Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình theo quy định của luật hôn nhân gia đình 2014.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.82 KB, 14 trang )

A.MỞ ĐẦU
Chăm sóc, nuôi dưỡng nhau vừa là quyền vừa là trách nhiệm của các thành
viên trong gia đình. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghĩa vụ nuôi dưỡng cũng có
thể thực hiện được. Trong cuộc sống, nhiều người do những nguyên nhân khách
quan, chủ quan lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu, cần sự giúp đỡ của người
khác nhưng không phải lúc nào, người có nghĩa vụ nuôi dưỡng có thể không có
điều kiện thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng với nhiều lí do khác nhau. Trong những
trường hợp như vậy, việc xác định ai là người có trách nhiệm trợ giúp luôn là vấn
đề có ý nghĩa. Trong trường hợp này, để củng cố sự phát triển bền vững của mỗi cá
nhân, gia đình và toàn xã hội, chế định cấp dưỡng trong Luật hôn nhân gia đình
( HN-GĐ) góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề này. Trong Luật HN-GĐ
năm 2014 lần đầu tiên các quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình
được điều chỉnh tương đối toàn diện và các quy phạm điều chỉnh quan hệ cấp
dưỡng được quy định thành một chương độc lập. Vì vậy, đề hiểu rõ hơn về chế
định này, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “ Cấp dưỡng giữa các thành
viên trong gia đình theo quy định của luật hiện hành” để nghiên cứu. Trong quá
trình thảo luận và làm bài, do phạm vi kiến thức hạn hẹp, bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung ý kiến của các thầy
cô và các bạn để những bài viết sau của tôi được hoàn chỉnh hơn.

B.NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về cấp dưỡng
1. Khái niệm cấp dưỡng
Hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa những
người có quan hệ gia đình. Bên cạnh nghĩa vụ nuôi dưỡng, những người có
quan hệ gia đình còn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau. Theo Khoản 1 Điều
107 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định : “ Nghĩa vụ cấp
dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa
ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu
ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng
không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người


khác.” Xét dưới góc độ thì nghĩa vụ cấp dưỡng và nghĩa vụ nuôi dưỡng có
mối quan hệ nội tại với nhau. Như vậy, những người có quyền và nghĩa vụ
cấp dưỡng cho nhau cũng chính là những người có quyền và nghĩa vụ nuôi
dưỡng nhau ( trừ trường hợp cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn). Tuy
nhiên, nghĩa vụ cấp dưỡng và nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con, giữa


anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa cô (dì, chú, bác, cậu) không
đồng thời phát sinh cùng một thời điểm. Chỉ những người có nghĩa vụ nuôi
dưỡng thì họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình bằng cách đóng góp tiền
hoặc tài sản khác để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người được nuôi dưỡng.
Vì vậy, xuất hiện một nghĩa vụ mới đó là nghĩa vụ cấp dưỡng.
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm cấp dưỡng như sau:
Cấp dưỡng là nghĩa vụ phát sinh giữa những người không chung sống với
nhau nhưng đang có hoặc đã có quan hệ gia đình trong việc đảm bảo cuộc
sống cho những người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng trong
tình trạng mất hoặc bị giảm sút khả năng lao động, không có thu nhập hoặc
không có tài sản hoặc tuy có nhưng không đủ để đảm bảo cuộc sống của
mình. Cấp dưỡng còn là biện pháp chế tài đối với những người có hành vi
trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.

2. Đặc điểm của cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng có những đặc điểm sau:
- Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ về tài sản mang tính chất khác biệt là
không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác
Khi chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là người chưa thành
niên hoặc là người đã thành niên không có khả năng lao động và không có
tài sản để nuôi mình cần được cấp dưỡng thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng
phải chu cấp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu, nhằm đảm
bảo cuộc sống của họ. Nếu nghĩa vụ cấp dưỡng được thay thế bằng nghĩa vụ

khác thì có nghĩa là người được cấp dưỡng không được nhận tài sản, như
vậy thì cuộc sống của họ vẫn bị đe dọa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ
không được đảm bảo. Vì vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng
nghĩa vụ khác.
- Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể chuyển giao cho người khác
Trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, các quyền và nghĩa vụ về tài
sản luôn gắn liền với nhân thân của mỗi chủ thể mà không thể chuyển giao
cho người khác. Do vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các chủ thể trong quan hệ
pháp luật hôn nhân gia đình chỉ phát sinh giữa các chủ thể của quan hệ pháp
luật hôn nhân và gia đình, gắn với mỗi chủ thể mà không thể chuyển giao
cho người khác.
Ví dụ: Cha, mẹ phải cấp dưỡng cho con nhưng khi cha, mẹ chết thì nghĩa vụ
cấp dưỡng của họ đối với con chấm dứt( nghĩa vụ đó không được chuyển
cho những người thừa kế)
- Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ có đi có lại nhưng không mang tính chất
đồng thời và tuyệt đối


Tính chất có đi có lại thể hiện ở chỗ các chủ thể đều có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho nhau nếu một bên rơi vào tình trạng cần được cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp
dưỡng không mang tính chất đồng thời, có nghĩa là trong cùng một thời
điểm thì chỉ có một bên cấp dưỡng cho bên kia, không thể ngược lại là bên
kia lại cấp dưỡng cho bên này. Bởi vì nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi
một bên cần được cấp dưỡng và bên kia có khả năng. Nghĩa vụ cấp dưỡng
không mang tính chất tuyệt đối bởi nghĩa vụ này không phải luôn xảy ra với
các chủ thể mà nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi có những điều kiện
nhất định. Không phải khi nào cha, mẹ cũng phải cấp dưỡng cho con và con
cũng phải cấp dưỡng cho cha, mẹ.

3. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng


-

-

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các
thành viên trong gia đình trong các trường hợp cụ thể. Từ đó có thể nhận
định rằng, để phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia
đình phải có điều kiện nhất định. Nếu thiếu một trong các điều kiện đó thì
nghĩa vụ cấp dưỡng không phát sinh. Các điều kiện đó là :
Người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải có quan hệ
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và đã từng có quan hệ hôn nhân
Người được cấp dưỡng và người phải cấp dưỡng không sống chung với nhau
hoặc người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên không có khả năng lao
động và không có tài sản để nuôi mình hoặc là người có khó khăn, túng
thiếu.
Người phải cấp dưỡng có khả năng thực hiện nghĩa vụ

4. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng

-

Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng là việc người phải cấp dưỡng ngừng việc
đóng tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp
dưỡng. Luật hôn nhân và gia đình không quy định thời hạn cấp dưỡng mà
chỉ quy định các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Điều 118 Luật
hôn nhân gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ chấm dứt cấp dưỡng trong
các trường hợp sau đây:
Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài

sản tự nuôi mình
Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi
Người được cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng
Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết
Bên cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn
Các trường hợp khác theo pháp luật


Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình quy định các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ
cấp dưỡng, khi nghĩa vụ cấp dưỡng đang thực hiện mà có một trong các căn cứ
trên thì nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt. Nghĩa vụ cấp dưỡng có thể được
thực hiện trên cơ sở tự nguyện và thỏa thuận giữa bên có nghĩa vụ cấp dưỡng và
bên được cấp dưỡng hoặc được thực hiện theo quyết đinh của Tòa án thì khi có
một trong các căn cứ trên , người có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc người giám hộ
của người được cấp dưỡng có quyền thông báo bằng văn bản với cơ quan thi
hành án để cơ quan thi hành án ra quyết định chấm dứt thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng.

II. Những quy định chung về cấp dưỡng theo luật hôn
nhân và gia đình năm 2014.
1. Mức cấp dưỡng
Mức cấp dưỡng là một khoản tiền, lương thực hoặc tài sản khác mà bên cấp
dưỡng đóng góp cho bên được cấp dưỡng để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của bên
được cấp dưỡng. Theo điều 116 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định
về mức cấp dưỡng như sau:
“1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng
hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng
thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được
cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức

cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa
án giải quyết.”
Khi xác định mức cấp dưỡng phải căn cứ vào hai yếu tố sau: Thu nhập, khả
năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng. Từ đó sẽ xảy ra 2 khả năng, một là người có nghĩa vụ cấp
dưỡng chỉ phải cấp dưỡng theo khả năng của họ mà với mức cấp dưỡng đó thì
không đủ để đáp ững nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, tức là mức
cấp dưỡng không thể vượt quá khả năng của người phải cấp dưỡng, dù là mức
đó thấp hơn nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Hai là, người có
nghĩa vụ cấp dưỡng phải đóng góp mức cấp dưỡng bằng hoặc cao hơn nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả
năng về kinh tế.


Mức cấp dưỡng có thể thay đổi khi có lý do chính đáng như: Nhu cầu thiết yếu
của người được cấp dưỡng tăng lên; khả năng kinh tế của người có nghĩa vụ cấp
dưỡng giảm đi; … Thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không
thỏa thuận được thì tòa án giải quyết.

2. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Việc cấp dưỡng có thể
được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một
lần. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng
cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng
khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”
Việc cấp dưỡng được thực hiện theo các phương thức quy định tại Điều 117,
Luật hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, cấp dưỡng được thực hiện theo hai
phương thức sau đây:
- Cấp dưỡng theo định kỳ: Đây là phương thức cấp dưỡng được ưu tiên và

thường được sử dụng trên thực tế, là cấp dưỡng theo hằng tháng, hằng quý, nửa
năm, hằng năm.
- Cấp dưỡng một lần: Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần
thường do các bên tự thỏa thuận và được Tòa án công nhận. Tòa án quyết định
phương thức cấp dưỡng này trong các trường hợp:
+ Người có nghĩa vụ cấp dưỡng yêu cầu và được Tòa án đồng ý.
+Theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó
yêu cầu trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuyên có các
hành vi phá tán tài sản hoặc cố tính trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng mà hiện tại họ có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần và
được tòa án chấp nhận.
+ Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà có thể
trích từ phần tài sản được chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Sau khi người có nghĩa vụ thực hiện cấp dưỡng một lần thì theo nguyên tắc,
nghĩa vụ cấp dưỡng đã chấm dứt. Nhưng nếu người được cấp dưỡng nếu lâm
vào tình trạng khó khăn trầm trọng do tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo,…
những trường hợp thực sự cần thiết phải có sự giúp đỡ thì người có nghĩa vụ
phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu người được cấp dưỡng hoặc người giám


hộ, người đại diện của người được cấp dưỡng nếu người có nghĩa vụ có khả
năng thực tế có thể cấp dưỡng ở mức cao hơn.
Khi lựa chọn phương thức cấp dưỡng nên căn cứ vào hình thức thu nhập của
bên có nghĩa vụ cấp dưỡng. Phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi theo thỏa
thuận các bên hoặc do Tòa án quyết định nếu có lý do chính đáng. Khi người có
nghĩa vụ cấp dưỡng rơi vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ thi sẽ tạm ngừng việc cấp dưỡng.

3. Người có quyền yêu cầu cấp dưỡng:
- Quyền yêu cầu được cấp dưỡng:

Cấp dưỡng chính là một phương thức để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng. Nhưng
người có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng nếu sống chung với
nhau thì có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau, nếu không sống chung thì có nghĩa vụ
cấp dưỡng. Do vậy, thông thường khi một người có nghĩa vụ nuôi dưỡng người
khác mà họ không thể cùng chung sống với người đó để thực hiện nghĩa vụ
nuôi dưỡng thì họ tự nguyện đóng góp tiền hay tài sản khác để đảm bảo cuộc
sống của người mà họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Trong các trường hợp trên nghĩa
vụ cấp dưỡng được thực hiện tự nguyện trên cơ sở đạo lí mà không cần phải có
bất kì một yêu cầu nào. Tuy nhiên, cũng có thể xuất hiện tình huống mà người
có nghĩa vụ cấp dưỡng không biết được nghĩa vụ của mình hoặc có nhận biết
được nghĩa vụ của mình nhưng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thì người
cần được cấp dưỡng phải yêu cầu. Trước hết, người có quyền được cấp dưỡng
hoặc người đại diện của người đó xác định người có nghĩa vụ và trực tiếp yêu
cầu người này thực hiện nghĩa vụ. Khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trên cơ sở
tự nguyện thì bên có nghĩa vụ cấp dưỡng và bên được cấp dưỡng hoặc người
giám hộ của bên được cấp dưỡng thỏa thuận với nhau về phương thức cấp
dưỡng, mức cấp dưỡng cho phù hợp với khả năng của bên có nghĩa vụ và nhu
cầu của bên có quyền. Các bên có thể thỏa thuận miệng hoặc lập văn bản. Nếu
lập thỏa thuân bằng văn bản thì ghi rõ ngày bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng, mức cấp dưỡng, phương thức thực hiện và các nội dung khác như thay
đổi mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng…
- Quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng:
Trong trường hợp người phải cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện, thực hiện
không đúng nghĩa vụ hoặc người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ thì người có quyền được cấp dưỡng hoặc được nuôi dưỡng và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.


Tại điều 119 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định rõ về người có
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng:

1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người
không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b,
c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Khi nhận được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức, Tòa án phải tiến hành điều tra, xác minh nếu có căn cứ cho rằng người
yêu cầu được cấp dưỡng có đủ diều kiện để được cấp dưỡng và bên có nghĩa vụ
có khả năng để cấp dưỡng thì Toàn án quyết định người có nghĩa vụ cấp dưỡng
phải cấp dưỡng theo khả năng của họ. Mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng
do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuân được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ của
mình theo quyết định của Tòa án thì người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ
của người đó có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định buộc người có
nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện ghĩa vụ đó.

III. Các trường hợp cấp dưỡng
1. Cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con
- Cha, mẹ cấp dưỡng cho con:
Theo Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ cấp

dưỡng của cha, mẹ đối với con như sau : “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho


con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc
sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.”
Như vậy, cha, mẹ cấp dưỡng cho con trong các trường hợp sau:
+ Cha mẹ không trực tiếp nuôi con khi cha mẹ ly hôn
+ Cha mẹ không sống chung với con do phải học tập công tác xa
+ Người cha hoặc mẹ phải cấp dưỡng cho con ngoài giá thú khi người con
đó không sống chung với họ
+ Cha hoặc mẹ trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con
- Con cấp dưỡng cho cha mẹ
Theo Điều 111 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau: “ Con
đã thành niên không sống chung với cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha,
mẹ trong trường hợp cha, mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình.”
Pháp luật quy định các con có quyền bình đẳng với nhau trong việc được cha
mẹ cấp dưỡng. Do đó, con trai, con gái, con đẻ, con nuôi, con trong thời kì hôn
nhân, con ngoài hôn nhân được cha mẹ cấp dưỡng như nhau. Khi cha mẹ ốm
đau, già yếu, bệnh tật thì con có nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ. Nghĩa
vụ cấp dưỡng của con cái đối với cha mẹ xuất phát trên cơ sở này. Trong việc
cấp dưỡng cho cha mẹ, các con phải cùng nhau thực hiện nghĩa vụ đó.Con cấp
dưỡng cho cha mẹ trong các trường hợp sau:
+ Con không chung sống với cha, mẹ như: con đã kết hôn và được cha mẹ
cho ở riêng, con đi làm ăn xa,…
+ Con trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng cha, mẹ.

2. Cấp dưỡng giữa anh, chị, em với nhau
Theo Điều 112 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định nghĩa vụ

cấp dưỡng giữa anh, chị, em như sau: “Trong trường hợp không còn cha mẹ
hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng
cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã
thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”
Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em xảy ra khi:


- Không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài
sản để cấp dưỡng cho con
- Trong số anh, chị, em có người chưa thành niên và không có tài sản để tự
nuôi mình hoặc có người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em với nhau được hiểu là đứng sau nghĩa vụ
nuôi dưỡng hoặc nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con. Cha, mẹ phải có
nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng cho con chưa thành niên hoặc con đã
thành niên không có khả năng lao động. Nếu không còn cha mẹ hoặc cha mẹ
không có khả năng để nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng cho con thì anh, chị, em phải
cấp dưỡng cho nhau. Đồng thời, nghĩa vụ cấp dưỡng của anh, chị, em chưa
thành niên có điểm khác với nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con chưa
thành niên là người được cấp dưỡng phải là người không có tài sản. Nếu người
chưa thành niên nhưng vẫn có tài sản để nuôi mình thì anh, chị cũng không có
nghĩa vụ cấp dưỡng. Quy định này nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt
đẹp của gia đình Việt Nam.

3. Cấp dưỡng giữa ông bà với cháu
Theo Điều 113 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“1. Ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp

dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành
niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có
người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 112 của Luật này.
2. Cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa
vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có
khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác
cấp dưỡng theo quy định của Luật này.”
Vì vậy, ông bà ngoại và ông bà nội phải cấp dưỡng cho cháu khi:
- Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự mình nuôi thân.
- Cháu không còn cha mẹ, không có anh, chị, em hoặc còn cha mẹ và có anh,
chị, em nhưng những người này không có khả năng để nuôi dưỡng hoặc cấp
dưỡng cho cháu.


Về nguyên tắc, ông bà nội và ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu như
nhau. Do vậy, ông bà nội, ông bà ngoại thỏa thuận với nhau về mức cấp dưỡng
và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sao cho phù hợp với thu nhập,
khả năng thực tế của ông bà và phù hợp với nhu cầu thiết yếu của cháu. Nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà ngoại, ông bà nội khi:
- Ông bà ngoại và ông bà nội không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình.
- Ông bà ngoại và ông bà nội không còn con, không có anh, chị, em hoặc tuy
còn con và có anh, chị, em nhưng những ngưòi này không có khả năng để
nuôi dưỡng hoặc cung cấp cho họ.
Cháu nội, cháu ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nôi, ông bà ngoại như
nhau. Do đó, khi ông bà nội, ông bà ngoại cần được cấp dưỡng thì các cháu nội,
cháu ngoại thỏa thuận với nhau về mức cấp dưỡng và phương thức thwucj hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng sao cho phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của mỗi

người và phù hợp với nhu cầu thiết yếu của ông bà nội, ông bà ngoại. Nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu
Đây là điểm mới trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được quy định tại
Điều 114 mà Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa có quy định về vấn đề
này Theo Điều 114 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định :
“1. Cô, dì, chú, cậu, bác ruột không sống chung với cháu ruột có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành
niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà
không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
2.Cháu đã thành niên không sống chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột có nghĩa
vụ cấp dưỡng cho cô, dì, chú, cậu, bác ruột trong trường hợp người cần được
cấp dưỡng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà
không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.”
Theo đó, cháu vẫn còn nhỏ, không có khả năng lao động, không có người nuôi
dưỡng thì cô, dì, chú, cậu, bác ruột của cháu bé có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
cháu.

5. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng


Theo Điều 115 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa vợ chồng khi ly hôn quy định: “ Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu
có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp
dưỡng theo khả năng của mình”.
Có hai điều kiện để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng :
- Một bên khó khăn, túng thiếu, có yêu cầu được cấp dưỡng và có lý do chính
đáng ( do ốm đau, già yếu, mất sức lao động hoặc hạn chế khả năng lao động...
dẫn đến không có hoặc không đủ tài sản để sinh sống)

- Bên kia có khả năng cấp dưỡng ( có sức khoẻ, có việc làm ổn định và có thu
nhập vừa đảm bảo cuộc sống, vừa thực hiện được nghĩa vụ cấp dưỡng).
Nếu cả hai người đều túng thiếu, thì mỗi người phải tự xoay sở, không ai có
trách nhiệm cấp dưỡng cho ai.
Ðể nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn được xác lập, cần có một
bên sống trong cảnh túng thiếu và bên kia có đủ điều kiện để hỗ trợ. Sự túng
thiếu của một bên, trong suy nghĩ của người làm luật, có nguồn gốc từ tình
trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Thế nào
là không có khả năng lao động tùy thuộc vào sự đánh giá của thẩm phán. Người
thất nghiệp chưa chắc là không có khả năng lao động; người khuyết tậtt cũng có
thể có khả năng lao động. Bên vợ - chồng rơi vào hoàn cảnh khó khăn, túng
thiếu phải chứng minh sự khó khăn, túng thiếu của mình.
Mức cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn do người có nghĩa vụ cấp
dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận
căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu
cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu
Tòa án giải quyết.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng trong vụ án ly hôn chấm dứt khi bên được
cấp dưỡng kết hôn với người khác.

IV. Thực trạng và phương hướng giải quyết
Trên thực tế, việc áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình về chế
định cấp dưỡng còn nhiều vấn đề bất cập. Sau đây là một số bất cập tiêu biểu và
đáng quan tâm:
* Thực tiễn giải quyết các trường hợp cấp dưỡng khi li hôn:


Trong thực tiễn, hầu hết các trường hợp sau khi ly hôn vấn đề cấp dưỡng chưa
bảo đảm quyền lợi của đứa con sau khi ly hôn. Việc yêu cầu cấp dưỡng sau khi
ly hôn trên thực tế đang còn nhiều khó khăn, bất cập. Chưa nói đến trường hợp

khoản tiền cấp dưỡng sau khi ly hôn là “nợ khó đòi” đối với một số trường hợp;
cả trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện việc cấp dưỡng
theo đúng quy định của bản án mà tòa án đã tuyên thì cũng chưa đáp ứng được
“nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng”. Cụ thể thì việc vận dụng các
quy định về cấp dưỡng cho con khi li hôn vẫn còn những hạn chế, đó là:
- Có nhiều trường hợp tòa án công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về việc một
bên trực tiếp nuôi con và bên không trực tiếp nuôi con không phải cấp dưỡng
cho con. Thực chất đây là sự thỏa thuận trái pháp luật nhưng vẫn được nhiều
cặp vợ chồng thực hiện vì xuất phát từ nguyện vọng muốn được nuôi con nên
một bên thỏa thuận với bên kia là chấp nhận cho họ được nuôi con thì họ sẽ
không yêu cầu cấp dưỡng cho con.
- Thực tế giải quyết li hôn đã xuất hiện nhưng trường hợp vì hoàn cảnh mà cả
vợ và chồng đều không trực tiếp nuôi con chung nên con chung đã được giao
cho người thứ ba trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc giao con chung cho
người thứ ba chăm sóc, nuôi dưỡng chưa được pháp luật trực tiếp quy định
nhưng đã có tòa án chấp nhận.
- Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con thuộc diện cần được cấp dưỡng
trong trường hợp ly hôn do một bên mất tích hoặc một bên vắng mặt chưa thực
sự thỏa đáng. Tại các tòa án số lượng ly hôn thuộc các trường hợp này không
nhỏ. Tuy vậy, khi giải quyết ly hôn, tòa án chỉ quyết định giao con cho bên ở
nhà trực tiếp nuôi mà mà không quyết định bên kia phải cấp dưỡng. Như vậy,
quyền và lợi ích hợp pháp của con không được đảm bảo. Để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của con cần phải có những biện pháp thích hợp đối với tình
huống này.
* Về vấn đề mức cấp dưỡng:
- Điều 117 Luật Hôn nhân & Gia đình 2014 còn quy định: “Các bên có thể thoả
thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp
người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thoả thuận được thì yêu
cầu toà án giải quyết”. Quy định này bảo đảm tính khả thi của việc cấp dưỡng.

Tuy việc tạm ngừng cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người


được cấp dưỡng nên cần được tòa án xem xét thận trọng và chỉ nên cho phép
tạm ngừng cấp dưỡng khi sự khó khăn về kinh tế là có lý do chính đáng.
- Đằng sau bản án ly hôn là số phận của mỗi con người. Mặc dù trên thực tế
mỗi trường hợp ly hôn mức thu nhập thấp, điều kiện cụ thể và hoàn cảnh sống
của mỗi người khác nhau, nhưng để đảm bảo các “nhu cầu thiết yếu” trong cuộc
sống của những đứa trẻ sau khi cha, mẹ chúng ly hôn “phát triển lành mạnh về
thể chất và tinh thần” thì Nhà nước cần quy định cụ thể về mức cấp dưỡng.
Theo đó, nên quy định mức cấp dưỡng tính trên phần trăm thu nhập của người
phải cấp dưỡng hoặc lấy mức tiền lương tối thiểu tại từng thời điểm làm định
khung để quy định mức cấp dưỡng. Dù người phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng không phải là người có công việc, lương đi chăng nữa thì con cái họ
cũng cần được có mức sống tối thiểu. Khi có sự thay đổi về mức lương thì căn
cứ vào đó cơ quan thi hành án áp dụng vào từng thời điểm thi hành án thì mới
có thể đảm bảo quyền lợi cho người được cấp dưỡng và tránh thiệt thòi cho
người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Để đảm bảo quyền lợi trẻ em, nhất là những đứa trẻ đang phải chịu nhiều thiệt
thòi vì không được hưởng sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ, trong thực thi
pháp luật cần có những điều chỉnh để khắc phục những hạn chế nói trên.
* Về vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn
Ngoài quy định cấp dưỡng cho con, Luật Hôn nhân và Gia đình còn có quy
định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn (Điều 115). Tuy
nhiên, khác với việc cấp dưỡng nuôi con, cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn
được quy định chặt chẽ là người được cấp dưỡng phải là người có khó khăn, túng
thiếu và bản thân họ phải có yêu cầu và yêu cầu đó phải có lý do chính đáng… Thế
nhưng trên thực tế, quy định này cũng không được thực hiện vì lý do đương sự
không biết có quy định như vậy hoặc biết có yêu cầu nhưng bên kia chỉ đồng ý cấp
dưỡng nuôi con chứ không cấp dưỡng cho vợ hoặc chồng. Đây cũng là quy định

khó thực hiện thì thiếu chế tài ràng buộc.
Từ những bất cập trên có thể thấy, các quy định về cấp dưỡng vẫn còn rất
chung chung, thiếu cụ thể. Điều này khiến cho tòa án khi phán xét chỉ còn biết căn
cứ và điều kiện thực tế cụ thể của từng trường hợp. Nhưng cũng chính vì lý do đó
mà mức cấp dưỡng mỗi nơi mỗi khác nhau. Mặc khác, việc thiếu các chế tài cứng
rắn hơn để ràng buộc những người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ
của mình cũng như cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác phải có nghĩa vụ hỗ trợ


cơ quan tư pháp thực hiện cũng là một cản trở không nhỏ, biến cấp dưỡng nuôi con
thực sự trở thành “món nợ khó đòi”.

C.KẾT LUẬN
Tóm lại Cấp dưỡng là một phần vô cùng quan trọng trong luật hôn nhân gia
đình, quyết định lớn đến quyền con người nói chung và thế hệ tương lai nói riêng
nó bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có quyền. Nhờ đó
quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người cao tuổi, người không
có khả năng lao động., đảm bảo thêm cho cuộc sống của con người ngày càng đầy
đủ, văn minh và trách nhiệm. Qua thực tiễn thi hành áp dụng chế định cấp dưỡng
cho thấy về cơ bản các quy định về cấp dưỡng đã đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh
quan hệ cấp dưỡng và mang lại hiệu quả đáng kể, góp phần xây dựng chuẩn mực
hành vi ứng xử của các thành viên trong gia đình. Trên đây là bài làm của nhóm về
Cấp dưỡng, bài làm mang nhiều tính chất tham khảo và ý kiến đóng góp các thành
viên nên còn nhiều lỗi. Nhóm mong có được nhiều ý kiến của các bạn và giảng
viên thì đó chính là mảnh ghép cuối cùng nhóm còn thiếu để hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật Hôn nhân và gia đình,
NXB. Chính trị quốc gia, 2015.
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

4.
5.



×