Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Luận văn thạc sỹ - Nghiên cứu tác động của rủi ro tín dụng tới an toàn thanh khoản tại Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.93 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG TỚI
AN TOÀN THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

TÔ THỊ HỒNG HẠNH

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG TỚI
AN TOÀN THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Ngành
: Tài chính – Ngân hàng
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số


: 8340201

TÔ THỊ HỒNG HẠNH

Người hướng dẫn: TS. NGÔ QUỐC CHIẾN

HÀ NỘI - 2018


LỜ I CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Số liệu trong luận
án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả nghiên cứu do chính tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Ngô Quốc Chiến.
Tác giả luận văn

Tô Thị Hồng Hạnh


MỤC LỤC
LỜ I CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TÍN
DỤNG TỚI AN TOÀN THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI 4
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4
1.1.1. Khái niệm
4
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng

5
1.1.3. Nguyên nhân và hậu quả
7
1.2. AN TOÀN THANH KHOẢN Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI9
1.2.1 Khái niệm
9
Bảng 1.1: Cung - cầu về thanh khoản trong NHTM
11
1.2.2. Nguyên nhân tác động tới an toàn thanh khoản
12
1.2.3. Tác động của rủi ro tín dụng tới an toàn thanh khoản
16
1.2.4. Đánh giá sự tác động của rủi ro tín dụng tới an toàn thanh khoản ở Ngân
hàng thương mại
19
CHƯƠNG 2: RỦI RO TÍN DỤNG TẠI AGRIBANK VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG
CỦA RỦI RO TÍN DỤNG TỚI AN TOÀN THANH KHOẢN
22
2.1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ AGRIBANK
22
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
22
2.1.2 Bộ máy tổ chức 24
2.1.3. Hoạt động tín dụng tại Agribank những năm gần đây
26
2.1.4 Rủi ro tín dụng tại Agribank hiện đang tồn tại
30
2.2. TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG TỚI AN TOÀN THANH KHOẢN
TẠI AGRIBANK THỜI GIAN QUA
37

2.2.1. Khái quát tình hình thanh khoản tại Agribank
37
2.2.2. Tác động của rủi ro tín dụng tới mức độ an toàn thanh khoản tại Agribank
47
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG
ĐỂ ĐẢM BẢO AN TOÀN THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM. 50


2.3.1. Những kết quả đã đạt được
50
2.3.2. Về công tác kiểm soát rủi ro tín dụng 51
2.3.3. Một số bất cập trong công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Agribank
52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG NHẰM TĂNG
CƯỜNG AN TOÀN THANH KHOẢN TẠI AGRIBANK 57
3.1. ĐỊNH HƯỚNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ AN TOÀN THANH
KHOẢN CỦA AGRIBANK GIAI ĐOẠN ĐẾN 2018 57
3.1.1. Định hướng hoạt động tín dụng đến năm 2018
57
3.1.2. Định hướng quản trị rủi ro tín dụng 57
3.1.3. Định hướng an toàn thanh khoản
58
3.2. QUAN ĐIỂM VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ AN TOÀN THANH KHOẢN
Ở NGÂN HÀNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM 58
3.2.1. Quan điểm về quản trị rủi ro tín dụng 58
3.2.2. Quan điểm về an toàn thanh khoản 59
3.3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG NHẰM BẢO
ĐẢM AN TOÀN THANH KHOẢN TẠI AGRIBANK 59
3.3.1. Tăng cường hiệu quả của hệ thống thông tin tín dụng

59
3.3.2. Xây dựng bộ phận chuyên trách quản trị RRTD, nâng cao hiệu quả công
tác quản trị RRTD, cùng với đó xây dựng hướng dẫn QTRRTD chi tiết, đáp ứng
yêu cầu của NHNN và Tổ chức Basel.
60
3.3.3. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm phát hiện và ngăn
ngừa rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản 61
3.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về quản trị rủi ro tín dụng và quản
trị rủi ro thanh khoản, có chính sách nhân sự hợp lý
62
3.4. KIẾN NGHỊ 64
3.4.1. Đối với Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan 64
3.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước 64
KẾT LUẬN 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
67


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 1.1:
Bảng 2.1.
Bảng 2.2:
Bảng 2.3:
Bảng 2.4:
Bảng 2.5:
Bảng 2.6:
Bảng 2.7:
Bảng 2.8:
Bảng 2.9:

Bảng 2.10:
Bảng 2.11:
Bảng 2.12:
Bảng 2.13:
Bảng 2.14:
Bảng 2.15:

Cung - cầu về thanh khoản trong NHTM 11
Tình hình huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp giai đoạn 2012 -2016. .26
Một số chỉ tiêu về dư nợ tại Agribank................................................28
Hoạt động bảo lãnh của Agribank 30
Một số chỉ tiêu về tình hình nợ xấu của Agribank
30
Diễn biến cơ cấu nợ xấu của Agribank 32
Tình hình trích lập và sử dụng dự phòng RRTD tại Agribank 34
Hệ số CAR của Agribank một số năm 38
Hệ số CAR của một số NHTM tính đến 31 tháng 12 năm 2016
38
Một số chỉ tiêu về giới hạn huy động vốn của Agribank39
Tỷ lệ giữa vốn tự có so tổng tài sản Có của Agribank 40
Một số chỉ tiêu về năng lực cho vay của Agribank
42
Chỉ số về sử dụng tiền gửi để cho vay của Agribank 43
Một số chỉ tiêu về chứng khoán thanh khoản của Agribank
44
Một số chỉ tiêu về cấu trúc tiền gửi của Agribank
45
Chỉ số tiền mặt của Agribank
46


SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1.

Mô hình tổ chức của Ngân hàng Agribank

24


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang thay đổi từng ngày trong những
năm vừa qua, đặc biệt là từ năm 2007, khi Việt Nam gia nhập WTO và sắp tới
đây tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và xuyên lục địa Thái Bình Dương
(CPTPP) được ký kết vào ngày 8/3/2018, hoạt động Ngân hàng ở Việt Nam
cũng cùng đó phát triển mạnh. Các doanh nghiệp có nhiều cơ hội phát triển,
cùng với đó là nhu cầu về vốn cao và đa dạng hơn, thúc đẩy các Ngân hàng
thương mại Việt Nam cần đa dạng hóa sản phẩm cho vay, phát triển hoạt động
tín dụng. đưa tín dụng ngày càng trở thành hoạt động đem lại lợi nhuân chủ yếu
cho Ngân hàng.
Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển nhanh và đa dạng đó, Ngân hàng
thương mại (NHTM) phải đối mặt với rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của mình như rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro hoạt động.
Những rủi ro mà NHTM gặp phải sẽ tác động trực tiếp đến lợi nhuận, uy tín và sự
sống còn của NHTM. Trong đó, rủi ro tín dụng (RRTD) là một trong những rủi ro
thường gặp nhất của NHTM nói chung.
RRTD không chỉ gây những ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM, tăng chi
phí quản lý nợ xấu, tăng chi phí nhân sự quản lý nợ và tăng chi phí trích lập dự

phòng rủi ro mà còn tác động trực tiếp đến an toàn thanh khoản của ngân hàng,
một trong những vấn đề rất được quan tâm hiện nay. Có rất nhiều nghiên cứu, rất
nhiều bài báo về vấn đề RRTD và an toàn thanh khoản trong những năm gần đây
của các nghiên cứu sinh, các Tiến sĩ, Thạc sĩ kinh tế như luận văn “ Quản lý rủi ro
tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam” (Nguyễn Tuấn Anh –
Khoa Sau Đại học Trường Kinh tế Quốc dân, 2012) . Về an toàn thanh khoản, có
đề tài nghiên cứu “Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông Nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam” (Nguyễn Hải Long, Học viện Ngân Hàng, 2017)


2

nghiên cứu nguyên nhân tác động đến rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thông qua mô hình hồi quy. Từ các cơ sở
đó, tác giả lựa chọn đề tài “Nghiên cứu tác động của rủi ro tín dụng tới an toàn
thanh khoản tại Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển Việt Nam”. Đề tài nghiên
cứu nhằm nghiên cứu mối quan hệ tác động giữa rủi ro tín dụng và an toàn thanh
khoản của Ngân hàng trên thực tế hiện nay vấn đề RRTD và thanh khoản tại Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng và NHTM nói chung đang
được chú trọng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai vấn đề đó là như thế nào và tác
động cụ thể được đánh giá trên các chỉ tiêu nào, là vấn đề được đặt ra trong đề tài
nghiên cứu của tác giả.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về RRTD và mối quan
hệ giữa RRTD và an toàn thanh khoản của NHTM, phân tích thực trạng RRTD tác
động tới an toàn thanh khoản tại Agribank thời gian qua và đề xuất một số giải pháp và
kiến nghị nhằm tăng cường quản trị RRTD để góp phần bảo đảm an toàn thanh
khoản của Agribank thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ tác động giữa RRTD và an toàn thanh

khoản ở NHTM.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu sự tác động của RRTD tới mức độ
an toàn thanh khoản tại NHTM, lấy đối tượng chính để nghiên cứu phân tích là
Agribank trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2016.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được mục tiêu đề ra, chuyên đề sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu thường được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế: Phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, so sánh, thống kê, phân tích logic…


3

5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, thì chuyên đề
được kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Tác động của RRTD tới an toàn thanh khoản của các NHTM.
Chương 2: RRTD và những tác động của RRTD tới an toàn thanh khoản tại
Agribank.
Chương 3: Giải pháp quản trị RRTD nhằm tăng cường an toàn thanh khoản
tại Agribank.


4

CHƯƠNG 1
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG
TỚI AN TOÀN THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm

Hoạt đồng tín dụng là hoạt đông cơ bản của ngân hàng, đem lại nguồn thu
chủ yếu cho ngân hàng hiện nay. Tuy nhiên, khi hoạt động tín dụng càng phát
triển thì đi cùng với đó là những rủi ro về tín dụng mà Ngân hàng sẽ phải đối
mặt, có thể gây ảnh hưởng đến sự phát triển của ngân hàng.
Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có,
mức trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong
hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài , Rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng là “tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực
hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của
mình theo cam kết”.
Theo Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng thì rủi ro tín dụng lại được hiểu
là rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi một bên đối tác không thực hiện
nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng đối với một ngân hàng, bao
gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù đấy là nợ gốc hay nợ lãi khi
khoản nợ đến hạn
Theo Thomas P.Fitch trong cuốn “ Dictionary of banking systems” lại
định nghĩa rủi ro tín dụng là loại r.Rủi ro tín dụng còn được hiểu là rủi ro xảy ra
khi người vay không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai
hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. (Thomis P.Fitch, “Dictionary of Banking Terms”,


5

2010)
Một cách hiểu khác theo cuốn Risk Management in Banking (2001) của
Joel Bessis thì rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không
trả đuợc nợ hoặc đó là sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.
Nói tóm lại, RRTD sẽ phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu
được đầy đủ cả gốc lẫn lãi của khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi

không đúng kỳ hạn. rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn
bao gồm nhiều hoạt động khác như bảo lãnh, tài trợ thương mại, cho vay ở thị
trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ dự án
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng có nhiều cách phân loại và tiếp cận rủi ro tín dụng (RRTD)
khác nhau, dựa trên nhiều yếu tố khác nhau.
1.1.2.1. Căn cứ theo mức độ gây tổn thất
Căn cứ theo mức độ gây tổn thất có thể chia RRTD thành rủi ro mất vốn và
rủi ro đọng vốn.
Rủi ro mất vốn là rủi ro khi người vay không có khả năng trả được nợ theo
hợp đồng, bao gồm vốn gốc hoặc lãi vay, trong trường hợp này ngân hàng phải sử
dụng hợp đồng tài sản đảm bảo để thu hồi một phần vốn gốc. Rủi ro mất vốn sẽ làm
tăng chi phí do nợ khó đòi tăng, chi phí quản trị, chi phí giám sát, giảm lợi nhuận do
các khoản dự phòng gia tăng cho những khoản vốn mất đi.
Rủi ro đọng vốn là rủi ro xảy ra trong trường hợp đến hạn mà ngân hàng vẫn
chưa thu hồi vốn vay, dẫn đến các khoản vốn bị đông cứng và ảnh hưởng đến ngân
hàng trên hai phương diện, đó là ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn và khiếp
ngân hàng gặp khó khăn cho việc thanh toán cho khách hàng.
1.1.2.2. Căn cứ phạm vi của RRTD
Căn cứ phạm vi của RRTD có thể chia RRTD thành rủi ro cá biệt và rủi ro


6

hệ thống.
Rủi ro cá biệt là RRTD xáy ra đối với một khoản vay của khách hàng thuộc
những nhóm ngành cụ thể. Rủi ro cá biệt thường xảy ra do một số nguyên nhân như
đặc điểm ngành và loại hình kinh tế của khách hàng, tình hình tài chính của khách
hàng và rất nhiều các nguyên nhân khác.
Rủi ro hệ thống là RRTD xảy ra theo tính chất hệ thống, lan truyền đến cả

khu vực ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro hệ thống bao gồm sự thay
đổi chính sách, đặc biệt là chính sách tiền tệ, chính sách thuế và các chính sách khác
của Chính Phủ.
1.1.2.2.

Căn cứ theo nguồn gốc hình thành.

Căn cứ theo nguồn gốc hình thành, RRTD có thể phân loại thành RRTD phát
sinh từ NHTM và RRTD phát sinh từ khách hàng.
Thứ nhất, RRTD phát sinh từ NHTM có thể nằm ở khâu chính sách, khâu
quản trị và phòng ngừa rủi ro, khâu cán bộ, hoặc ở khâu kiểm tra kiểm soát.
Rủi ro ở khâu chính sách là RRTD phát sinh do những lỏng lẻo, bất cập trong
chính sách tín dụng, trong các quy chế, qui trình nghiệp vụ cho vay. Thông thường
rủi ro này xảy ra khi các NHTM quá chú trọng vào lợi nhuận trước mắt thông qua
hoạt động tín dụng, bảo lãnh… mà chưa chú trọng đến sự an toàn, tổng thể và lợi
ích lâu dài.
Rủi ro ở khâu quản trị và phòng ngừa RRTD xuất hiện do NHTM thiếu kinh
nghiệm, chưa có biện pháp phòng ngừa, phân tán rủi ro và tổ chức theo dõi quản trị
rủi ro thật hữu hiệu nên các NHTM vẫn gặp phải RRTD.
Rủi ro ở khâu thông tin xuất hiện do NHTM thiếu thông tin về khách hàng
và các thông tin kinh tế, chính trị, xã hội khác liên quan đến hoạt động tín dụng.
Rủi ro ở khâu kiểm tra, kiểm soát xuất hiện do công tác kiểm tra, kiểm soát
trong từng NHTM đối với hoạt động chuyên môn nghiệp vụ chưa đi vào nề nếp, chưa
đều đặn, thường xuyên do mạng lưới rộng lớn không kiểm soát được một cách toàn


7

diện. Quy trình kiểm tra, kiểm soát chưa đánh giá, đo lường hết tình huống xấu có thể
xảy ra RRTD. Các vụ việc về tín dụng không được phát hiện, xử lý kịp thời dẫn đến

nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài, đôi khi lặp đi lặp lại, gây hậu quả nghiêm trọng.
Rủi ro ở khâu cán bộ là một trong những nguyên nhân chính và là cốt yếu
gây ra RRTD trong các NHTM là do xuất phát từ phía cán bộ. Cụ thể, do trình độ
cán bộ kém, không chuyên ngành, không đáp ứng được yêu cầu phân tích rủi ro,
không đánh giá được hiệu quả khoản vay, không thấy được điểm bất cập trong hồ
sơ tín dụng; hoặc do cán bộ thoái hoá biến chất cố ý làm trái, không chấp hành
đúng qui trình nghiệp vụ, tiếp tay, đồng lõa với kẻ gian để lừa đảo chiếm đoạt tài
sản.
Thứ hai, rủi ro xuất hiện nguyên nhân từ khách hàng
Rủi ro về đạo đức xuát hiện trong những trường hợp người vay không thiện chí
trả nợ, cố tình chây ỳ, sử dụng vốn sai mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Rủi ro do khả năng tài chính yếu kém của người vay, người vay có tình trạng
tài chính không đủ để hoàn thành trách nhiệm gốc và lãi cho ngân hàng. Vì vậy, khi
cho vay, NHTM phải đánh giá được khả năng tài chính của người vay.
Rủi ro do biến động khả năng kinh doanh của người vay. Nguyên nhân của
rủi ro này có thể do chính sách, chế độ thay đổi nhanh, nhu cầu thị trường biến đổi
nhanh khiến người vay vốn không thay đổi kịp, không đáp ứng được sự cạnh tranh
gay gắt trên thị về chất lượng, giá cả sản phẩm, sẽ làm phát sinh RRTD
Rủi ro từ phía người điều hành doanh nghiệp, vị trí của doanh nghiệp, mối
quan hệ của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác. Điều này là do trình độ văn
hoá, trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức và tư cách đạo đức của người điều
hành, vị trí của ngành nghề kinh doanh trong nền kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ
đến kết quả kinh doanh của khách hàng.
1.1.3. Nguyên nhân và hậu quả
1.1.3.1. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại được phân


8


loại thành các nhóm, tùy thuộc vào các đặc tính của các nguyên nhân.
Thứ nhất là nhóm nguyên nhân từ môi trường. Hoạt động tín dụng tại Ngân
hàng thương mại cũng giống như các hoạt động kinh tê khác, chịu sự ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khách quan từ các môi trường bên ngoài, như môi trường kinh tế,
môi trường chính trị, môi trường văn hóa xã hội, môi trường pháp lý và các môi
trường khác.
Thứ hai là nhóm nguyên nhân từ phía Ngân hàng. Nguyên nhân này xuất
phát từ khẩu vị rủi ro của các Ngân hàng. Trong cùng hệ thống Ngân hàng Việt
Nam, mỗi Ngân hàng riêng lẻ lại xác định cho mình một khẩu vị rủi ro riêng, đó
đồng thời cũng phản ánh thái độ củavg Ngân hàng đối với việc chấp nhận rủi ro
như thế nào và đến giới hạn nhất định. Trong giới hạn đó, Ngân hàng có khả năng
và sẵn sàng hứng chịu, khắc phục và vượt qua các rủi ro. Đây là một trong những
nguyên nhân chủ quan dẫn đến RRTD.
Thứ ba là nhóm nguyên nhân từ khách hàng. Nguyên nhân thuộc nhóm này
thường đến từ các khoản vay với mục đích đầu tư vào các danh mục đầu tư nhạy
cảm với những biến động từ thị trường, các khách hạng cố tình lừa đảo để chiếm
dụng vốn vay.
1.1.3.2. Hậu quả của RRTD
Đối với bản thân Ngân hàng:
Thứ nhất, RRTD dẫn đến giảm uy tín của Ngân hàng: mức RRTD cao dẫn
đến danh tiếng của Ngân hàng trong xã hội giảm, niềm tin của khách hàng đối với
Ngân hàng thấp, từ đó dẫn đến năng lực huy động vốn thấp, suy giảm uy tín trên thị
trường quốc tế dẫn đến các giao dịch ngoại tệ cũng như vay vốn từ nước ngoài sẽ
thấp, hiệu quả hoạt động kinh doanh giảm.
Thứ hai, RRTD dẫn đến suy giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng:
RRTD xuất hiện khi các khoản vay bao gồm gồm gốc và lãi Ngân hàng không thu
hồi được khi đã đến hạn trả nợ, trong khi các khoản huy động đến hạn phải thanh
toán cho khách hàng, dẫn đến tình trạng mất cân bằng trong hoạt động thanh toán



9

của Ngân hàng
Thứ ba, RRTD dẫn đến giảm lợi nhuận của hoạt động kinh doanh. Khi
RRTD xuất hiện là khi vốn vay và lãi vay của Ngân hàng không thu hồi được, dẫn
đến vốn bị ứ đọng, chi phí nhân sự, chi phí quản lý, chi phí trích lập dự phòng tăng
dẫn đến chi phí tăng cao, lợi nhuận của hoạt động kinh doanh giảm
Đối với nền kinh tế:
Do hoạt động của các NHTM liên quan đến hầu hết mọi cá nhân, tổ chức, tất cả
các ngành nghề, lĩnh vực hoạt động trong xã hội nên khi RRTD phát sinh sẽ tác động
tiêu cực đến hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội.
Với vai trò là trung gian tài chính, với hoạt động chủ yếu là tập trung các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay đáp ứng các yêu cầu về vốn cho
đầu tư phát triển, do vậy NHTM phải cho vay đúng đối tượng thì nguồn vốn tín
dụng mới phát huy hiệu quả cao, ngược lại, khi cho vay sai đối tượng thì nguồn vốn
sẽ bị sử dụng kém hiệu quả, không có khả năng trả nợ cho ngân hàng đã cho vay,
dẫn đến RRTD
RRTD xuất hiện khi các khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ
những món vay thì điều này đồng nghĩa với việc các NHTM phải đối mặt với
những khó khăn trong hoạt động thanh toán. Nếu tình trạng này diễn biến phức tạp
với nhiều khách hàng không có khả năng trả nợ, thì khủng hoảng nợ có thể xảy ra
và sẽ làm tê liệt hệ thống thanh toán trong nền kinh tế;
Nguyên tắc của tín dụng là tính hoàn trả (cả gốc và lãi). Để đáp ứng yêu cầu
này thì vốn vay phải được sử dụng hiệu quả và sinh lời. Một khi khách hàng sử
dụng vốn vay kém hiệu quả thì RRTD sẽ phát sinh, có nghĩa là vai trò đòn bẩy kinh
tế bị mất tác dụng.
1.2. AN TOÀN THANH KHOẢN Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm
Theo sự giải thích của Từ điển Webster thì An toàn (security) là chỉ sự không



10

bị nguy hiểm, không bị lo sợ; mặt khác, nó còn hàm ý được bảo vệ khỏi nguy hiểm,
rủi ro, bị tai nạn, bị bất ngờ suy thoái…
Theo giải thích của Đại từ điển tiếng Việt thì “An toàn là sự yên ổn, không
lộn xộn, không nguy hiểm” [5]
Một cách chung nhất có thể hiểu: An toàn là trạng thái không bị nguy hiểm
hay rủi ro cho một người, một vật hay một sự vật, hiện tượng.
Theo Ủy ban Basel , thanh khoản là khả năng đáp ứng nhu cầu về sử dụng
vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại mọi thời điểm như chi lãi iền
gửi, cho vay, thanh toán, giao dịch vốn.
Từ sự giải thích về an toàn, có thể suy ra khái niệm về an toàn thanh khoản
như sau: Đó là việc NHTM luôn duy trì được sự cân bằng giữa cung và cầu về
thanh khoản trong quá trình hoạt động kinh doanh, bảo đảm cho mọi hoạt
động kinh doanh của từng NHTM cũng như toàn hệ thống ngân hàng diễn ra
bình thường.
Hoạt động kinh doanh của NHTM là loại hoạt động phức tạp về đối tượng
khách hàng với phạm vi hoạt động rộng và loại hình dịch vụ cung cấp cho nền kinh tế
phong phú, đa dạng. Trong đó, sản phẩm dịch vụ truyền thống là huy động vốn và
cho vay, đầu tư. Do đó, cung - cầu về thanh khoản diễn ra hàng ngày, đòi hỏi NHTM
phải xử lý hài hòa. Nếu như cầu về thanh khoản tăng lên trong khi cung thanh khoản
lại không được cân xứng thì RRTK sẽ xuất hiện, có nghĩa là an toàn thanh khoản
không được bảo đảm. Ngược lại, nếu như cung về thanh khoản tăng, trong khi cầu
thanh khoản ổn định, nghĩa là NHTM dư cung thanh khoản. Tình trạng này tuy không
gây áp lực về an toàn thanh khoản, song lại đe dọa năng lực cạnh tranh của NHTM
do vốn bị ứ đọng, kém hiệu quả do chi phí tăng, tác động tới an toàn về thu nhập
trong tương lai.
1.2.1.2. Cung - cầu về thanh khoản của NHTM
Thanh khoản của NHTM được hình thành từ các yếu tố “cung thanh khoản”

và “cầu thanh khoản”. An toàn thanh khoản chỉ có thể được duy trì khi có sự cân


11

bằng giữa các yếu tố này, nghĩa là khi cân bằng này không được duy trì thì an toàn
thanh khoản sẽ bị ảnh hưởng.
Sự cân bằng giữa cung và cầu thanh khoản của NHTM lại được tạo lập từ
các thành tố khác nhau và được thể hiện trên Bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1: Cung - cầu về thanh khoản trong NHTM

Cung thanh khoản

Cầu thanh khoản

Tiền gửi của KH

KH rút tiền từ tài khoản

Doanh thu từ việc bán các dịch vụ phi

Yêu cầu vay vốn từ những KH có xếp

tiền gửi

hạng TD cao

Thanh toán nợ của KH

Thanh toán các khoản vay phi tiền gửi

Chi phí bằng tiền và thuế xuất hiện

Bán tài sản

trong quá trình sản xuất và cung cấp
dịch vụ

Vay từ thị trường tiền tệ

Thanh toán cổ tức bằng tiền
Nguồn: [13]

Sự khác biệt về cung – cầu thanh khoản xác định trạng thái thanh khoản ròng
của NHTM (NLP)
NLP = ∑ Cung thanh khoản - ∑ Cầu thanh khoản
Nếu NLP > 0: NHTM có thặng dư thanh khoản. Trong trường hợp này, NHTM
cần phải xác định nên đầu tư khoản thặng dư thanh khoản này sao cho hiệu quả cho tới
khi chúng cần được sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong tương lai. Nếu
trạng thái dư thừa thanh khoản không được xử lý tốt thì mặc dù hiện tại không tác động
tới thanh khoản của ngân hàng, song rất có thể trong tương lai an toàn thanh khoản sẽ
bị đe dọa. Lý do là: một phần nguồn vốn của NHTM không được sử dụng hiệu quả do
nằm đọng quá nhiều ở các tài sản có tính thanh khoản cao (khả năng sinh lời thấp hoặc
không có khả năng sinh lời). Từ đó làm giảm thu nhập kỳ vọng của ngân hàng. Khi đó,
ngân hàng đang hy sinh mục tiêu thu nhập để đạt được mục tiêu an toàn trong hiện tại.
Điều này sẽ tác động bất lợi đến niềm tin của công chúng, những khách hàng gửi tiền


12

vào ngân hàng và khiến ngân hàng mất đi khách hàng tiềm năng trong tương lai, rất có

thể còn mất luôn các khách hàng gửi tiền hiện tại.
Nếu NLP < 0: NHTM bị thiếu hụt thanh khoản, đòi hỏi phải tìm nguồn bổ
sung ngay nếu như không muốn RRTK xảy ra.
1.2.2. Nguyên nhân tác động tới an toàn thanh khoản
Trạng thái lý tưởng nhất của một NHTM là có sự cân bằng giữa cung và cầu
về thanh khoản, song trong thực tế điều này hầu như không xảy ra. Trạng thái
thường xuyên của các NHTM là không cân xứng về cung và cầu thanh khoản. Sự
không cân xứng này do nhiều nguyên nhân chi phối, trong đó có một số nguyên
nhân chủ yếu sau đây:
1.2.2.1.

Nhóm nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, do sự mất ổn định kinh tế vĩ mô
Hoạt động kinh doanh của các NHTM luôn gắn liền với môi trường kinh tế
vĩ mô. Các yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội… luôn có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp tới các phương hướng và quyết định kinh doanh của các NHTM. Một
khi các yếu tố kinh tế vĩ mô có sự thay đổi sẽ gây những tác động rất mạnh đến môi
trường kinh doanh, gia tăng rủi ro tiềm ẩn. Sở dĩ như vậy là do đối tượng kinh
doanh của các định chế này là tiền tệ - một loại hàng hoá có sự nhạy cảm cực lớn
đối với tất cả các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý… Hơn nữa, khách hàng
lại rất đa dạng và phức tạp, liên quan đến mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Do đó, sự ổn định lành mạnh trong môi trường kinh doanh của hệ thống tài chính có
thể bị tác động bởi những diễn biến của các sự kiện kinh tế chính trị trên. Thậm chí
chỉ một tin đồn thất thiệt cũng có thể gây ra những dư chấn lớn đối với hệ thống, đặt
các NHTM trước nguy cơ sụp đổ do khách hàng rút vốn ồ ạt; một sự thay đổi của
thị trường hàng hoá dịch vụ cũng dẫn đến những biến động lớn trong thị trường tiền
tệ. Thực tế cho thấy, sự mất ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô chính là nguyên
nhân châm ngòi cho các cuộc khủng hoảng tiền tệ và khi đó, nguy cơ mất an toàn
thanh khoản của hệ thống ngân hàng sẽ tăng lên.



13

Thứ hai, do nhu cầu thanh khoản của khách hàng ngày càng cao
Nhu cầu thanh khoản của NHTM bao gồm (Bảng 1.1) bao gồm:
Thứ nhất là nhu cầu rút tiền của những người gửi tiền. Đây là những nhu cầu
rút tiền chính đáng bắt buộc các NHTM phải đáp ứng;
Thứ hai là nhu cầu tín dụng của khách hàng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ
mà các NHTM đã cam kết cho vay;
Thứ ba là các khoản tiền vay đến hạn trả;
Thứ tư là lãi phải trả cho các khoản tiền gửi và tiền vay.
Như vậy, nhu cầu thanh khoản ở các NHTM bao gồm 2 bộ phận chính là nhu
cầu vay tiền và nhu cầu rút tiền.
Với nhu cầu vay tiền: Thực tiễn cho thấy nhu cầu vay vốn của các KH ngày
càng tăng lên, việc kinh doanh của khách hàng có xu hướng ngày càng lệ thuộc cao
hơn vào vốn vay. Chính nhu cầu vay ngày càng tăng đã khiến các NHTM không
ngừng tìm kiếm các nguồn vốn mới nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu vay của khách
hàng. Đối với các nước đang trong quá trình công nghiệp hoá thì vốn tín dụng luôn
tăng trưởng rất “nóng”.
Với nhu cầu rút tiền: Nhu cầu rút tiền của khách hàng phụ thuộc vào mục đích
gửi tiền của khách hàng. Đối với các khoản tiền gửi thanh toán thì về nguyên tắc các
NHTM phải dự trữ đầy đủ để đáp ứng yêu cầu rút tiền của khách. Nhưng đối với các
món tiền huy động tiết kiệm và huy động tiền gửi có kỳ hạn, thì dựa vào kỳ hạn các
NHTM có thể kế hoạch hoá và chuyển toàn bộ hoặc một phần số vốn vào các danh
mục đầu tư và cho vay nhằm tăng tính sinh lời của chúng. Tuy nhiên, do lãi suất có
tính nhạy cảm rất cao, nên nguồn vốn huy động có kỳ hạn có xu hướng ngày càng
thiếu tính ổn định. Khách hàng sẵn sàng rút tiền ra bất cứ lúc nào nếu thấy cần thiết
nhằm đem gửi hay đầu tư vào nơi khác nhằm tăng thu nhập. Điều này khiến nguy cơ
mất an toàn thanh khoản ngày càng tăng và nếu một NHTM không chú ý đúng mức

đến vấn đề trên, thì nguy cơ rủi ro thanh khoản có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nhất là
trong điều kiện môi trường kinh tế vĩ mô có nhiều bất ổn như hiện nay.


14

Thứ ba là do suy giảm niềm tin từ công chúng
Với tư cách một tổ chức kinh doanh trên thị trường tài chính tiền tệ, hoạt động
của các NHTM căn bản phải dựa trên cơ sở tạo lập niềm tin nơi công chúng, một khi
niềm tin bị suy giảm thì hậu quả sẽ rất khó lường, công chúng sẽ ồ ạt rút tiền gửi, khi
đó, các NHTM sẽ đứng trước nguy cơ mất an toàn thanh toán, sự đổ vỡ sẽ rất khó
tránh khỏi nếu thiếu sự trợ giúp từ phía NHTW.
Thứ tư là do năng lực dự báo của các nhà chức trách tiền tệ yếu
Hoạt động của các NHTM có tính nhạy cảm cao đối với các vấn đề kinh tế
vĩ mô, nên vấn đề quản trị thanh khoản của các NH đặc biệt khó khăn, phức tạp.
An toàn thanh khoản của các NHTM chỉ có thể được duy trì trên cơ sở tăng
cường công tác phân tích, dự báo của các cơ quan chức trách về tài chính tiền tệ
và của chính mỗi tổ chức về những diễn biến kinh tế vĩ mô, xu thế thị trường, sự
biến động của các dòng tiền… Nếu như công tác phân tích, dự báo kém, thì quản trị
thanh khoản của các định chế này sẽ trở nên thụ động, nguy cơ mất an toàn thanh
khoản sẽ tăng cao.
1.2.2.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất là do tăng trưởng tín dụng quá mức so với nguồn vốn
Điều này được thể hiện qua chỉ số về tỷ lệ cho vay so với tiền gửi huy động
quá lớn và kéo dài. Việc mở rộng tín dụng căn bản phải dựa trên cơ sở nhu cầu vốn
vay của các KH trong nền kinh tế. Trong điều kiện nhu cầu vay vốn tín dụng từ các
NHTM có xu hướng ngày càng tăng cao, thì việc mở rộng tín dụng trở thành một
đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Tuy nhiên, vốn cho vay của các NHTM chủ yếu
dựa vào vốn huy động trong nền kinh tế và nếu như việc huy động vốn của các ngân
hàng gặp khó khăn, thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng. Như vậy,

tốc độ tăng trưởng tín dụng căn bản phải dựa trên cơ sở tốc độ tăng trưởng của
nguồn vốn huy động. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các NHTM mở rộng tín
dụng quá mức so với huy động vốn. Đó là kết quả của việc các NH không chấp
hành đúng qui định về dự trữ bắt buộc hoặc đi tìm nguồn vốn từ vốn vay của các


15

TCTD khác. Nếu như tình trạng này kéo dài thì sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn
thanh khoản, đe doạ sự an toàn của hệ thống tài chính.
Thứ hai là do khả năng nắm giữ các tài sản kém linh hoạt, chất lượng kém
Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế, mục tiêu tối thượng
trong kinh doanh của các NHTM là lợi nhuận. Để tối đa hoá lợi nhuận, ngân hàng
phải tăng cường nắm giữ các loại tài sản có tính sinh lời cao. Tuy nhiên, các tài sản
có khả năng sinh lời cao lại là những tài sản có mức độ rủi ro cao. Do đó, các
NHTM muốn tăng lợi nhuận thì phải chấp nhận rủi ro ở một ngưỡng nhất định có
thể chịu đựng được. Thông thường, những tài sản có khả năng sinh lời cao là những
chứng khoán dài hạn với mức độ rủi ro cao hay là những danh mục cho vay với tính
lỏng rất kém. Trong điều kiện các nguồn huy động của các NHTM có mức độ nhạy
cảm cao với lãi suất, tính ổn định không cao, thì việc các ngân hàng tăng cường
nắm giữ các tài sản có tính lỏng kém sẽ gây khó khăn rất lớn cho các ngân hàng khi
khách hàng rút tiền gửi ồ ạt. Khi đó, chi phí xử lý thanh khoản sẽ rất cao, thậm chí
các ngân hàng có thể phải đối mặt với nguy cơ phá sản.
Thứ ba là do sự bất cập về cơ cấu kỳ hạn của tài sản Có và tài sản Nợ
Nếu NHTM sử dụng quá nhiều vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài
hạn thì sẽ tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn. Với loại rủi ro này, NHTM sẽ chịu thua thiệt khi lãi
suất thị trường biến động theo chiều hướng bất lợi, hoặc rất có thể sẽ phải đối mặt
với nguy cơ mất an toàn thanh khoản khi không đáp ứng được nhu cầu rút tiền gửi
của khách hàng.
Thứ tư là do NHTM có mức độ tập trung tiền gửi cao, cấu trúc tiền gửi

kém ổn định
Nếu như các NHTM không tiến hành đa dạng hoá các nguồn vốn huy động,
tập trung quá mức vào một số đối tượng khách hàng ở một số phạm vi thị trường và
một vài loại đồng tiền, thì nguy cơ rủi ro sẽ rất cao. Đặc biệt, khi NHTM nắm giữ
danh mục tài sản Nợ quá nhạy cảm với lãi suất, thì nguy cơ mất an toàn thanh
khoản sẽ cao.


16

Thứ tư là khi NHTM có khả năng tiếp cận thị trường kém
Hoạt động kinh doanh của các NHTM căn bản dựa trên năng lực huy động
vốn trong nền kinh tế. Để tăng cường khả năng huy động vốn thì uy tín, thương hiệu
của ngân hàng là nhân tố có tính quyết định. Một NHTM có uy tín thương hiệu
không cao sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, đặc biệt khi nhu cầu thanh
khoản của khách hàng tăng thì ngân hàng sẽ rất ít có sự chọn lựa để đảm bảo năng
lực thanh khoản của mình.
Cuối cùng là do hệ thống quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ của NHTM kém
Do hoạt động của các NHTM luôn tiềm ẩn rủi ro cao, nên cùng với việc
mở rộng các hoạt động kinh doanh, thì các NHTM cũng phải tăng cường năng
lực quản trị rủi ro, đặc biệt phải chú ý tới công tác quản trị RRTK. Nhưng vấn đề
quản trị rủi ro không chỉ là một nghiệp vụ thuần túy, đơn lẻ mà là một nghệ thuật
dựa trên cơ sở tăng cường năng lực phân tích, dự báo thị trường, dự báo những
xu hướng chu chuyển tiền tệ trong tương lai, để từ đó có các giải pháp phù hợp.
Đồng thời, các NH cũng cần phải đề cao công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ để
phát hiện kịp thời những bất cập trong hoạt động, nhất là nguy cơ mất an toàn
thanh khoản và có các biện pháp để tăng cường năng lực thanh khoản cho phù
hợp với phương châm tối đa hoá thu nhập nhưng cũng phải chú trọng an toàn
kinh doanh. Do đó, nếu hệ thống quản trị rủi ro kém, chỉ mang tính hình thức,
công tác kiểm soát giám sát nội bộ kém, thì nguy cơ mất an toàn thanh khoản sẽ

gia tăng.
1.2.3. Tác động của rủi ro tín dụng tới an toàn thanh khoản
Đối với Ngân hàng thương maị, hoạt động tín dụng là bộ phận đem lại nguồn
doanh thu chủ yếu, tuy nhiên, đi cùng với đó đây cũng là lĩnh vực có mức độ rủi ro
cao. Mỗi ngân hàng thương mại lại có một khẩu vị rủi ro riêng, phù hợp với giới
hạn rủi ro cũng như lợi nhuận kỳ vọng đi cùng, thế nhưng, song song cùng với đó
phải nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng. Nếu không đáp ứng được yêu cầu
này, thì việc mở rộng hoạt động tín dụng dẫn đến RRTD càng có ngy cơ cao. Và


17

việc RRTD diễn ra sẽ tấc động tơí an toàn thanh khoản của Ngân hàng, sự tác động
đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, đối với hoạt động cho vay: Bản chất hoạt động cho vay của NHTM là
đem cho vay một số tiền nhất định từ những khoản tiền mà ngân hàng đã huy động
được từ các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. NHTM thực hiện được hoạt động
trung gian này do có uy tín tài chính trong xã hội cũng như được sự hậu thuẫn của hệ
thống pháp luật. Nếu như hoạt động này diễn ra một cách suôn sẻ thì chức năng trung
gian tài chính của NHTM được thực thi hiệu quả. Nhưng nếu như có sự trục trặc trong
hoạt động cho vay, chẳng hạn như khách hàng vay vốn không thực hiện được các nghĩa
vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng, thì khi đó nguồn cung thanh khoản của NHTM sẽ bị
suy giảm. Càng có nhiều các khoản cho vay không thu hồi được nợ gốc và lãi theo qui
định, thì nguồn cung thanh khoản của ngân hàng càng bị suy giảm. Có nhiều nguyên
nhân dẫn tới khách hàng vay vốn không thực thi đúng nghĩa vụ theo hợp đồng tín
dụng, trong đó có những nguyên nhân về phía khách hàng vay, có những nguyên nhân
do có sự biến động xấu từ môi trường kinh doanh dẫn tới làm suy giảm chất lượng tín
dụng, có những nguyên nhân xuất phát từ chính lỗi của NHTM như thẩm định tín dụng
yếu, thiếu kiểm tra kiểm soát tín dụng… Với bất cứ nguyên nhân nào, RRTD khi xảy
ra sẽ tác động bất lợi, làm mất an toàn thanh khoản của NHTM bởi khi đó ngân hàng sẽ

khó có khả năng thu hồi về gốc và lãi các khoản đã cho vay khách hàng trong khi các
áp lực đối với ngân hàng phải thanh toán huy động (bao gồm cả gốc và lãi) đến hạn.
RRTD càng diễn biến phức tạp thì nguy cơ mất an toàn thanh khoản càng cao.
Thứ hai, đối với hoạt động huy động vốn/vay vốn của NHTM: Khi RRTD xảy
ra thì lập tức xếp hạng tín dụng của NHTM bị ảnh hưởng tiêu cực. RRTD càng diễn
biến xấu thì xếp hạng tín dụng của ngân hàng càng bị suy giảm. Khi xếp hạng tín
dụng bị suy giảm sẽ lập tức tác động bất lợi đối với hoạt động huy động vốn của
ngân hàng trên thị trường vay nợ. Bởi vì huy động vốn là nguồn cung thanh khoản
quan trọng nhất của một ngân hàng, nên khi đó an toàn thanh khoản của ngân hàng
này sẽ bị đe dọa. Cụ thể:


18

Trên thị trường tiền gửi: Khi những người gửi tiền nắm được thông tin về
xếp hạng tín dụng của ngân hàng bị sụt giảm, thì thái độ ứng xử của họ đối với các
khoản tiền nhàn rỗi cũng thay đổi: Hoặc là họ chuyển sang gửi ở ngân hàng khác có
mức độ an toàn cao hơn, hoặc tiếp tục đem gửi vào ngân hàng này với điều kiện
ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất huy động tiền gửi cao hơn trước. Thậm chí các
món tiền đã gửi trước đây cũng có nguy cơ bị khách hàng rút ra trước hạn nhằm bảo
đảm an toàn thu nhập của họ. Rõ ràng là RRTD đã khiến NHTM khó khăn hơn
trong huy động vốn trên thị trường tiền gửi và đảm bảo an toàn thanh khoản đối với
các món tiền đã huy động trong quá khứ và ngân hàng sẽ phải tốn chi phí lớn hơn
để duy trì nguồn tiền huy động từ trong nền kinh tế.
Trên thị trường vay nợ: Xếp hạng tín dụng bị sụt giảm sẽ gây khó khăn cho
NHTM trong việc phát hành các công cụ nợ trên thị trường vốn. Theo đó, ngân
hàng sẽ phải chấp nhận phát hành các chứng khoán trên thị trường với lãi coupon
cao hơn so với các ngân hàng khác, điều này làm mất lợi thế từ huy động nguồn
trên thị trường vốn. Thậm chí nếu như RRTD của ngân hàng diễn biến phức tạp thì
ngân hàng cũng không thể phát hành các chứng khoán trên thị trường này do không

đáp ứng được các yêu cầu quy định của thị trường cũng như không hấp dẫn được
các nhà đầu tư trên thị trường. Điều này có nghĩa là nguồn cung thanh khoản quan
trọng bậc nhất của ngân hàng là huy động vốn bị tác động xấu và an toàn thanh khoản
của ngân hàng bị de dọa.
Thị trường tiền gửi hay thị trường vốn là một trong những nguồn cung thanh
khoản quan trọng bậc nhất của NHTM, nếu như nguồn huy động này bị thu hẹp thì
sẽ làm mất an toàn thanh khoản của NHTM.
Thứ ba, đối với hoạt động bảo lãnh: Bảo lãnh là dịch vụ dựa trên uy tín về
tài chính của NHTM với vai trò làm trung gian bảo đảm thanh toán cho các bên
trong các giao dịch thương mại và tài chính. Đối với loại dịch vụ này, NHTM không
phải bỏ vốn và được thu phí dịch vụ, nhưng đây là loại hình hoạt động có mức độ
rủi ro cao do tính phụ thuộc vào uy tín và tình hình tài chính của người được bảo


19

lãnh. Trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện được các nghĩa vụ nợ
của họ trong các giao dịch, thì NHTM sẽ phải thực hiện thay nghĩa vụ này và
khi đó, nó trở thành món cho vay của NHTM, một loại cho vay không mong
đợi. Hoạt động bảo lãnh càng mở rộng, thì nguy cơ rủi ro tiềm ẩn càng cao và
khi trở thành món cho vay thì lập tức nó tạo ra yếu tố cầu về thanh khoản bởi
được xếp vào loại tín dụng xấu ngay khi ngân hàng chuyển các khoản bảo lãnh
từ ngoại bảng sang theo dõi nội bảng, dẫn đến sự suy yếu an toàn thanh khoản
của NHTM bởi thực chất là các món cho vay này ngân hàng rất khó có khả
năng thu hồi về gốc và lãi đúng hạn, thậm chí không có khả năng thu hồi
chúng. Các khoản bảo lãnh chuyển sang tín dụng càng cao, thì càng làm suy
yếu an toàn thanh khoản của NHTM.
Thứ tư, đối với hoạt động cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính là một thỏa
thuận mang tính hợp đồng, cho phép một bên (bên đi thuê) được sử dụng tài sản
thuộc quyền sở hữu của ngân hàng (bên cho thuê) và thực hiện các khoản chi trả

định kỳ đã được quy định cụ thể. Xét về nguyên tắc thì hình thức này ít rủi ro, bởi
vì người thuê chỉ được quyền sử dụng các tài sản thuê mướn và có trách nhiệm trả
chi phí thuê mướn tài sản theo định kỳ được quy định trong hợp đồng thuê mua, còn
các tài sản này vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Tuy vậy, rủi ro vẫn có thể
nảy sinh nếu như các hợp đồng thuê mua không được ký kết chặt chẽ và ngân hàng
thiếu sự kiểm tra giám sát tình hình sử dụng tài sản của bên đi thuê dẫn đến tình
trạng khai thác quá mức công suất sử dụng của tài sản, chuyển nhượng bất hợp pháp
tài sản, phát sinh các tranh chấp trong hợp đồng thuê mua, giữa cán bộ tín dụng với
khách hàng lợi dụng kẽ hở để lập các hợp đồng thuê mua giả mạo, nâng giá các tài
sản cho thuê qua đó chiếm đoạt tài sản của ngân hàng…
1.2.4. Đánh giá sự tác động của rủi ro tín dụng tới an toàn thanh khoản
ở Ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Đánh giá theo các chỉ tiêu định tính
Một số chỉ tiêu sau đây giúp đo lường sự tác động của RRTD tới an toàn
thanh khoản của NHTM:


×