Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

“Quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Ủy ban nhân dân cấp xã và thực tiễn tại UBND xã Điềm Thụy”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.93 KB, 53 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một vấn đề quan trọng và bức thiết trong bối
cảnh nước ta hiện nay khi tình trạng khiếu nại, tố cáo ở nước ta ngày càng gia tăng
và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, làm ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ
căn bản của nhân dân, trách nhiệm của những cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tốt hay kém nó thể hiện được chất lượng quản lý
của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng
và Nhà nước ta.
Hơn nữa vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng đang đặt ra cho các nhà
quản lý những bài toán khó giải, xử lý được vấn đề này sẽ góp phần đẩy mạnh công
cuộc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng quản lý của các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, xây dựng được một bộ máy nhà nước gọn nhẹ nhưng hiệu
quả, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Chính quyền dân chủ nhân
dân. Muốn vậy, việc giải quyết khiếu nại, cáo phải có hiêu quả ngay từ cơ sở cụ thể
là tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
Nhận thực được tầm quan trong của vấn đề, trong thời gian thực tập của
mình tại xã Điềm Thụy huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên tôi đã lựa chọn đề tài
“Quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Ủy ban nhân dân
cấp xã và thực tiễn tại UBND xã Điềm Thụy” làm chuyên để tốt nghiệp của
mình.
2.Mục đích nghiên cứu
Với tư cách là một công dân của đất nước, tôi muốn tìm hiểu những vấn đề
cơ bản về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại cũng như công tác giải quyết
khiếu nại tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nhằm nâng cao hiểu biết cho bản thân, phổ
biến kiến thức pháp luật khiếu nạicho đông đảo quần chúng nhân dân. Qua đó, cũng
mong muốn nêu ra những bất cập còn tồn tại trong công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo tại Ủy ban nhân dân cấp xã, và đưa ra những kiến nghị, phương hướng nhằm
góp phần khắc phục những thiếu sót để nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại tại


UBND xã nơi tôi thực tập nói riêng và của cả nước nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Trong đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại tại UBND cấp xã. Bên cạnh đó,


2
tôi thực hiện các hoạt động điều tra, đánh giá thực trạng công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo tại xã Điềm Thụy, đồng thời nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo những ý kiến
đóng góp để đưa ra những kiến nghị, nhằm nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại
tố cáo tại UBND xã.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng
làm phương pháp luận xuyên suốt trong việc tiếp cận, và nhìn nhận vấn đề. Bên
cạnh đó, tôi cũng sử dụng các phương pháp hỗ trợ khác như: phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử... để có thể nhìn nhận vấn đề
một cách tổng quát, đa chiều những vẫn làm rõ được bản chất của từng vấn đề cần
nghiên cứu.
5. Bố cục của chuyên đề
Chuyên đề có bố cục ba phần đó là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về khiếu nại, tố cáo và thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ủy ban nhân dân xã
Chương 2: Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo tại UBND xã Điềm Thụy
huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo
và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo tại UBND Điềm Thụy huyện Phú
Bình tỉnh Thái Nguyên.


3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ THẨM
QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TỐ CÁO CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ
1.1 Những vấn đề chung về khiếu nại, tố cáo
1.1.1 Khái niệm chung về khiếu nại, tố cáo
1.1.1.1 Khái niệm khiếu nại
Khiếu nại là một trong những quyền tự nhiên của con người trước những vấn
đề bị vi phạm để tự bảo vệ mình. Hay nói một cách khác, bản chất của quyền khiếu
nạilà quyền tự vệ hợp pháp trước những hành vi vi phạm để tự bảo vệ mình hoặc
bảo vệ quyền và lợi ích của xã hội. Đó là quyền hiến định, quyền phản hồi, quyền
dân chủ và hơn thế nữa, đó là quyền để bảo vệ quyền. Chính vì vậy, khiếu nại là
hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội. Từ khi có giai cấp, các giai cấp thống
trị xã hội với những biện pháp, cách thức khác nhau để giải quyết hiện tượng này.
Ở nước ta, từ trước đến nay, đều ghi nhận khiếu nại là một trong những
quyền cơ bản của công dân, trong đó Hiến pháp 1992 ghi nhận tại Điều 74: “Công
dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc
làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan
nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định... Quy định này
đã được Hiến pháp 2013 sửa đổi, bổ sung tại Điều 30, cụ thể là: “Mọi người có
quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc
làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được
bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.



4
Theo quy định này, khiếu nại không chỉ là quyền Hiến định của công dân Việt Nam
(những người có quốc tịch Việt Nam) mà đã được công nhận là quyền con người,
được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Khiếu nại là một trong những phương thức thực
hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc
trong nhân dân. Đây cũng là phương thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra,
giám sát của mình và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khiếu nại, tố cáo đều
hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm pháp luật
được thực thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng nhà
nước pháp quyền [Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: Hoàn thiện quy định pháp
luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại ngày 27/07/2017].
Trước năm 2011, chúng ta có Luật tố cáo – Khiếu nại nhưng đến năm 2011
Luật khiếu nại năm 2011 và luật tố cáo năm 2011 ra đời đã thay thế cho luật tố cáo
– khiếu nại năm 2005.
Theo quy định tại Điều 2, khoản 1 của Luật Khiếu nại năm 2011 thì khiếu
nại là “Việc công dân, cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc cán bộ công chức theo thủ tục
do luật định đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật của cán bộ công chức khi có căn
cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình”
1.1.1.2 Khái niệm tố cáo
Cũng như khiếu nại, khái niệm tố cáo đã xuất hiện từ lâu. Tố cáo theo nghĩa
chung nhất là vạch rõ tội lỗi củ người khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư
luận, Đay là một quyền chính trị cơ bản của công dân, nó ngày càng được quy định
rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ.
Tại khoản 1 điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 nêu rõ: “Tố cáo là việc công dân
theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức’’.

Như vậy, có thể hiểu đối tượng của tố cáo là các hành vi vi phạm pháp luật,
gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tập thể, công dân. Những việc làm trái pháp luật không phải chỉ có cán bộ,
công chức nhà nước mà của cả các cơ, quan tổ chức. Những hành vi trái pháp luật


5
thường được công dân phát hiện và báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
ngăn chặn, phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm.
1.1.2 Đặc điểm của khiếu nại, tố cáo
1.1.2.1 Đặc điểm của khiếu nại
Thứ nhất, mục đích của khiếu nại là bảo vệ và khôi phục lại quyền và lợi ích
của người bị khiếu nại đã bị quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
xâm hại.
Thứ hai, về chủ thể khiếu nại, Khoản 1 Điều 1 và Điều 101 Luật khiếu nại thì
chủ thể có quyền khiếu nại bao gồm: công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức;
cá nhân, tổ chức nước ngoài có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp đến
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại.
Thứ ba, đối tượng của khiếu nại tại Ủy ban nhân dân xã là các quyết định
hành chính, hành vi hành chính của chủ tịch UBND xã và công chức dưới quyền
Thứ tư, khiếu nại được thực hiện theo thủ tục hành chính được quy định
trong Luật khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1.1.2.2 Đặc điểm của tố cáo
Nói đến tố cáo là nói đến những đặc điểm đặc trưng sau:
Thứ nhất, mục đích của tố cáo là nhằm hướng tới việc xử lý hành vi vi phạm
và người có hành vi vi phạm.
Thứ hai, chủ thể của tố cáo chính là các công dân.
Thứ ba, đối tượng của tố cáo là các hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ
quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà

nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Thứ tư, tố cáo được thực hiện theo thủ tục hành chính được quy định trong
Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1.1.3 Lịch sử khiếu nại, tố cáo
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám với bản Tuyên ngôn lịch sử đã khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Lần đầu tiên, Hiến pháp năm 1946 long trọng tuyên bố: Tất cả quyền bính
trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều của toàn thể nhân dân Việt Nam. Nhà
nước dân chủ nhân dân kiểu mới do Đảng cộng sản lãnh đạo đã mang đến cho


6
người dân Việt Nam các quyền dân chủ, dân sinh: các quyền kinh tế, xã hội và văn
hoá.
Mặc dù Nhà nước sơ khai mới ra đời còn trăm công nghìn việc và phải lo
chống thù trong giặc ngoài, nhưng do thấm nhuần quan điểm về quyền con người,
quyền dân chủ, quyền hạnh phúc của người dân, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân. Ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Việc nhận đơn thư khiếu tố được Người đặt
ở tầm cao ngang với việc đi giám sát công việc thực tế ở các cấp chính quyền. Nếu
Điều 1 ghi là: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi
giám sát tất cả công việc và nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của
Chính phủ”, thì Điều 2 qui định: “Nhận đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra hỏi
chứng, xem xét các giấy tờ của Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ
cần thiết cho công việc giám sát” [Đinh Văn Minh – Phó Viện trưởng Viện Khoa
học Thanh Tra, ngày 09/11/2011(Báo Điện Tử Viện Khoa học Thanh Tra): Quá
trình hình thành và phát triển pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam].
Trong Sắc lệnh số 138b-SL ngày 18/12/1949 cũng vậy, cùng với nhiệm vụ:
“Xem xét thi hành chủ trương của Chính phủ” là nhiệm vụ: “thanh tra sự khiếu nại

của nhân dân”.
Những qui định nói trên nói lên sự quan tâm của Hồ Chủ tịch và Chính phủ
đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Ngoài ra, Nhà nước ta còn ban hành nhiều văn bản nhằm tạo ra cơ chế đảm
bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết tốt
các khiếu nại, tố cáo của công dân. Trong Thông tư số 203 NV/VP ngày 25/5/1946
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về khiếu tố nói rõ: “Chính phủ và các cơ quan của Chính
phủ thiết lập trên nền tảng dân chủ, có bổn phận đảm bảo công lý và vì thế rất để ý
đến nguyện vọng của dân chúng và sẵn lòng xem xét những nỗi oan khuất trong dân
gian”. Thông tư này hướng dẫn cho công dân thủ tục gửi đơn, giới thiệu thẩm quyền
của các cơ quan, thời hạn để giải quyết khiếu tố.
Thông tư số 436/TTg ngày 13/9/1958 của Thủ tướng Chính phủ qui định
trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chính quyền trong việc giải quyết
các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo (gọi tắt là khiếu tố) của nhân dân.


7
Thông tư xác định: “Nghiên cứu và giải quyết các việc khiếu nại và tố giác
của nhân dân là một trách nhiệm quan trọng của tất cả các cơ quan nhà nước trước
nhân dân.”
Thông tư nêu những nguyên tắc về quyền hạn và nghĩa vụ của nhân dân
trong việc khiếu tố; những nguyên tắc về trách nhiệm và tổ chức của các cơ quan
hành chính và cơ quan chuyên môn các cấp, các ngành trong việc nghiên cứu và
giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Ngày 1/1/1960, Chủ tịch Hồ chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp
mới của Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hiến pháp đã dành riêng một điều qui định về
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải
xem xét giải quyết kịp thời, nhanh chóng các khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền lợi cho
người dân [Đinh Văn Minh – Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh Tra, ngày
09/11/2011(Báo Điện Tử Viện Khoa học Thanh Tra): Quá trình hình thành và phát

triển pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam].
Điều 29 Hiến pháp năm 1959 qui định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà có quyền khiếu nại, tố cáo bất cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi
phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước. Những khiếu nại và tố cáo phải được
xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của
nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường.”
Tiếp đó, Chính phủ đã có nhiều văn bản nhằm cụ thể hoá Hiến pháp, bảo
đảm cho công dân thực hiện được quyền khiếu nại, tố cáo mà Hiến pháp đã ghi
nhận, đồng thời qui định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận
và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân.
Nghịquyết số 164/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng
cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan Thanh tra của Nhà nước.
Nghị định số 165/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ qui định
nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ.
Thông tư số 60/UBTT ngày 22/5/1971 của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ
hướng dẫn trách nhiệm của các ngành, các cấp về giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo của nhân dân.
Trong các văn bản nói trên, Chính phủ đã giao việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của nhân dân cho Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ, đồng thời qui định cụ thể
một số nguyên tắc trong việc giải quyết đơn thư khiếu tố như:


8
- Trách nhiệm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo chủ yếu thuộc về cơ quan
phát sinh vấn đề, trước hết là trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan.
- Trình tự xem xét và giải quyết đơn thư khiếu tố của Uỷ ban hành chính các
cấp và các ngành chuyên môn.
Những qui định trên đây của Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho công
dân thực hiện quyền làm chủ trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, nhân viên nhà nước, tổ chức xã hội trong

việc thi hành chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời qui định trách
nhiệm của mỗi cấp mỗi ngành phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, nâng cao
tinh thần phục vụ nhân dân, giải quyết đúng đắn, kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân[Đinh Văn Minh – Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh Tra, ngày
09/11/2011(Báo Điện Tử Viện Khoa học Thanh Tra): Quá trình hình thành và phát
triển pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam].
Sau khi nước nhà được thống nhất, chúng ta đã ban hành Hiến pháp mới,
Hiến pháp năm 1980. Một lần nữa, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được ghi
nhận trong Hiến pháp 1980 và so với Điều 29 của Hiến pháp năm 1959 thì qui định
về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân tại Điều 73 Hiến pháp năm 1980 cụ thể
hơn, chi tiết hơn.
Điều 73: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của
Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị
đó.
Các điều khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng.
Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân phải
được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”.
Sau khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành, ngày 27/11/1981, Hội đồng
Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh qui định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân. Có thể nói, đây là văn bản pháp lý đầu tiên qui định một cách tập
trung, đầy đủ và chi tiết về việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân. Pháp lệnh năm 1981 gồm những qui định chung về quyền khiếu nại, tố cáo và


9
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương I); việc tiếp nhận các khiếu nại, tố

cáo (Chương II); thẩm quyền và thời hạn xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương
III); việc quản lý kiểm tra công tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương IV);
việc xử lý vi phạm (Chương V) và Điều khoản cuối cùng (Chương VI).
Nghị định số 58/HĐBT ngày 29/3/1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi
hành Pháp lệnh đã qui định cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm của công dân trong
việc khiếu nại, tố cáo
Có thể khái quát một số đặc điểm của cơ chế giải quyết khiếu nại theo qui
định của Pháp lệnh năm 1981 và Nghị định số 58 như sau:
Về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Điều 1 Pháp lệnh qui định: “Công
dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc
làm trái chính sách pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội
và đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan, đơn vị, tổ
chức đó làm thiệt hại đến lợí ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng
của công dân". Như vậy có thể thấy rằng, đối tượng của khiếu nại là rất rộng và
không có sự phân biệt với tố cáo và chưa thể hiện rõ tính chất của khiếu nại hành
chính. Điều này chỉ được thể hiện khi qui định thẩm quyền giải quyết thuộc về thủ
trưởng các cơ quan hành chính nhà nước[Đinh Văn Minh – Phó Viện trưởng Viện
Khoa học Thanh Tra, ngày 09/11/2011(Báo Điện Tử Viện Khoa học Thanh Tra):
Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam].
Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, ngoài việc xác định trách nhiệm giải
quyết khiếu nại là thủ trưởng các cơ quan nhà nước, Pháp lệnh còn qui định cả Chủ
nhiệm hợp tác xã và Trưởng tập đoàn sản xuất. Điều này phù hợp với tình hình thời
kỳ đó khi mà kinh tế tập thể chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế và mặc dù là
một tổ chức kinh tế có tính chất tập thể nhưng tổ chức và hoạt động của nó được
thực hiện trên những nguyên tắc gần giống như các cơ quan nhà nước. Những quyết
định của ban lãnh đạo hợp tác xã hay tập đoàn sản xuất cũng có tính chất đơn
phương, mệnh lệnh như một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước.
Về cơ chế giải quyết khiếu nại được thể hiện trong Điều 12 Pháp lệnh như
sau: “Các khiếu nại đối với nhân viên thuộc cơ quan, tổ chức nào thì thủ trưởng
hoặc ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm xét, giải quyết. Các khiếu nại

đối với thủ tưởng hoặc ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức nào thì thủ trưởng hoặc ban
lãnh đạo cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm xét, giải quyết”.


10
Như vậy có thể thấy, cơ chế giải quyết theo Pháp lệnh năm 1981 là cơ chế
cấp trên - cấp dưới theo hệ thống thứ bậc, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
phải là thủ trưởng của người bị khiếu nại; người bị khiếu nại dù là thủ trưởng cơ
quan nhà nước không có thẩm quyền tự giải quyết khiếu nại đối với việc làm của
chính mình. Điều 12 Nghị định số 58 qui định : “Các khiếu nại, tố cáo do cơ quan,
tổ chức cấp dưới đã xem xét, giải quyết nhưng đương sự còn khiếu nại, tố cáo thì
thủ trưởng cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp có trách nhiệm thẩm tra lại, nếu thấy
việc giải quyết của cấp dưới là đúng thì ra văn bản chuẩn y và thông báo cho đương
sự biết; nếu phát hiện có sai lầm thì ra quyết định giải quyết lại và thông báo kết quả
cho đương sự biết”.
Pháp lệnh 1981 và Nghị định 58 không qui định cấp nào là cấp giải quyết
cuối cùng đối với một vụ việc khiếu nại tức là chưa tạo ra điểm dừng cho việc khiếu
nại.
Về trách nhiệm của các tổ chức thanh tra nhà nước, Pháp lệnh qui định Chủ
nhiệm Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ xem xét và trình Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng giải quyết các khiếu nại, tố cáo về việc làm trái chính sách, pháp luật của thủ
trưởng các ngành trung ương hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và cấp tương đương; xem xét và kiến nghị giải quyết lại hoặc
trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giải quyết các khiếu nại, tố cáo mà Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, thủ trưởng cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương
đương đã giải quyết nhưng phát hiện có sai lầm.
Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra các địa phương, Trưởng ban Thanh tra các
ngành có trách nhiệm giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng ngành xét và giải
quyết các khiếu nại, tố cáo [Đinh Văn Minh – Phó Viện trưởng Viện Khoa học

Thanh Tra, ngày 09/11/2011(Báo Điện Tử Viện Khoa học Thanh Tra): Quá trình
hình thành và phát triển pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam].
Như vậy có thể thấy rằng, theo qui định của Pháp lệnh năm 1981 thì tổ chức
Thanh tra chỉ làm tham mưu giúp thủ trưởng các cấp, các ngành trong công tác giải
quyết khiếu nại hành chính chứ không có quyền tự mình ban hành quyết định giải
quyết các khiếu nại. Ngoài ra, các cơ quan Thanh tra có trách nhiệm kiểm tra, đôn
đốc các ngành, các địa phương thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong công
tác giải quyết khiếu nai, tố cáo.


11
Nhìn chung, Pháp lệnh qui định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân năm 1981 thể hiện tư tưởng dân chủ và đề cao trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước trong việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của công dân với
một trình tự, thủ tục còn tương đối đơn giản và theo xu hướng tạo mọi điều kiện cho
công dân thực hiện được quyền khiếu nại, tố cáo của mình. Chẳng hạn, qui định
công dân có thể khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước; qui định về
việc chuyển đơn nhận được không đúng thẩm quyền... Những qui định này phù hợp
với trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân và sự phát triển pháp luật của Nhà
nước ta thời kỳ đó.
Tiếp đó là những văn bản được ban hành nhằm thực hiện tốt những qui định
của Pháp lệnh năm 1981 và Nghị định 58. Đó là Thông tư 02/TTr ngày 4/5/1982
của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ; Nghị quyết số 26-HĐBT ngày 12/5/1984 của
Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường tổ chức và nâng cao hiệu lực của hoạt động
thanh tra; Chỉ thị số 17-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 3/7/1989 về
kiểm điểm việc thực hiện Pháp lệnh năm 1981.
Qua thực tiễn hơn 10 năm thi hành Pháp lệnh qui định về việc xét, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân, Nhà nước ta quyết định ban hành Pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991 thay thế cho Pháp lệnh năm 1981. Xin được
điểm qua những nét mới của Pháp lệnh 1991 về cơ chế giải quyết khiếu nại hành

chính so với Pháp lệnh 1981:
Thứ nhất, về quyền khiếu nại, tố cáo: Một mặt Pháp lệnh năm 1991 tiếp
tục khẳng định khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của người dân
được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhưng khác với trước kia, để bảo đảm thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo có hiệu quả thì công dân cần khiếu nại, tố cáo đến đúng cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, qui định này nhằm khắc phục tình trạng đơn thư
khiếu tố gửi tràn lan, vượt cấp, gây lãng phí về thời gian và công sức cho quá trình
tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đồng thời, Pháp lệnh cũng nêu ra những qui định cụ thể về quyền và trách
nhiệm của từng chủ thể liên quan đến việc khiếu nại (quyền và nghĩa vụ của bên
khiếu nại và bên bị khiếu nại; quyền và nghĩa vụ của bên tố cáo và bên bị tố cáo).
Điều đó bảo đảm sự bình đẳng của công dân trước pháp luật cũng như tạo điều kiện
để các bên có cơ sở thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình vụ
việc khiếu nại, tố cáo được giải quyết.


12
Thứ hai, khác với qui định trước kia, lần đầu tiên, Pháp lệnh đã nêu ra
hai khái niệm khiếu nại và tố cáo với những nội dung khác nhau căn cứ vào tính
chất của nó. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, nó làm cơ sở cho việc xác định thẩm
quyền giải quyết đối với từng loại vụ việc (khiếu nại và tố cáo) cũng như trình tự,
thủ tục giải quyết đối với từng loại đơn thư một cách phù hợp.
Đây có thể nói là cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu và xây dựng một cơ chế
giải quyết riêng đối với khiếu nại sau này khi chúng ta xuất hiện ý tưởng thiết lập cơ
chế tài phán hành chính để giải quyết các khiếu kiện hành chính của dân trước Toà
án.
Thứ ba, Pháp lệnh đưa ra một trình tự và thủ tục tiếp nhận và giải
quyết khiếu nại một cách tương đối chặt chẽ, tạo điều kiện để công dân có thể thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình, đồng thời cũng giúp các cơ quan nhà nước
có trách nhiệm có thể thực hiện việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo một

cách nề nếp, qui củ (quá trình tiếp nhận, phân loại xử lý đơn thư, thụ lý vụ việc, thời
hiệu khiếu nại, thời hạn giải quyết ở từng cấp...).
Thứ tư, Pháp lệnh qui định cụ thể về thẩm quyền giải quyết đối với vụ
việc khiếu nại và tố cáo, nhất là đối với khiếu nại, theo đó một vụ việc khiếu nại sẽ
được giải quyết qua ba lần: cơ quan có thẩm quyền đầu tiên là cơ quan có quyết
định hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan có thẩm quyền giải quyết tiếp
theo là tổ chức thanh tra nhà nước cấp trên trực tiếp và cơ quan có thẩm quyền giải
quyết cuối cùng là thủ trưởng của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp với tổ
chức thanh tra đó. Với qui định này thì tổ chức Thanh tra Nhà nước có thẩm quyền
trực tiếp giải quyết chứ không chỉ đơn thuần làm chức năng tham mưu cho thủ
trưởng cùng cấp trong quá trình giải quyết như trước kia. Ngoài ra, Pháp lệnh còn
qui định tổ chức Thanh tra tỉnh và Thanh tra Nhà nước có quyền kháng nghị đối với
quyết định giải quyết của tổ chức thanh tra cấp dưới. Đây là một vấn đề hết sức mới
mẻ và có thể coi là đã bắt đầu thể hiện một mong muốn thiết lập một cơ chế giải
quyết khiếu nại từ bên ngoài các cơ quan hành chính nhà nước dưới hình thức tố
tụng nhưng còn hết sức sơ khai.
Có thể nói, những qui định của Pháp lệnh năm 1991 có nhiều điểm thể hiện
sự đổi mới về mặt nhận thức quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân cũng như
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nhưng cũng phải thừa nhận rằng, sự đổi mới đó
còn rất ít cơ sở thực tế để phát huy hiệu lực và hiệu quả. Những qui định về trình tự,
thủ tục cũng tỏ ra không thực tế và quá trình thực hiện có nhiều vi phạm kể cả


13
người khiếu nại, tố cáo cũng như cơ quan tổ chức có thẩm quyền và trách nhiệm
giải quyết.
Chính vì những vấn đề nêu trên cho nên hiệu lực và hiệu quả của công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo kể từ sau khi Pháp lệnh 1991 ban hành không có những
sự biến đổi tích cực và gần như đồng thời với việc ban hành Pháp lệnh năm 1991,
Nhà nước ta đã có chủ trương nghiên cứu và thiết lập cơ chế giải quyết khiếu kiện

hành chính bằng con đường tài phán để khắc phục những nhược điểm của phương
thức giải quyết khiếu kiện hành chính từ trước đến nay.
Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá
IX, kỳ họp thứ X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức
Toà án nhân dân trong đó qui định về sự hình thành tổ chức và về hoạt động xét xử
hành chính. Ngày 21/5/1996, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính. Đây là những văn bản pháp lý đầu tiên rất quan
trọng đánh dấu sự ra đời của cơ chế tài phán hành chính ở Việt Nam. Đây thực sự
là một bước tiến đáng kể trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một biểu hiện rõ ràng, cụ thể của sự đổi mới trong
nhận thức về quá trình dân chủ hoá xã hội và bảo vệ các quyền dân sự của công dân.
Việc xét xử hành chính đã được thực hiện hơn mười năm qua và hiện nay các cơ
quan có trách nhiệm đang xây dựng Luật Tố tụng hành chính nhằm nâng cao hơn
nữa hiệu quả hoạt động của cơ chế này[Đinh Văn Minh – Phó Viện trưởng Viện
Khoa học Thanh Tra, ngày 09/11/2011(Báo Điện Tử Viện Khoa học Thanh Tra):
Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam].
Tháng 12 năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật khiếu nại, tố cáo thay thế
cho Pháp lệnh khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991 và như vậy cơ chế giải quyết
khiếu kiện hành chính được thực hiện theo qui định của các văn bản này cho đến
nay đã có những kết quả nhất định, đồng thời cũng bộc lộ những vấn đề khó khăn
bất cập mà đến nay cần nghiên cứu và Nhà nước ta cũng đang có chủ trương tiến
hành đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
Tại kỳ họp 5 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên những điểm sửa đổi, bổ sung chỉ là
những điểm không cơ bản, giải quyết kịp thời một số vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn. Chính vì vậy cũng ngay tại kỳ họp này, Quốc hội đã ra nghị quyết số
30/2004/QH11, trong đó nêu rõ “Chính phủ khẩn trương tiến hành tổng kết toàn
diện việc thi hành Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, làm cơ sở cho việc nghiên cứu



14
sửa đổi cơ bản Luật khiếu nại, tố cáo, xây dựng cơ chế hữu hiệu để giải quyết các
khiếu kiện hành chính phù hợp với tình hình thực tế của nước ta và thông lệ quốc
tế”
Thực hiện tinh thần của Nghị quyết nêu Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan
của Chính phủ khẩn trương nghiên cứu xây dựng Dự án Luật Khiếu nại và Luật Tố
cáo, trình Quốc hội thông qua, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại và
tố cáo. Vì thế năm 2011 Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo ra đời [Đinh Văn Minh –
Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh Tra, ngày 09/11/2011(Báo Điện Tử Viện
Khoa học Thanh Tra): Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về khiếu nại, tố
cáo ở Việt Nam].
Từ đây khiếu nại, tố cáo và các vấn đề liên quan đã được tách hẳn nhau tạo
thuận lợi cho các cơ quan chức năng thực thi nhiệm vụ của mình.
1.1.4 Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo
Đầu tiên, thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ủy ban nhân
dân xã cơ quan nhà nước cấp trên có thể kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động của
ủy ban nhân dân cấp xã. Để từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế,
yếu kém và xử lí hành vi vi phạm pháp luật để xây dựng một nền hành chính vững
mạnh, trong sạch, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Thứ hai, hoạt động giải quyết khiếu nại là một hoạt động bảo đảm pháp chế
trong quản lí nhà nước, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan,
tổ chức, bảo vệ lợi ích của nhà Nước, xã hội, bảo vệ trật tự kỷ cương, trật tự pháp
luật, xử lí những hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, hoạt động giải quyết khiếu nại
của các cơ quan hành chính nhà nước trước hết phải tuân theo nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại vừa bảo đảm quyền khiếu
nại của công dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh, trí tuệ của nhân
dân trong việc tham gia quản lí nhà nước, vừa bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước.
Thứ tư, giải quyết khiếu nại còn có vai trò bảo đảm phát huy quyền làm chủ

của nhân dân, nâng cao hoạt động quản lý hành chính nhà nước và tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết khiếu nại thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân và đây cũng là một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa


15
ở Việt Nam. Vì thế, để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì các cơ
quan hành chính nhà nước phải thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Giải quyết tốt, có hiệu quả khiếu nại, tố cáo là nhân tố tích cực tác động trở lại với
hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan hành chính nhà nước.
1.2 Pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo tại ủy ban nhân
dân cấp xã
1.2.1 Quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại tại ủy ban nhân
dân cấp xã
1.2.1.1 Quy định của pháp luật về căn cứ giải quyết khiếu nại
Tại điều 3 Luật Khiếu nại 2011 quy định rõ:
- Khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam và việc
giải quyết khiếu nại được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định
khác.
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước được áp dụng
theo quy định của Luật này.
- Căn cứ vào Luật này, cơ quan có thẩm quyền của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hướng dẫn việc khiếu
nại và giải quyết khiếu nại trong cơ quan, tổ chức mình.
- Căn cứ vào Luật này, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước và các cơ
quan khác của Nhà nước quy định việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong cơ

quan mình.
- Trường hợp luật khác có quy định khác về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
thì áp dụng theo quy định của luật đó.
Như vậy để giải quyết các vấn đề liên quan tới khiếu nại phải căn cứ vào
Luật Khiếu nại 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1.2.1.2 Quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Khoản 4, Điều 36, Luật Tổ chức chính quyền địa phương nêu rõ Chủ tịch
UBND có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật, tiếp
công dân theo quy định của pháp luật;


16
Điều 17 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định rõ Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc giải quyết khiếu nại tại ủy ban nhân
dân xã như sau: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung
là cấp xã); Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của
người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp”.
Khi giải quyết khiếu nại liên quan đến nhiều ngưởi thì trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân tại Ủy ban nhân dân xã trong việc phối hợp xử lý được quy
định tại điều 8 Nghị đinh 75/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/10/2012 quy định
chi tiết một số điều của Luật khiếu nại 2011 như sau:
- Khi phát sinh việc nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung ở xã,
phường, thị trấn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã) có trách nhiệm:
+ Phân công cán bộ tiếp đại diện của những người khiếu nại để nghe trình
bày nội dung khiếu nại. Trường hợp khiếu nại phức tạp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có
liên quan tiếp, nghe đại diện của những người khiếu nại trình bày nội dung khiếu

nại;
+ Chỉđạo công an cấp xã giữ gìn trật tự công cộng nơi có người khiếu nại tập
trung;
+ Thuyết phục, hướng dẫn người khiếu nại thực hiện việc khiếu nại đúng quy
định của pháp luật.
- Trưởng công an cấp xã có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với lực lượng bảo
vệ, dân phòng giữ gìn trật tự công cộng nơi có người khiếu nại tập trung; xử lý các
hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thụ lý để giải quyết theo quy định của
pháp luật khiếu nại thuộc thẩm quyền; nếu khiếu nại không thuộc thẩm quyền,
hướng dẫn công dân đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
1.2.1.3 Quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết khiếu nại
Giải quyết khiếu nại tại Ủy ban nhân dân cấp xã là giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực hành chính, vi phạm hành chính tại cấp cơ sở lần đầu. Trình tự, thủ tục giải
quyết khiếu nại tại Ủy ban nhân dân cấp xã được quy định tại điều 27, 28, 28, 30,


17
31, 32 của Luật khiếu nại năm 2011 và điều 7 Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày
03/10/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật khiếu nại 2011, cụ thể như sau:
Bước 1: Thụ lý, chuẩn bị xác minh nội dung khiếu nại.
Điều 27 Luật khiếu nại 2011 quy định rõ: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền mà không thuộc một trong các trường
hợp được quy định tại Điều 11 của Luật này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần đầu phải thụ lý giải quyết; thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra
nhà nước cùng cấp biết, trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do”.
Như vậy, trong 10 ngày kể từ ngày có khiếu nại Chủ tịch UBND cấp xã phải
thụ lý giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết.

Tuy nhiên, những khiếu nại thuộc điều 11 của Luật Khiếu nại 2011 thì không được
thụ lý giải quyết, đó là:
- Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong nội bộ cơ quan nhà nước
để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ; quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong chỉ đạo điều hành của cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan
hành chính cấp dưới; quyết định hành chính có chứa đựng các quy phạm pháp luật
do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục của pháp
luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; quyết định hành chính, hành vi hành
chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại
giao theo danh mục do Chính phủ quy định;
- Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không liên quan
trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại;
- Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có
người đại diện hợp pháp;
- Người đại diện không hợp pháp thực hiện khiếu nại;
- Đơn khiếu nại không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại;
- Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng;
- Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
- Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30 ngày
người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại;


18
- Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý hoặc đã được giải quyết bằng bản án,
quyết định của Toà án, trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của Tòa
án.
Thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với
vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45
ngày, kể từ ngày thụ lý.
Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không

quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có
thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý (Điều 28 Luật Khiếu
nại 2011).
Nếu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không thụ lý giải quyết thì
phải nêu rõ lý do theo quy định.
Bước 2. Tiến hành xác minh nội dung khiếu nại (Quy định tại điều 29,
30 Luật khiếu nại 2011).
Trong vòng 30 ngày, kể từ ngày thụ lý người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại phải tiến hành xác minh nội dung khiếu nại,cụ thể như sau:
Thứ nhất, kiểm tra lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình,
của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp, nếu khiếu nại đúng thì ra quyết
định giải quyết khiếu nại ngay;
Thứ hai, trường hợp chưa có cơ sở kết luận nội dung khiếu nại thì tự mình
tiến hành xác minh, kết luận nội dung khiếu nại hoặc giao cơ quan thanh tra nhà
nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm (Sau đây gọi chung là
người có trách nhiệm xác minh) xác minh nội dung khiếu nại, kiến nghị giải quyết
khiếu nại.
Việc xác minh phải bảo đảm khách quan, chính xác, kịp thời thông qua các
hình thức sau đây:
- Kiểm tra, xác minh trực tiếp tại địa điểm phát sinh khiếu nại;
- Kiểm tra, xác minh thông qua các tài liệu, chứng cứ mà người khiếu nại,
người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp;
- Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Người có trách nhiệm xác minh có các quyền, nghĩa vụ sau đây:


19
- Yêu cầu người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan cung cấp thông tin, tài liệu và chứng cứ về nội dung khiếu nại;
- Yêu cầu người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan giải trình bằng văn bản về nội dung liên quan khiếu nại;
- Triệu tập người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan;
- Trưng cầu giám định;
- Tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh khác theo quy định của pháp
luật;
- Báo cáo kết quả xác minh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả
xác minh.
- Báo cáo kết quả xác minh gồm các nội dung sau đây:
- Đối tượng xác minh;
- Thời gian tiến hành xác minh;
- Người tiến hành xác minh;
- Nội dung xác minh;
- Kết quả xác minh;
- Kết luận và kiến nghị nội dung giải quyết khiếu nại.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu yêu cầu của người khiếu
nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác nhau thì người giải quyết
khiếu nại tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền
và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung
khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; việc đối thoại
phải tiến hành công khai, dân chủ.
Người giải quyết khiếu nại có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với
người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan,
tổ chức có liên quan biết thời gian, địa điểm, nội dung việc đối thoại.
Khi đối thoại, người giải quyết khiếu nại phải nêu rõ nội dung cần đối thoại,
kết quả xác minh nội dung khiếu nại; người tham gia đối thoại có quyền trình bày ý
kiến, đưa ra chứng cứ liên quan đến khiếu nại và yêu cầu của mình.
Việc đối thoại phải được lập thành biên bản; biên bản phải ghi rõ ý kiến của
những người tham gia, kết quả đối thoại, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tham



20
gia; trường hợp người tham gia đối thoại không ký, điểm chỉ xác nhận thì phải ghi
rõ lý do; biên bản này được lưu vào hồ sơ vụ việc khiếu nại.
Kết quả đối thoại là một trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại.
Bước 3. Ban hành, gửi, công khai quyết định giải quyết khiếu nại và lập,
quản lý hồ sơ giải quyết khiếu nại (Được quy định tại điều 31, 32, 34 Luật này).
* Ban hành, gửi, công khai giải quyết khiếu nại.
Ban hành quyết định giải quyết khiếu nại.Sau khi tiến hành xác minh nội
dung khiếu nại, người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định giải quyết khiếu nại.
Quyết định giải quyết khiếu nại phải có các nội dung sau đây:
- Ngày, tháng, năm ra quyết định;
- Tên, địa chỉ người khiếu nại, người bị khiếu nại;
- Nội dung khiếu nại;
- Kết quả xác minh nội dung khiếu nại;
- Kết quả đối thoại (nếu có);
- Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại;
- Kết luận nội dung khiếu nại;
- Giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định
hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; giải quyết các vấn đề cụ thể
trong nội dung khiếu nại;
- Việc bồi thường thiệt hại cho người bị khiếu nại (nếu có);
- Quyền khiếu nại lần hai, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.
Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại xem xét, kết luận nội dung khiếu nại và căn cứ vào kết
luận đó để ra quyết định giải quyết khiếu nại cho từng người hoặc ra quyết định giải
quyết khiếu nại kèm theo danh sách những người khiếu nại.
Gửi quyết định giải quyết khiếu nại. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày có quyết định giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu có trách
nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, thủ trưởng cấp trên

trực tiếp của người giải quyết khiếu nại hoặc người có thẩm quyền, người có quyền,
nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan
thanh tra nhà nước cùng cấp.
Bước 4: Lập, quản lý hồ sơ giải quyết khiếu nại


21
Việc giải quyết khiếu nại phải được lập thành hồ sơ. Hồ sơ giải quyết khiếu
nại bao gồm:
- Đơn khiếu nại hoặc bản ghi lời khiếu nại;
- Tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp;
- Biên bản kiểm tra, xác minh, kết luận, kết quả giám định (nếu có);
- Biên bản tổ chức đối thoại (nếu có);
- Quyết định giải quyết khiếu nại;
- Các tài liệu khác có liên quan.
Hồ sơ giải quyết khiếu nại phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và
được lưu giữ theo quy định của pháp luật. Trường hợp người khiếu nại khởi kiện vụ
án hành chính tại Tòa án thì hồ sơ đó phải được chuyển cho Tòa án có thẩm quyền
giải quyết khi có yêu cầu.
1.2.2 Pháp luật về giải quyết tố cáo
1.2.2.1 Quy định của pháp luật về điều kiện, cơ sở giải quyết tố cáo
Đối với việc giải quyết tố cáo phải đáp ứng được các điều kiện, cơ sở quy
định tại điều 3 Luật Tố cáo 2011, cụ thể như sau:
- Việc tố cáo của cá nhân nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam và giải quyết
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt
Nam được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
- Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp
luật về tố tụng hình sự.
- Trường hợp luật khác có quy định khác về tố cáo và giải quyết tố cáo thì áp

dụng quy định của luật đó.
1.2.2.2 Quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tố cáo của
UBND cấp xã
Thẩm quyền giải quyết tố cáo của Chủ tịch UBND cấp xã được xác định
theo 02 khía cạnh sau đây:
Một là: Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ:
Nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm
pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ được quy định


22
cụ tại Điều 12 và cụ thể hóa tại Điều 13 của Luật tố cáo. Theo đó, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.
Đồng thời theo quy định tại các điều này, trong trường hợp tố cáo về hành vi vi
phạm nhiệm vụ, công vụ của Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thì vụ việc
không thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã mà thuộc thẩm
quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Hai là: Giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của xã:
Nhằm giúp người tố cáo tố cáo hành vi vi phạm pháp luật tới đúng cơ quan,
người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, hạn chế trường hợp đơn thư tố cáo lòng
vòng, hiệu quả giải quyết thấp, Điều 31 Luật tố cáo đã quy định thẩm quyền giải
quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực.
Theo đó, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà
nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cấp xã thì thì UBND cấp xã
có trách nhiệm giải quyết. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm

pháp luật thuộc phạm vi quản lý được giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Đối với những tố cáo về hành vi phạm tội thì không thuộc thẩm quyền giải
quyết của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã nói riêng; trong trường hợp nhận được những tố cáo này thì Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã phải chuyển cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm
quyền giải quyết theo thời hạn quy định.
Trong quá trình xem xét, giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của mình, nếu
phát hiện hành vi vi phạm về nhiệm vụ, công vụ có dấu hiệu phạm tội thì Chủ tịch
ỦY ban nhân dân cấp xã cũng phải chuyển vụ việc, các thông tin, tài liệu có được
cho cơ quan chức năng giải quyết theo trình tự, thủ tục luật định.
1.2.2.3 Quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết tố cáo
Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo được quy định rõ từ điều 18 đến điều 30
Luật Tố cáo 2011, cụ thể như sau:
Về trình tự giải quyết tố cáo thực hiện theo trình tự sau:
- Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;


23
- Xác minh nội dung tố cáo;
- Kết luận nội dung tố cáo;
- Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;
- Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố
cáo.
Hồ sơ vụ việc tố cáo bao gồm:
- Đơn tố cáo hoặc bản ghi nội dung tố cáo;
- Quyết định thụ lý giải quyết tố cáo;
- Biên bản xác minh, kết quả giám định, thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập
được trong quá trình giải quyết;
- Văn bản giải trình của người bị tố cáo;
- Báo cáo kết quả xác minh nội dung tố cáo trong trường hợp người giải

quyết tố cáo giao cho người khác tiến hành xác minh;
- Kết luận nội dung tố cáo;
- Quyết định xử lý, văn bản kiến nghị biện pháp xử lý (nếu có);
- Các tài liệu khác có liên quan.
Hồ sơ vụ việc tố cáo phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu. Việc lưu
giữ, khai thác, sử dụng hồ sơ vụ việc tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp
luật, bảo đảm không tiết lộ thông tin về người tố cáo.
1.3 Vai trò của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
Là quy định không thể thiếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về
giải quyết khiếu nại, tố cáo đóng vai trò quan trọng không thể thiếu ở các mặt sau
đây:
Thứ nhất, vai trò trong quản lí nhà nước. Giải quyết khiếu nại, tố cáo là hoạt
động của quản lí hành chính nhà nước. Trong quản lí hành chính nhà nước, thông
qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp và
khả thi của chính sách pháp luật và các quyết định quản lí do mình ban hành. Sự
phản ứng của xã hội qua tình hình khiếu nại, tố cáo là một trong những thước đo
quan trọng để đánh giá hiệu quả của quản lí nhà nước đối với xã hội, giúp nhà nước
hoàn thiện chính sách pháp luật, nâng cao hiệu quả của quản lí nhà nước. Mặt khác
việc tăng cường củng cố pháp chế trong giải quyết khiếu nại, tố cáo tác động tích


24
cực trở lại đối với hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan hành chính nhà
nước.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò quan trọng trong quá trình quản lí nhà
nước: Từ việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đến việc thi hành và xử lí vi phạm
pháp luật. Thực tiễn cho thấy ở một số địa phương do phát sinh khiếu nại, tố cáo mà
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền làm không tốt công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo đã dẫn đến ách tắc, trì trệ ảnh hưởng đến hoạt động thông suốt của
hoạt động hành chính.

Xuất phát từ vai trò quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cho
nên trong chỉ thị số 36/2004/CT-TTG ngày 27/10/2004 về việc chấn chỉnh và tăng
cường trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác
giải quyết khiếu nại tố cáo thủ tường chính phủ đã nhấn mạnh “Đặc biệt coi trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo coi công tác này là nhiệm vụ chính trị vừa cấp
bách vừa lâu dài, phải gắn công tác này với công tác quản lí hành chính nhà nước.
Coi kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá
năng lực, hiệu quả công tác của thủ trưởng cơ quan, đơn vị và những cán bộ công
chức có trách nhiệm”
Hiện nay chúng ta đang cải cách nền hành chính nhà nước trên các mặt thể
chế tổ chức, bộ máy nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức và cải cách
hành chính công với mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch
vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoạt động có hiệu quả.
Trong quản lí hành chính nhà nước, quyền khiếu nại, tố cáo đã được tập hợp
và lần đầu tiên được thống nhất quy định một cách cụ thể trong một đạo luật: luật
khiếu nại, tố cáo. Theo luật này công dân có quyền khiếu nại quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hành chình nhà nước và của cán bộ nhà nước có
thẩm quyền khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính
đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy trên thực
tế, luật pháp không chỉ tạo cơ sở pháp lí để công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo mà còn quy định cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước có thẩm quyền phải tự
kiểm tra xem xét lại các quyết định hành chình và hành vi hành chính. Nếu thấy trái
pháp luật phải kịp thời sửa chữa, khắc phục để tránh phát sinh khiếu nại.
Quy định như vậy có vai trò hết sức quan trong trong hoạt động quản lí của
cơ quan hành chính nhà nước nhằm giải quyết ngay từ đầu các mâu thuẫn, tranh
chấp trong quan hệ hành chính, chính qua quá trình tự kiểm tra đánh giá mà các cơ


25
quan hành chính nhà nước hoặc cán bộ nhà nước phát hiện ra những hành vi trái

pháp luật của mình, từ đó kịp thời có những biện pháp thích hợp để điều chỉnh sửa
chữa các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính cho đúng pháp luật.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là một trong số các quyền chính trị cơ
bản của công dân, giúp xác định chính xác chỗ đứng, diện mạo, vai trò chính trị của
mỗi cá nhân trong xã hội, thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp, bản chất chế độ xã hội,
trong đó cá nhân tồn tại với tư cách là thành viên, là công dân.
Việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân có vai trò to lớn trong
việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp
phần tích cực vào việc tăng cường và bảo đảm pháp chế. Thông qua khiếu nại, tố
cáo của công dân mà nhiều hành vi tham nhũng, lãng phí, vi phạm dân chủ được
làm sáng, góp phần làm cho bộ máy nhà nước thêm trong sạch, củng cố lòng tin của
nhân dân lao động đối với đảng và nhà nước ta.
Bên cạnh việc đặt ra các quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân,
nhà nước ta còn luôn chú ý xây dựng và ngày càng hoàn thiện các quy định bảo
đảm cho công dân đủ điều kiện thực hiện quyền này.
Ở nước ta quyền khiếu nại quyền tố cáo là một trong những quyền cơ bản,
quyền tự do dân chủ quan trọng của công dân và được hiến pháp ghi nhận và bảo
đảm thực hiện. Thực hiện và bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo thể hiện mỗi quan hệ
giữa nhà nước và công dân, thể hiện sự phát triển của chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa và biểu hiện của chế độ chính trị của mỗi nhà nước. Khiếu nại tố cáo không
những là công cụ phương tiện pháp lí hữu hiệu để công dân, cơ quan bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích của nhà nước khi bị xâm phạm mà còn là một
trong những phương thức quan trọng để công dân tham gia quản lí nhà nước. Thông
qua khiếu nại tố cáo nhà nước kiểm tra được tính đúng đắn phù hợp và khả thi của
chính sách pháp luật do mình ban hành, đồng thời kiểm tra việc chấp hành pháp luật
của cơ quan tổ chức và cá nhân thông qua việc đánh giá tính hợp pháp của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính qua đó giúp nhà nước hoàn thiện cơ chế
quản lí xã hội bằng pháp luật, đồng thời nhằm khôi phục các quyền lợi của công
dân.
Quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân đã được ghi nhận trong cương

lĩnh đường lối chính sách của đảng, được thể chế hóa trong hiến pháp và pháp luật
của nhà nước và được bảo đảm bằng những thiết chế chính trị tương ứng.


×