Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

làm rõ sáng tạo lý luận của hồ chí minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.47 KB, 24 trang )

MỤC LỤC:


PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền là những vấn đề nhạy cảm luôn được các
thế lực thù địch lợi dụng chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Mặt khác, do sự phát triển, biến đổi tất yếu trong nội hàm của các vấn đề còn lại
trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đặt ra những nội dung mới về lý luận và thực
tiễn trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trong bối cảnh tình hình mới.
Đây là đòi hỏi có tính tất yếu cần được đầu tư nghiên cứu để cung cấp những luận
cứ khoa học khách quan góp phần giải quyết hiệu quả hơn vấn đề dân tộc trong bối
cảnh tình hình phát triển hiện nay của đất nước. Từ lý luận của chủ nghĩa Mac –
Lenin, được Đảng ta, chủ tịch Hồ Chí Minh và giới khoa học áp dụng vào Việt
Nam, từ thực tiễn tình hình dân tộc và việc giải quết vấn đề dân tộc, thực hiện đại
đoàn kết dân tộc của Đảng ta trong mấy chục năm qua, việc tiếp tục hoàn hiện và
nâng cao ý thức về vấn đề dân tộc trong bối cảnh tình hình hiện nay là rất cần thiết.
Vì vậy, bài viết dưới đây xin đề cập về vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng là giải phóng giai
cấp, giải phóng con người chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đây cũng là vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa
thể hiện tinh thần dân tộc tự chủ sáng tạo của Người trong việc vận dụng những
nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin vào hoàn cảnh của Việt Nam, Chính vì
vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người được coi là bước phát triển mới của học thuyết Mác Lenin
2



về cách mạng thuộc địa ở thời điểm các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh dành
độc lập tự do
Dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống yêu nước vì vậy tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc giúp ích rất nhiều trong quá trình
học tập và tìm hiểu lịch sử dân tộc. Vì vậy tôi xin chọn đề tài này vì đây là vấn đề
quan trọng, cần thiết và luôn mang tính thời đại

3


PHẦN 2:KIẾN THỨC CƠ BẢN
2.1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
2.1.2 Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa:
Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc. Người dành sự
quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn
đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị, áp bức bốc lột của
nước ngoài, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm như: Tâm địa thực dân, Bình đẵng, Vực
thẩm thuộc địa, Công cuộc khai hóa giết người,...tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch
trần cái gọi là” khai hóa văn minh” của chúng.
Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực
dân Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực chính trị , kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc
thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn không thể hòa được.
Lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc
Hồ Chí Minh khẵng định muốn giải phóng dân tộc phải xác định rõ con
đường phát triển dân tộc, mỗi côn đường phát triển gắn liền với một hệ tư tưởng và
một giai cấp nhất định.

Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sữ nhân loại, Hồ Chí
Minh khẵng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới
là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức
mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trãi qua nhiều giai
đoạn chiến lược khác nhau.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí
Minh viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”.
Con đường đó kết hợp cả nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xét
về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
“Đi tới xã hội cộng sản “ là hướng phát triển lâu dài, giữ vai trò quan trọng
lãnh đạo Đảng Cộng sản và cả dân tộc.
4


2.1.3 Đọc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
Cách tiếp cận từ quyền con người.Từ quyền con người đã được Tuyên Ngôn
độc lập 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách
mạng Pháp, như quyền bình đẵng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc. Hồ Chí Minh khẵng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cải
được” và khát quát lên thành quyền dân tộc tự quyết: “ Tất cả dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẵng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”.
-Nội dung của độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc phải gắn liền với quyền bình đẵng của tất cả dân tộc trên thế
giới và quyền bình đẵng của các dântộc trong một nước.
Độc lập dân tộc phải gắn với nền hòa bình chân chính.
Độc lập dân tộc phải gắn với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Độc lập dân tộc phải gắn với cơm no, áo ấm, hạnh phúc của tất cả mọi

người.
2.1.4 Chủ nghĩa dân tộc – Một động lực lớn của đát nước
Nhận thức về dân tộc Hồ Chí Minh đã chỉ ra động lực bên trong để dân tộc phát
triển là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân ta.
Cơ sỡ để Hồ Chí Minh chỉ ra động lực của đất nước là sự phân tích tình hình kinh
tế và chính trị ở Đông Dương. Do sự phân hóa chưa sâu sắc vì vậy sự tương đồng
và mẫu số chung của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội là người nô lệ, mất nước
và khát khao độc lập dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước được Hồ Chí Minh nâng lên
thành chủ nghĩa dân tộc, nêu rõ chủ nghĩa dân tộc mà những người dân tộc mà
những người cách mạng, người cộng sản phải nắm lấy và phát huy.
Chủ nghĩa yêu nước chân chính là làn sóng để nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp
nước và hiện nay là nguồn sức mạnh vô tận mà chúng ta phải khơi dậy để xây
dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2 Mối liên hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
2.2.1 Vấn dề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc.
5


- Khẳng định vai trò của lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo
duy nhất của Đảng cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công
nhân, nông dân và tầng lớp tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách
mạng của kẻ thù.
- Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
2.2.2Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội
- Khác với ác con đường cứu nước của cha ông, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến, con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
- Năm 1920 ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân
tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống
nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
- Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế gới khỏi ách nô lệ”.
- Bác nói: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do,
thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Do đó sau khi giành độc lập, phải tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được sung
xướng tự do.
- Người khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm
no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu thêm”.
2.2.3 Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
- Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện
để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân
tộc.

6


2.2.4 Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các
dân tộc khác
- Là chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc Việt Nam, mà còn dâu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp
bức.

- Thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, Nhưng Hố Chí Minh
không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân
dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ
xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp
mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp
vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
2.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
2.3.1 Mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc.
- Nhận thấy sự phân hóa giai cấp khác nhau ở các nước Phương đông và
phương tây.
- Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa ở phương đông là mâu thuẫn giữa
dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa thực dân nó quy định tính chất và nhiệm vụ hang
đầu của cách mạng ở các nước thuộc địa.
- Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không là giai cấp tư sản bản sứ, càng
không phải là giai cấp địa chủ nói chung mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản
động.
- Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc.
Nông dân có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng họ luôn đặt yêu cầu
độc lập dân tộc cao hơn.
- Tại hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành trung ương Đảng do Hồ Chí Minh
chủ trì đã kiên quyết giuowng cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là
“nhiệm vụ bức thiết nhất”
- Mục tiêu của cách mạng là đánh đổ ách thống trị cảu chủ nghĩa thực dân,
dành độc lập và thiết lập chính quyền của nông dân.

7


2.3.2 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường

cách mạng vô sản.
- Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân pháp, ông cha ta đã sử
dụng nhiều con đường gắn với khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những
vũ khí tư tưởng khác nhau như con đường của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh hay
Hoàng Hoa Thám, tuy nhiên đều thất bại.
- Người đã nghiên cứu con đường cách mạng tư sản của các nước tư bản
phát triển như Anh, Pháp, Mỹ và cho rằng đây là cuộc cách mạng không triệt để
”tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì
áp bức thuộc địa”
- Tháng 7 năm 1920 Người đọc được bản sơ thảo luận cương lần thứ nhất về
những vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-Nin và thấy được cách mạng Tháng
Mười Nga không chỉ là cuộc cách mạng tư sản mà còn là một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc.Từ đó Người hoàn toàn tin vào Lê-Nin va Quốc tế thứ ba bởi LêNin và Quốc tế thứ ba đã bênh vực cho các dân tộc bị áp bức.
- Trong bài Cuộc Kháng Chiến, Hồ Chí Minh viết “Chỉ có giải phóng giai
cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc”

2.3.3 Cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải do Đảng Cộng
Sản lãnh đạo.
- Trong tác phẩm Đường Cánh Mệnh, Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
- Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, một chính Đảng
của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lê Nin làm cốt.
- Theo Hồ Chí minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Người cho rằng Đảng Cộng
Sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt
Nam.
2.3.4 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
- Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân

chúng chứ không phải việc một hai người". Người phân tích: "dân tộc cách mệnh
8


chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền".
- Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ
trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là
then chốt bảo đảm thắng lợi. "
- Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ,
Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc"
xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
- Khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (tháng 121946), Người kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong
tay: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"
- Kêu gọi toàn dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng
định: Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam
yêu nước. "Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân
dân".
- Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp
chặt chẽ với đấu tranh chính trị.
"Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không
kém quan trọng"
-Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do, làm cho
khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự
giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là
ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng
lợi, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong 30 năm chiến tranh cách mạng

Việt Nam, làm nên thắng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.
2.3.5 Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối
9


quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ.
Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi
bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản
ở các thuộc địa
- Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Người khẳng định
vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản
thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc
địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa... nọc độc và sức
sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở
chính quốc"
- Do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh
giá đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính
quốc
- Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống
hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn
thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.3.6 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực
2.3.6.1 Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
- Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn

áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của
chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc
lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực
- Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ
Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng. Hình thức
của bạo lực cách mạngbao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng
phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng
thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng"
- Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ
Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm
10


mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột
bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những
nhượng bộ có nguyên tắc.
- Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách vãn hồi hòa bình.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhiều lần gửi thư cho Chính phủ
và nhân dân Pháp, cho tướng lĩnh, binh sĩ trong quân đội Pháp và những kiều dân
Pháp ở Việt Nam, cho các chính phủ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa và nhân
dân các nước, vừa tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, vừa kêu
gọi đàm phán hòa bình.
- Người viết: "Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt
ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau.
- Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hòa
bình. Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn
toàn đất nước"
- Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện

chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương, yêu nước, thương
dân, yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả
năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến
tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng,
dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc
lập tự do.
2.3.6.2 Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân
tộc
- Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương
châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói:
"Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất
định thua, ta nhất định thắng”, "Trường kỳ kháng chiến... nhất định thắng lợi".
- Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người khẳng định: “Chiến tranh có
thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một
số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.

11


- Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm
phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào
sự giúp đỡ bên ngoài.
- Tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất (tháng 6-1952), Người nói,
muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh.
- Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức
mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh
thần độc lập tự chủ


PHẨN 3: KIẾN THỨC VẬN DỤNG
3.1 Vai trò to lớn, vĩ đại của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần qúi báu của Đảng và dân tộc.
Tư tưởng đó là sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân
loại, là sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta. Trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người thì cách mạng giải
phóng dân tộc là một trong những vấn đề cớ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở
điều này đã thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh mà dưới đây chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu.
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, Người đã mắt thấy
tai nghe những nỗi khổ cực nhọc nhằn của một dân tộc mất nước, cảm nhận được
sự tàn ác dã man của bọn thực dân đế quốc : “Lịch sử việc người Âu xâm chiếm
Châu Phi cũng như bất cứ lịch sử xâm chiếm thuộc điạ nào thì từ đầu đến cuối đều
được viết bằng máu những người bản xứ “. Yêu nước thương dân, sau bao năm :
“Lênh đênh bốn bể một con tàu” Người đã tìm ra con đường cưu nước cứu dân : “
Muốn cưú nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”. Chỉ có con đường này mới giải phóng được hai mặt cơ bản của
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫm giữa hội Việt Nam Đế Quốc Tay Sai và
mâu thuẫn nhân dân với điạ chủ phong kiến muốn giải quyết được hài hòa vấn đề
giai cấp và vấn đề dân tộc. Theo Người : “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc. Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của CNCS và cách mạng thế giới. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh cơ sở hàng
đầu để đánh giá tính triệt đổ của một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng quần
chúng lao động bị ápbức, vì thế Người đã chọn con đường cách mạnh vô sản, theo

12


gương cách mạng tháng 10 Nga là một cuộc cách mạng nằm trong dòng chảy liên
tục của quá trình giải phóng con người.

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước ta, Người đã
xác định cách mạng Việt Nam phải trãi qua hai giai đoạn mà đã được thể hiện Q.
VVVT là : “Chủ trương làm TS dân quyền cách mạng và thổ địa CN để đi tới
XHCS”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã
hội đã được thể hiện rất rõ ràng và đó là luận điểm trọng tâm xuyên suốt toàn b ộ
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Đó là
điểm khác biệt căn bản giữa con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các ngà
yêu nước khác như : Phan Bội Châu, Phan Chu trinh, Nguyễn Thái Học … Phan
Bội Châu đã phải thốt lên : “Than ôi ! Lịch sử của tôi là lịch sử một trăm thất bại
không một thành công”, thì ngược lại, Hồ Chí Minhlà người duy nhất tìm ra con
đường đúng đắn để cứu nước, giải phóng cho nhân dân lao động.
Trong tư tưởng về chủ nghĩa giải phóng dân tộc đã thể hiện sự sáng tạo thiên
tài của Hồ Chí Minh. Đó là luận điểm về cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạnh vô sản chính quốc và tác động trở
lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Là người yêu nước, lăn lộn trong phong trào
cộng sản và chủ nghĩa quốc tế lại là người hoạt động rất tích cực trong phong trào
giải phóng dân tộc thế giới nên Người hiểu rõ hơn ai hết về thuộc địa, về chủ nghĩa
thực dân, về những nối thống khổ mà nhân dân thuộc địa phải gánh chịu. Người đã
thấy được tinh thần cách mạng đang ầm ỉ và ngày càng mãnh liệt của nhân dân
Đông Dương. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì
đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Sự
tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đatá rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải
làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Hồ Chí Minh đã
vì chủ nghĩa đế quốc như con đĩa hai vòi, mộtvòi hút máu nhân dân lao động chính
quốc, một vòi hút máu nhân dân thuộc địa. Khi cách mạng bùng nồ thì hàng trăm
triệu nhân dân thuộc địa sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ thủ tiêu một trong
những ĐK tồn tại của chủ nghĩa tư bản, cắt bớt một vòi của chủ nghĩa đế quốc và
như thế họ có thể giúp đỡ người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải
phóng hoàn toàn, cắt đứt cái vòi còn lại của chủ nghĩa đế quốc ở chính quốc. Theo

Hồ Chí Minh : “An Nam dân tộc cách mạng thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản
Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mạng cũng dễ dàng”. Như vậy, Hồ
Chí Minh chẳng những hiểu rõ về sức mạnh to lớn của phong trào giải phóng dân
tộc mà còn thấy được tính chủ động, tích cực của cách mạng giải phòng dân tộc.
13


Theo Người, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc quan hệ mật thiếc với
nhau như hai cánh của một con chim trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là
chủ nghĩa đế quốc.Trong cuộc đấu tranh đó, khi có chủ nghĩa Mác – Lênin soi
đường và được Đảng Cộng Sản lãnh đạo thì nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể
chủ động tự đứng lên : “đem sức ta mà tự giải phòng cho ta”. Mặc dù, ở các nước
thuộc địa CN, thương nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, trình
dộ thấp kém. Hồ Chí Minh sớm ý thức được về sức mạnh tự giải phóng của nhân
dân các dân tộc bị áp bức. Theo Người cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp
của bản thân các dân tộc bị áp bức. “Hỡi anh em ở các nước thuộc điạ ! Anh em
phải làm thế nào để được giải phóng ? vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi
xin nói với anh em rằng : công cuộc giải phóng, anh em chỉ có thể thực hiện được
bằng nổ lực của bản thân anh em …”. Luận điểm dân tộc tự đứng lên giải phóng
được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Nói như vậy, không có nghĩa là không cần sự giúp đỡ của bè bạn năm châu, ngược
lại sự giúp đỡ đó lá rất quí báu, song “chỉ có chúng ta mới giải quyết được số phận
chúng ta, và hoàn cầu cũng chú ý đến chúng ta khi chúng ta mạnh. Tóm lại, lực
lượng đoàn kết và chiến đấu của toàn dân vẫn là tất cả, vẫn định đoạt tất cả”. Ở Hồ
Chí Minh, việc tập hợp lực lượng cách mạng cũng thể hiện sự linh hoạt sáng tạo
của Người. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của
toàn dân, “nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều chống lại cường quyền …”, giải
phóng dân tộc là việc chung của dân chúng, của đồng bào ta. Nhờ vậy, mà cách
mạng Việt Nam đã tổ chức được một lực lượng cách mạng vô cùng to lớn dướisự
lãnh đạo giai cấp công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam, giành

được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Như vậy, tư tưởng cách mạng thuộc địa có
thể thành công trước cách mạng chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng
chính quốc là sáng tạo thiên tài của HoÀ Chí Minh làm phong phú thêm lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin về CMDT nói chung và cách mạng giải phóng dân tộc
nói riêng. Luận điểm này có ý nghĩa chủ đạo thực tiễn rất quan trọng đối với phong
trào giải phóng dân tộc. Nó chỉ ra cho nhân dân các dân tộc thuộc địa không nên
trông chờ ỷ lại vào cách mạng chính quốc mà phải chủ động đứng lên tự giải
phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, góp phần tích cực vào cách mạng
thế giới trong đó có cả cách mạng ở chính quốc. Thực tiễn cách mạng Việt nam mà
điển hình là cách mạng tháng 8 thành công đã chứng minh và khẳng định tính đúng
đắn của luận điểm trên.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho toàn Đảng, toàn dân nhứt là trong giai
đoạn đổi mới hiện nay. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần
14


kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ vững định lý xã hội
chủ nghĩa, phát huy tinh thần tự lực tự cường (phát huy nội lực trong xây dựng đất
nước, giữ gìn sự trong sáng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ quan điểm có áp bức thì có đấu tranh, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vì
bị áp bức mà sinh ra cách mạng, cho nên hễ bị áp bức càng nặng thì lòng cách
mạng càng cao, chí cách mạng càng quyết. Người đã chỉ rõ nhân dân thuộc địa
chịu đau khổ gấp ngàn lần nội đau của giai cấp công nhân chính quốc. Trên thế
giới không có dân tộc chiến bại nào bị đàn áp và hành hạ như người dân thuộc địa.
3.2 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển đất nước
ngày nay
3.2.1 Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn trí tuệ thiên tài của lý luận
Mác-Lê nin với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại được

vạn dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, để
hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn trong từng giai đoạn,
từng thời điểm cụ thể. Nhờ có dự báo thiên tài, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ dẫn
bước đi để dân tộc ta vượt qua mọi hiểm nguy, thử thách, giành thắng lợi từng
bước và hướng tới tương lai. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, quá trình trưởng
thành, chiến thắng của Đảng đó khẳng định: khi tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí
Minh được thấm nhuần và vận dụng đúng đắn lúc đó chúng ta có đường lối đúng,
cách mạng giành thắng lợi; lúc nào tư tưởng của Người không được quán triệt sâu
sắc và vận dụng sáng tạo thời điểm có bộ tham mưu, cán bộ, đảng viên có sai lầm,
cách mạng gặp khó khăn. Đó là bài học lịch sử sâu sắc trong đấu tranh cách mạng
ở Việt Nam. Khi Người còn sống, quân dân ta trọn niềm tin: “Bác bảo đi là đi, bảo
thắng là thắng”. toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đó tiến lên dưới là cờ quyết chiến,
quyết thắng của Người, và đó lập nên những kì tích có tầm vóc thời đại: thắng lợi
của cách mạng Tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh
đại thắng…
Quán triệt sâu sắc điều đó để trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cần khơi
dậy niềm tin và tình cảm sâu sắc của nhân dân ta, Đảng ta, các lực lượng vũ trang
ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; nguyện trung thành học tập và vận dụng tư tưởng
của Người vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng; tỉnh táo và kiên
quyết đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm phản động sai trái, giữ gìn
và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ gìn và phát huy
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng; phát huy ý nghĩa của tư
15


tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
3.2.2 Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng Người cũng luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để giải quyết vấn

đề dân tộc. Quan điểm kết hợp nhuần nhuyễn giai cấp và dân tộc của Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ:
Luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản – Đảng của giai cấp công nhân vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá
trình cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc di tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương đoàn kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh
công nông và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong đấu tranh giành chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo lực cách mạng
của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù…
Đó là những quan điểm có tính nguyên tắc, bất biến mà chúng ta cần vận dụng
quán triệt trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Trong phong trào cách mạng thế giới, có lúc đã từng diễn ra khuynh hướng chỉ
nhấn mạnh một chiều quan điểm giai cấp, coi nhẹ vấn dề dân tộc, có lúc lại chỉ
nhấn mạnh yếu tố dân tộc yếu tố nhân loại mà coi nhẹ hoặc vứt bỏ yếu tố giai cấp,
từ bỏ đấu tranh cách mạng, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản. Dù tình hình thế giới có
biến động, nhưng ngày nay đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục
diễn ra dưới nhiều ra dưới nhiều hình thức.
Đối với nước ta, con đường phát triển đảm bảo cho dân tộc thoát khỏi vĩnh
viễn áp bức bốc lột, tránh đi vào chế độ xã hội trong đó giai cấp này áp bức bốc lột
giai cấp khác, tiến tới xã hội giàu mạnh, công bằng dân chủ, văn minh chỉ có thể là
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường mà Hồ Chí
Minh đã vạch ra. Con đường phát triển cho phép kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và
lợi ích giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sẽ không thể có chủ
nghĩa xã hội nếu không bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. Ngược lại, độc lập dân
tộc không thể được củng cố vững chắc nếu không tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây
không chỉ là nguyên tắc cơ bản mà còn là thước đo bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; là nhu cầu chân chính và khát vọng cháy
bỏng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc trên con đường
phát triển dưới sự lãnh đạo của Đản cộng sản . Đây cũng chính là nơi phát triển của
16



giai cấp công nhân, là lý do tồn tại của Đảng và là con đường sinh tồn và phát triển
của dân tộc Việt Nam. Con đường ấy, đòi hỏi chúng ta phải tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, tìm tòi sáng tạo trong từng giai đọa, không thể nóng vội, chủ
quan, duy ý chí. Lịch sử dân tộc gần tám mươi năm qua chứng minh con đường mà
dân tộc ta lựa chọn là đúng đắn. đường lối kết hợp độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là nhân tố quyết định của những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách
mạng Việt Nam, và sự tiếp tục của nó là công cuộc đổi mới và phát triển đất nước
hiện nay.
Nhận thức đúng đắn vấn đề trên, sau hơn hai mươi năm đổi mới với tinh thần
độc lập dân tộc
Gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã thu được những thành tựu hết sức to
lớn. Độc lập của chủ quyền quốc gia được giữ vững, vị thế của dân tộc ta trên
trường quốc tế được nâng cao, chủ nghĩa xã hộ được định hướng rõ ràng, thành tựu
mà chủ nghĩa xã hội đạt được về mặt ngày càng to lớn. Lợi ích dân tộc và lợi ích
giai cấp công nhân, nhân dân lao động luôn thống nhất, gắn bó với nhau. Đó chính
là một động lực rất quan trọng, một sự khích lệ lớn để dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, của giai cấp công nhân tiếp tục đi lên, phát triển và giành được những
thắng lợi to lớn hơn nữa trên con đường mà Bác Hồ, nhân dân ta đã lựa chọn. Đó là
con đường duy nhất đúng đắn đảm bảo cho sự phát triển dân tộc ta trong thời đại
mới.
3.2.3 Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,đoàn kết hữu nghị và
hợp tác với các dân tộc trên thế giới
Lòng yêu nước và ý thức cộng đồng, đó là truyền thống quý báu, là sức mạnh
vô địch của nhân dân Việt Nam. Cùng chung một bọc, nghĩa lớn đồng bào, 54 dân
tộc Việt Nam đã đoàn kết, lên rừng, tiến ra biển khẩn hoang, dựng nước, chống
giặc ngoại xâm để giữ gìn non sông gấm vóc. Anh hùng dân tộc của những cuộc
khởi nghĩa, dựng cờ dấy binh chống áp bức, bốc lột, chống thù trong giặc ngoài
gồm cả người Kinh và người các dân tộc thiểu số. Dù miền xuôi hay miền ngược,

ai cũng chứa chan bầu máu nóng trách nhiệm với Tổ quốc và tương con cháu.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. vấn đề dân tộc đã được giải quyết trên
nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bác Hồ nói: “Đồng
bào tất cả các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh
em trong một nhà”. Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn đề dân tộc ở vị trí chiến
lược, có tầm quan trọng sống còn đối với một quốc gia và là một nội dung lớn của
cách mạng Việt Nam. Nhờ có đường lối chính trị và chính sách dân tộc đúng đắn
17


của Đảng, Nhà nước, các dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị phân biệt đối xử,
trở thành chủ nhân đất nước, gắn bó bền chặt, sướng khổ có nhau, cùng nhau lao
động, đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Ngày nay, tuy còn nhiều khó khăn, có nơi nghèo đói và lạc hậu, nhựng nhìn
chung miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã và đang có nhiều chuyển
biến về kinh tế - xã hội. Các chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội,
các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách hỗ trợ ưu tiên không chỉ là nguồn
động lực cho các thành tựu phát triển mà còn là cơ sở để củng cố lòng tin của đồng
bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng và Nhà nước, tăng cường đoàn kết trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam. Mặc dù vậy, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
còn rất nhiểu bức xúc mà các cấp, các ngành mà mỗi người phải chăm lo giải
quyết. Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc anh em, để thực hiện các
dân tộc bình đẳng, đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau, thu hẹp dần khoảng cách giữa
miền núi và miền xuôi, thực hiện công bằng xã hội, cần tiếp tục có các chủ trương,
chính sách về kinh tế - xã hội cụ thể, phù hợp từng vùng dân tộc, miền núi, vùng
sâu, vùng xa, tạo cho đồng bào dân tộc thiểu số phát triển nhanh hơn. Thực hiện
thật tốt Chương trình 135 làm chuyển biến rõ nét bộ mặt những xã đặc biệt khó
khăn ở miền núi, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở
mang dân trí, giữ gìn, làm giàu bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên, đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Tăng

cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng. Mặt khác,
động viên tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số; khắc phục
tư tưởng tự ti mặc cảm; cảnh giác đập tan những âm mưu của các thế lực thù địch
lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp vô cùng vẻ vang, song
cũng đầy khó khăn, thử thách. Động lực mạnh mẽ của nước ta hiện nay là sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân. Mỗi người Việt Nam thiết tha yêu Tổ quốc, lao động
sáng tạo, đem trí tuệ, tài năng, công sức xây dựng đất nước giàu mạnh cho thế hệ
hôm nay và con cháu mai sau, xóa nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước tiến
lên hàng những nước tiên tiến trên thế giới. Chỉ có như vậy mới giữ vững được độc
lập dân tộc, mang lại quyền lợi lâu dài cho mỗi dân tộc thiểu số và cả dân tộc Việt
Nam. Độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khóa
để mở đường hội tụ thắng lợi của chiến lược:” Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kì đổi mới, Đảng ta tiếp tục
giương cao ngọn cờ đại đoàn kết, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối
18


đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh với giai cấp công – nông với trí thức làm nền
tảng; lấy mục tiêu độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh là điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác
nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc… Chủ trương đó của Đảng đã thực
sự đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, dù ở
trong nước hay định cư nước ngoài đồng tình ủng hộ và đã thu được những kết
quả tốt đẹp. Khối đại đoàn kết được tăng cường và mở rộng hơn một bước, đã huy
động được sức người, sức của của đồng bào ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài
đóng góp vào thành tựu của công cuộc đổi mới.
Về đoàn kết quốc tế, Đảng ta luôn phát huy chủ nghĩa quốc tế trong sáng cao
cả, làm hết sức mình để góp phần quan trọng xây dựng tình đoàn kết giữa các đảng

cộng sản và công nhân, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết trong, phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế trong tình hình mới, coi đó là một trong những yếu tố quan
trọng đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra và thực hiện nhất
quán đường lối, chính sách đối ngoại” độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Nước
ta đã chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế quốc tế trong bối cảnh thế giới
đang có nhiều biến động phức tạp, khó lường, các quan hệ chính trị, kinh tế đan
xen.
Bối cảnh tình hình thế giời và khu vực những năm gần đây vẫn là tiềm ẩn và
ngày nay nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến môi trường an ninh và phát triển
của các quốc gia, dân tộc. Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn của
thời đại, nhưng ở một số nơi, xung đột cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên vẫn
xảy ra; một số khu vực trên thế giới, khủng bố, ly khai, có chiều hướng gia tăng…
Cục diện thế giới tiếp tục có những chuyển biến quan trọng với xu thế đa cực ngày
càng rõ nét hơn. Sự tập hợp lực lượng quốc tế diễn ra phức tạp trong khuôn khổ
vừa hợp tác vừa đấu tranh, các nước đang phát triển có vai trò ngày càng tăng
trong xử lý những mối quan hệ quốc tế. Xu thế tự lực tự cường chống áp đặt cường
quyền được thúc đẩy ở nhiều quốc gia, dân tộc. Vị thế của khu vực châu Á – Thái
Bình Dương trên “ bàn cờ” quốc tế ngày càng được coi trọng.
Hiện nay, khi những điều kiện quốc tế có sự thay đổi khá nhiều so với bốn
mươi năm trước thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ mở ra khả năng rộng lớn để
vận dụng, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đối ngoại mà đại hội X của Đảng đề
ra. Vì vậy, trong thời kì mới Đảng và nhà nước ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc mở
19


rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các dân tộc, các tổ
chức quốc tế, trên tinh thần giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, kết hợp lợi ích

quốc gia với lợi ích quốc tế.
Với chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị
và hợp tác nhiều mặt với các nước, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Đây vừa là thể hiện mong ước cao cả của chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là sự kiên
định đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn. Trong tăng cường
xây dựng, củng cố tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng, cần
coi trọng cả ba tầng nước: các nước chung biên giới, các nước Đông Nam Á, các
nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Việc mở rộng quan hệ hữu nghị là hợp
tác càng làm cho nước bạn hiểu rõ và tin cậy Việt Nam hơn, đồng thời thông qua
đó để cùng nhau đóng góp tích cực thúc đẩy xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm
2015 với ba trụ cột: cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng An ninh và Cộng đồng Văn hóa
– Xã hội.
Kế thừa và phát huy tư tưởng đại đoàn kết của chủ tịch Hồ Chí Minh trong
thời kì mới của cách mạngn Đảng, Nhà nước và toàn dân ta nhất định sẽ tiếp tục
tăng cường tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực
hội nhập, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa
phương hóa, đa dạng hóa, các quan hệ quốc tế. Tư tưởng đoàn kết quốc tế trong Di
chúc của Người cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và mãi tỏa sáng, đồng
hành cùng dân tộc và thời đại.

20


PHẦN 4: KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có
những luận điểm sáng tạo, đặc sắc, có giá trị lí luận và thực tiễn lớn.
4.1 Làm phong phú học thuyết Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa
-Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
Chủ nghĩa Mác – Lênin xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng

chính trị vô sản, nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc là do Hồ
Chí Minh hoạch định từ trước.
Hồ Chí Minh không tự rập khuôn vào những nguyên lý có sẵn, mà có sự kết
hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc
theo quan điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trên vấn đề dân tộc,
gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm hệ
thống quan điểm sáng tạo độc đáo. Lý luận đó đã được thực tiễn chứng minh
lý luận cách mạng giải phóng dân tộc là đúng đắn.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một đóng góp
to lớn vào kho tàng lý luận cách mạng của thời đại, làm phong phú thêm chủ
nghĩa Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa.
-Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng toàn dân tộc.
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh
hết sức độc đáo và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện cụ thể ở thuộc địa, so sánh lực lượng quá chênh
lệch về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc,
Hồ Chí Minh đã xây dựng phương pháp đấu tranh toàn dân.
Hồ Chí Minh sử dụng quan điểm toàn diện, biện chứng để phân tích, so
sánh lực lượng giữa ta và địch. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dựa vào
sức mạnh to lớn đó để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách
mạn, kết hợp các qui luật khởi nghĩa và chiến tranh.
Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của V.I.Lê nin
về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao
gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng đó vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, góp phần quyết định trong việc xác định con đường cứu nước mới,
làm cho phong trào yêu nước chuyển sang con đường cách mạng vô sản.


21


Hồ Chí Minh tập hợp những thanh niên yêu nước, truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lê nin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho họ, dẫn dắt họ
chuyển từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
4.2 Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Cách mạng tháng Tám và 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam(1945-1975)
đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ, tính khoa học, tính cách mạng và sáng
tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
-Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945
Theo lý luận giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, Đảng đã chủ trương ‘thay
đổi chiến lược’, kiên quyết giương cao ngọn cờ gải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ
chống đế quốc lên hàng đầu, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng
nước ở Đông Dương, thành lập mặt trận Việt Minh. Đẩy mạnh xây dựng lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang , khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du
kích cục bộ, giành chính quyền bộ phận ở nông thôn, chớp thời cơ giành chính
quyền trong cả nước.
-Thắng lợi của 30 năm chiến tranh cách mạng 1945-1975
*Kháng chiến chống Pháp:
Quân và dân ta với tinh thần “thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước”, mỗi người dân là một người lính, mỗi làng xã là pháo đài đánh giặc
toàn diện. Đấu tranh kết hợp xây dựng tổ quốc, từng bước làm hay đổi so sánh
lực lượng giữa ta và địch, tiến đến thắng lợi chiến lược Đông Xuân 1953-1954
và chiến dịch Điện Biên Phủ, làm thay đổi cục diện chiến tranh, buộc Pháp phải
kí hiệp định Giơnevơ kết thúc chiến tranh.
*Kháng chiến chống Mỹ :
Quân và dân ta đã nêu cao tinh thần dám đánh Mỹ, quyết thắng Mỹ, với tinh
thần: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” quán triệt tư tưởng tiến công,
phương châm đánh lâu dài và chiến thắng từng bước. Vừa xây dựng miền bắc,

vừa đẩy mạnh chiến tranh ở miền nam. Kết hợp lực lượng chính trị với lực
lượng đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần tiến đến chiến tranh cách mạng,
kết hợp ba mũi giáp công quân sự chính trị và binh vận; kết hợp ba vùng chiến
lược nông thôn rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; kết hợp khởi nghĩa và
chiến tranh , kết hợp nổi dậy và tiến công; kết hợp chiến tranh nhân dân với
binh đoàn chủ lực; kết hợp ba thứ quân; kết hợp đánh lớn vừa và nhỏ; kết hợp
22


đấu tranh trên ba mặt trận quân sự chính trị và ngoại giao thực hiện “đánh cho
Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”
Những thắng lợi hùng hồn của cách mạng Việt Nam trong thế kỉ XX đã chứng
tỏ giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và giải phóng dân tộc chúng ta phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ
quốc; nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân,
chăm lo khối đại đoàn kết dân tộc giải quyết tốt quan hệ giữa các dân tộc anh
em và trong dân tộc Việt Nam.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
2.
3.

GIÁO TRÌNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH( NXB chính trị quốc gia)

/> />%C6%B0%E1%BB%9Fng-h%E1%BB%93-ch%C3%AD-minh-v%E1%BB
%81-c%C3%A1ch-m%E1%BA%A1ng-gi%E1%BA%A3i-ph%C3%B3ng



×