 11 vừa qua tại Kuala Lumpur,
Malaysia ASEAN đã thông qua "Tuyên bố ASEAN Post-2015 về tính bền vững của mơi trường
và khí hậu” nhằm chứng tỏ nỗ lực của các nước trong khu vực đối phó với thách thức chung phi
truyền thống. Những cam kết đã đạt được sẽ tạo nền tảng cho việc thực hiện các thỏa thuận đó
dự kiến sẽ có hiệu lực vào năm 2020.

Các nước đã nhất trí tăng cường hơn nữa các nỗ lực phát triển bền vững trong khu vực
ASEAN giai đoạn trước năm 2020; hỗ trợ cho các nước đang phát triển và kém phát triển nhất
để theo đuổi cơ hội phát triển bền vững, trong đó có các cam kết mạnh mẽ xuyên biên giới đồng
lợi ích ở các lĩnh vực thực phẩm, nước và an ninh năng lượng.
ASEAN cũng cam kết thúc đẩy tầm nhìn ASEAN trong Hội nghị khí hậu Paris và đã tổ
chức hai sự kiện bên lề tại COP 21: Diễn đàn “Hướng tới giảm thiểu khí carbon để kiểm sốt khí
hậu hướng tới Cộng đồng ASEAN sau năm 2015,” trong đó chú trọng vào giải pháp bền vững
cho việc sử dụng đất than bùn và chống khói mù.
Hội thảo "Hợp tác ASEAN về biến đổi khí hậu và tầm nhìn sau năm 2015" tổ chức vào
ngày 5/12 do Việt Nam phối hợp với ASEAN tổ chức cũng thảo luận về các chiến lược của
ASEAN trong khu vực, kế hoạch hành động, và mục tiêu thực hiện hướng tới khả năng ứng phó
với biến đổi khí hậu của các nước trong khu vực.
3.2.

Chống biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Là quốc gia thuộc nhóm nước “dễ bị tổn thương “các nhà khoa học dự đoán là đến cuối
thế kỷ XXI, tức đến năm 2100, mực nước biển có thể dâng cao 1 mét. Trong trường hợp đó,
4,4% diện tích của Việt Nam sẽ bị ngập vĩnh viễn, 6 triệu người dân sẽ bị ảnh hưởng. Mực nước
biển dâng cao 1 mét cũng sẽ ảnh hưởng đến các cơ sở hạ tầng, sản xuất công nghiệp và nông
nghiệp của Việt Nam. Nhận thức được những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đến sự
phát triển bền vững ở Việt Nam cũng như trên thế giới, đã từ lâu, Chính phủ Việt Nam ln quan
tâm xây dựng và thực hiện các chương trình, chính sách quốc gia về ứng phó với biến đổi khí
hậu. Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế quan trọng, đóng góp vào các q trình đàm
phát quốc tế về khí hậu.
3.2.1. Những hành động cụ thể

Trước năm 1986: Trong giai đoạn này, mặc dù nhà nước đã có chủ trương về việc bảo vệ
mơi trường, song thể chế hóa các chủ trương này trên thực tế cịn chưa tồn diện.
Giai đoạn 1986 đến nay :Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quan trọng như:

Công ước Vienna về bảo về tầng Ozon (1985) , Nghị định thư Montreal về các chất làm suy
giảm tầng Ozone (1987), Công ước Khung của Liên hợp quốc về chống BĐKH – UNFCCC
(1992), Nghị định thư Kyoto về cắt giảm khí thải nhà kính, Cuộc họp COP...Song song với đó,
19


là hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành hàng năm để tạo hành lang pháp lý cho việc
thực hiện các cam kết. Chỉ tính đến năm 2013, đã có tới hơn 30 văn bản các loại được ban hành..
Chưa dừng lại ở đó,Việt Nam tiếp tục cơng bố chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó
với Biến đổi khí hậu (NTP) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 2/12/2008 và trở
thành định hướng và chiến lược cơ bản quốc gia để ứng phó với BĐKH. Chương trình này được
thực hiện trên phạm vi tồn quốc theo ba giai đoạn: Khởi động (2009 - 2010), Triển khai (2011 2015) và Phát triển (sau 2015).
Chương trình tập trung vào các mục tiêu cụ thể:
-

Đánh giá mức độ biến đổi của khí hậu Việt Nam do BĐKH tồn cầu và mức độ tác động
của BĐKH đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương.
Xác định được các giải pháp ứng phó với BĐKH.
Tăng cường các hoạt động khoa học công nghệ nhằm xác lập các cơ sở khoa học và thực
tiễn cho các giải pháp ứng phó với BĐKH.
Củng cố và tăng cường năng lực tổ chức, thể chế, chính sách về BĐKH.
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm tham gia của cộng đồng và phát triển nguồn nhân lực
Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của quốc tế trong ứng phó
với BĐKH
Tích hợp vấn đề BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, phát triển ngành và địa phương
Xây dựng và triển khai các kế hoạch hành động của các bộ, ngành và địa phương ứng
phó với BĐKH; triển khai các dự án, trước tiên là các dự án thí điểm.

Tham gia COP 21, đoàn Việt Nam do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đã thể hiện

trách nhiệm, khẳng định cam kết chính trị mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam đã, đang và tiếp
tục chủ động, có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế chung tay nỗ lực ứng phó với biến đổi khí
hậu bằng những hành động cụ thể cả ở tầm quốc gia và quốc tế.
Một là, giai đoạn từ nay đến năm 2020, trong điều kiện khó khăn về nguồn lực nhưng
Việt Nam tiếp tục tích cực triển khai chiến lược, chương trình, kế hoạch về ứng phó với biến đổi
khí hậu trên nhiều lĩnh vực với các biện pháp thiết thực. Thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ
trong UNFCCC và Nghị định thư Kyoto. Việt Nam sẽ đóng góp 1 triệu USD vào Quỹ Khí hậu
xanh giai đoạn 2016 - 2020.
Hai là, đối với giai đoạn sau năm 2020, mặc dù là một nước đang phát triển còn nhiều
khó khăn, chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam vẫn cam kết giảm 8% lượng
phát thải khí nhà kính vào năm 2030 và có thể giảm đến 25% nếu nhận được hỗ trợ hiệu quả từ
cộng đồng quốc tế. Việt Nam sẽ xem xét định kỳ, điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế.

20


Để thực hiện được mục tiêu tham vọng trên, Việt Nam đã xây dựng các phương án giảm
phát thải khí nhà kính trong những lĩnh vực chính như: năng lượng, giao thông vận tải, nông
nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất và quản lý chất thải.
Trong lĩnh vực năng lượng, vốn được coi là nguồn phát thải chính, các biện pháp của Việt
Nam tập trung vào việc sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo.
Trong giao thông, Việt Nam hướng đến việc tăng sử dụng các phương tiện giao thông
công cộng, giảm phương tiện cá nhân tại các thành phố lớn, chuyển đổi sử dụng các loại nhiên
liệu ít phát thải như sử dụng các loại nhiên liệu mới, xăng sinh học…
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, Việt Nam xây dựng những phương án tăng khả năng hấp thụ
của rừng thông qua việc bảo tồn rừng bền vững, trồng rừng ngập mặn ở ven biển để làm tăng bể
chứa carbon, đồng thời cũng làm tăng khả năng phòng chống thiên tai khi xảy ra bão và lũ lụt ở
các vùng cửa sông và ven biển.
Tại Hội nghị COP21 lần này, Việt Nam lần đầu tiên sau 20 kỳ họp COP đã tổ chức thành
công chuỗi sự kiện bên lề về Việt Nam ứng phó với BĐKH (gian Việt Nam) với mục tiêu: giới

thiệu những thách thức và cơ hội do BĐKH mang lại; các sáng kiến, hoạt động và tiềm năng
trong hợp tác song phương và đa phương; các nỗ lực và hành động ứng phó với BĐKH; chia sẻ
những kết quả nghiên cứu khoa học, cơng nghệ về biến đổi khí hậu; giới thiệu tiềm năng thực
hiện tăng trưởng xanh, phát thải các bon thấp tại Việt Nam. Chuỗi sự kiện đã thu hút sự quan
tâm của hơn 500 đại biểu tham gia các hội thảo, trên 2.000 lượt đại biểu tham quan, gặp gỡ tại
khu triển lãm của Việt Nam.
Chương trình tại gian Việt Nam bao gồm 11 buổi hội thảo bên lề với các chủ đề có tính
thời sự và được cộng đồng thế giới quan tâm, bao gồm: Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết
định (INDC); Hợp tác quốc tế về biến đổi khí hậu; Các hành động giảm nhẹ khí nhà kính phù
hợp với điều kiện quốc gia (NAMA); Báo cáo cập nhật 2 năm một lần (BURs) và Thông báo
quốc gia (NCs); Giảm phát thải từ phá rừng và suy thối rừng (REDD+); Thích ứng với biến đổi
khí hậu (Adaptation); Kinh nghiệm của các quốc gia trong việc triển khai Chiến lược phát thải
thấp (LEDS); Hệ thống quốc gia về đo đạc, theo dõi và kiểm chứng (MRV) và mức tham chiếu
(RFLs) để thực hiện REDD+; phiên ASEAN; Các hành động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với
điều kiện quốc gia (NAMA) trong Công nghiệp và Giao thông vận tải; Phiên hợp tác Việt NamHàn Quốc.
Sự tham gia tích cực cũng như cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong cuộc chiến chống
biến đổi khí hậu tại Hội nghị COP 21 đã được nhiều quốc gia chia sẻ và đánh giá cao, qua
đó đóng góp thiết thực cho thành công của Hội nghị lịch sử này.

21


3.2.2. Khó khăn Việt Nam phải đối mặt

Thứ nhất, đó là sự yếu kém về nhận thức của toàn xã hội, ở mọi cấp, từ các nhà hoạch
định chính sách, các cán bộ ở các ngành và địa phương, các tổ chức xã hội cũng như bản thân
các cộng đồng về tác động của BĐKH. Vì thế, nâng cao nhận thức về BĐKH rõ ràng là hoạt
động cần được ưu tiên đầu tiên, phải được làm ngay và làm một cách hệ thống đối với mọi tầng
lớp trong xã hội.
Thứ hai, là khả năng tích hợp các vấn đề BĐKH vào các q trình hoạch định chính sách:

các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển và sự phối hợp điều hành thực hiện
giữa các ban ngành, giữa các cấp từ Trung ương tới địa phương. Đây chính là vấn đề xây dựng
năng lực gồm năng lực tổ chức, năng lực khoa học công nghệ, năng lực con người… Các hoạt
động này có lẽ cần phải đi trước một bước và cũng phải làm ngay từ bây giờ, trong đó chức
năng quan trọng thuộc về các cơ quan giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ…
3.2.3. Giải pháp hoàn thiện và tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật quốc tế về

chống biến đổi khí hậu ở Việt Nam
3.2.3.1.
Ở phương diện quốc tế
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương và đa phương về các vấn
đề liên quan đến hoạt động chống biến đổi khí hậu
Thứ hai, tích cực tham gia vào tiến trình xây dựng thỏa thuận tồn cầu mới về biến đổi
khí hậu.
Thứ ba, nghiêm chỉnh thực thi các nghĩa vụ pháp lý trong Vienna. Nghị định thư
Montreal, UNFCCC,... và những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ ký kết hoặc tham gia.
3.2.3.2.

Ở phương diện quốc gia

Một là, tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật quốc gia về chống biến đổi khí hậu: Tiến
hành ra sốt tồn bộ hệ thống các văn bản pháp luật quy định về vấn đề chống biến đổi khí hậu
nhằm có những điều chỉnh hợp lý, kịp thời, phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; nghiên
cứu việc xây dựng, ban hành luật biến đổi khí hậu và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
dưới luật; tăng cường sự tham gia của toàn hệ thống chính trị trong cơng tác tổ chức, chỉ đạo,
phối hợp liên ngành về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa nhu cầu phát triển kinh tế với nhiệm vụ chống biến
đổi khí hậu: Trong thời gian tới, cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên tiếp tục xây dựng những
kế hoạch, lộ trình thực hiện chống biến đổi khí hậu cụ thể hơn nữa; cân đối giữa các nguồn chi
22



cho cả nhu cầu phát triển và nhiệm vụ chống biến đổi khí hậu để các hoạt động chống biến đổi
khí hậu ở Việt Nam ngày càng đi vào thực chất và thiết thực hơn.
Ba là, chủ động ứng phó với thiên tai, giảm nhẹ thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. Xây
dựng và vận hành hiệu quả hệ thống giám sát biến đổi khí hậu và nước biển dâng đáp ứng yêu
cầu xây dựng bản đồ ngập lụt, bản đồ rủi ro thiên tai, khí hậu theo các kịch bản biến đổi khí hậu
và nước biển dâng; hiện đại hóa hệ thơng quan trắc và cơng nghệ dự báo khí tượng thủy văn bảo
đảm cảnh báo, dự báo sớm các hiện tượng khí hậu cực đoan; đảm bảo an ninh lương thực, an
ninh tài nguyên nước, an ninh năng lượng...
Bốn là, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực: Việc đào tạo, hình thành nguồn cán
bộ chật lượng cao về biến đổi khí hậu là một nhu cầu cấp bách, bởi lẽ, nguồn cán bộ này khơng
chỉ góp phần tham gia trực tiếp vào q trình chuẩn bị, đàm phán các điều ước quốc tế về biến
đổi khí hậu mà cịn là nguồn cố vấn quan trọng cho q trình xây dựng, ban hành các chính
sách, pháp luật về biến đổi khí hậu của quốc gia.
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chống biến đổi khí hậu: Tăng cường
hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong quá trình thức hiện UNFCCC, KP và các
điều ước quốc tế khác có liên quan. Tăng cường thơng tin đối ngoại về biến đổi khí hậu, chú
trọng các hoạt động hợp tác trong giám sát, chia sẻ thông tin trong các vấn đề xun biến giới
nhằm đảm bảo hài hịa lợi ích giữa các quốc gia.
Sáu là, tuyên truyền nâng cao nhận thức về các tác động của biến đổi khí hậu và hoạt
động chống biến đổi khí hậu cho mọi tâng lớp nhân dân: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
cán bộ, công chức, viên chức và các thành phần xã hội về các vấn đề biến đổi khí hậu; đưa kiến
thức cơ bản về biến đổi khí hậu vào trong các chương trình, bậc giáo dục, đào tạo; tăng cường ý
thức, trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm hỗ trợ cộng đồng trong phịng, tránh rủi ro thiên tai;
khuyến khích, nhân rộng các điển hình tốt trong ứng phó với biến đổi khí hậu.

23



KẾT LUẬN
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21.
Những nghiên cứu đã chỉ ra: Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm
trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Nhận thức
được điều này, cộng đồng quốc tế đã có những hành động thiết thực nhằm tạo ra một khuôn khổ
pháp lý chung điều chình vấn đề hợp tác chống biến đổi khí hậu trên phạm vi tồn thế giới. Mặc
dù vẫn cịn những hạn chế nhất định, nhưng cũng khơng thể phủ nhận rằng, thế giới đang rất nỗ
lực nhằm đưa ra những thỏa thuận chung về các khuôn khổ pháp lý tồn cầu mới để chống lại
biến đổi khí hậu. Những nguyên tắc, quy phạm này đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng điều
chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của pháp luật quốc tế trong q trình hợp tác chống
biến đổi khí hậu.
Là một quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, Việt Nam ln coi
chống biến đổi khí hậu là một cuộc chiến có ý nghĩa sống còn và mang tầm chiến lược. Trong
những năm qua, Việt Nam đã rất tích cực trong việc thực thi các cam kết quốc tế về chống biến
đổi khí hậu ở cả phương diện lập pháp và triển khai thực hiện. Tuy nhiên, công tác thực thi và
cam kết quốc tế về chống biến đổi khí hậu của Việt Nam trong thời gian qua cũng cịn một số
khó khăn và hạn chế nhất định. Những hạn chế này xuất phát từ cả yếu tố chủ quan và yếu tố
khách quan. Mặc dù còn những hạn chế, nhưng những kết quả đạt được đã khẳng định tinh thần
trách nhiệm, sự chủ động tận tâm và thiện chí của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề
chung của cộng đồng quốc tế.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, />2, />3, />4, />5, Thế Tơn, 2010, “Biến đổi khí hậu là gì?”, />6, Ngô Huyền, “Thực trạng và hậu quả của việc biến đổi khí hậu”, Cổng thơng tin điện tử
Thành phố Đà Nẵng,
/>p_pers_id=&p_folder_id=14197682&p_main_news_id=29803523
7, “Thành công của Hội nghị COP21 - Cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong cuộc chiến chống
biến đổi khí hậu”, 2015, Cơng thơng tin điện tử về Hội nghị các bên tham gia công ước khung

của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 21- Bộ Tài ngun và Mơi trường,
/>8, Văn phịng Ban chỉ đạo Ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng thành phố Đà Nẵng,
/>9, Tùng Lâm, 2016, “COP21 và sự tham gia của Việt Nam”, Tạp chí Cộng Sản,
/>10, Nguyễn Thị Hồng Yến, 2011, LV “Pháp luật quốc tế về chống biến đổi khí hậu và việc thực
hiện các cam kết của Việt Nam”, />11, “Các nước ASEAN đồng lòng ứng phó với biến đổi
/>option=com_content&view=article&id=9993&catid=35&Itemid=130

khí

hậu”,

2015,

25


×