Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch diễn án Hồ sơ dân sự 07 Ly hôn Nguyệt Hảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.21 KB, 12 trang )

BỘ TƯ PHÁP
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHÓA ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ LUẬT SƯ
---o0o---

BẢN THU HOẠCH
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG LS.DS - 07
TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ:
LUẬT SƯ ĐẠI DIỆN CHO NGUYÊN ĐƠN

[Author name]


MỤC LỤC
1. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU CỦA ĐƯƠNG SỰ..........2
1.1.

Tóm tắt nội dung tranh chấp..............................................................................2

1.2.

Yêu cầu của nguyên đơn.....................................................................................3

1.3.

Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn..............................3

2. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA........................................................................3
2.1.



Hỏi nguyên đơn – chị Nguyễn Thị Hảo..............................................................3

2.2.

Hỏi bị đơn – anh Nguyễn Văn Nguyệt...............................................................4

2.3.

Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – bà Thoa.................................4

2.4.

Hỏi người làm chứng...........................................................................................4

3. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN.......................................................................5

1


1. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU CỦA ĐƯƠNG SỰ
1.1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
Nguyên Đơn: Chị Nguyễn Thị Hảo
Bị Đơn: Anh Nguyễn Văn Nguyệt
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị Thoa và Ông Nguyễn Văn Cang – có tài sản liên quan
Ngày 26/03/1999, chị Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết hôn
tại UBND xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải
Dương. Việc kết hôn này dựa trên sự tự nguyện của 2 người.
Sau khi kết hôn và chung sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, hai

người sống ly thân hơn 01 năm kể từ năm 2014.
Về con chung: 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi (sinh 04/01/2000) và Nguyễn Đức
Anh (sinh 13/06/2007).
+ Cháu Nhi có đơn đề nghị được ở với mẹ (BL 30). Kể từ khi ly thân, cháu Nhi đang
sống cùng chị Hảo.
+ Cháu Đức Anh có đơn dề nghị ở với mẹ, sau làm đơn đề nghị ở với bố (BL 31-32).
Kể từ khi ly thân, cháu Đức Anh sống cùng anh Nguyệt.
Về tài sản chung:
+ Chị Hảo xác định:
1) Nhà đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2 tại xã Thượng Đạt,
thành phố Hải Dương. Tài sản gắn liền trên đất bao gồm: 01 ngôi nhà 18m 2 lợp ngói, 1
gian bếp và nhà vệ sinh khoảng 10m2, 1 giếng khơi, 1 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6m3;
2) 1965m2 đất ruộng, ao khoán có địa chỉ tại: Bãi Nam, khu 02 Thượng Triệt, xã
Thượng Đạt, Tp. Hải Dương để sử dụng vào mục đích chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Sau,
anh Nguyệt và chị Hảo làm đơn đề nghị Tòa án không giải quyết về tài sản này.
+ Anh Nguyệt xác định:
1) Không có tài sản chung là thửa đất số 496;
2) Tài sản chung chỉ bao gồm 01 ngôi nhà 18m2 lợp ngói, 1 gian bếp và nhà vệ sinh
khoảng 10m2, 1 giếng khơi, 1 bể xây gạch xi măng khoẳng 1,6m3.
Về nợ chung: Khoản nợ đối với ngân hàng Agribank: nợ gốc 20.000.000 và số tiền
lãi phát sinh cho đến khi tất toán hợp đồng. Đã hoàn thành trả vào 28/06/2016 và ngân
hàng Agribank đã hoàn trả lại GCNQSDĐ đối với thửa đất 496 (BL 148-154)

2


1.2. Yêu cầu của nguyên đơn
1- Ly hôn với anh Nguyễn Văn Nguyệt;
2- Nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng;
3- Chia đôi tài sản chung là thửa đất 496 bằng hiện vật. Không yêu cầu giải quyết

các tài sản còn lại.
1.3. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Các chứng cứ ban đầu chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ
và hợp pháp bao gồm:
- Bản sao sổ hộ khẩu gia đình số 270056469 (BL 05-07) – xác minh tư cách cá
nhân của chị Hảo
- Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn ngày 26/03/1999 (BL 02) – Hôn nhân giữa anh
Nguyệt và chị Hảo là tự nguyện và đúng pháp luật;
- Bản sao Giấy khai sinh cháu Nhi số 73 quyển số 2014 và cháu Nguyễn Đức Anh
số 38 quyển số 2007 (BL 03-04) – chứng minh về con chung;
- Đơn đề nghị của cháu Nhi (BL 30 ) – chứng minh mong muốn được ở với mẹ
của cháu Nhi;
- Đơn đề nghị của cháu Đức Anh (BL 31) – chứng minh mong muốn được ở với
mẹ của cháu Đức Anh;
- Bản sao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496 đứng tên
anh Nguyễn Văn Nguyệt và chị Nguyễn Thị Hảo (BL 08-11) – chứng minh về tài
sản chung.
2. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
Mục đích: Làm sáng tỏ các sự việc, đồng thời chứng minh yêu cầu của Nguyên đơn
- chị Nguyễn Thị Hảo là có căn cứ và hợp pháp.
2.1. Hỏi nguyên đơn – chị Nguyễn Thị Hảo
1) Chị Hảo cho biết, tại sao chị lại quyết định ly hôn?
2) Chị cho biết, hiện tại chị đang làm công việc gì? Ở đâu? Mức thu nhập là bao
nhiêu?
3) Kể từ khi ly thân, chị sống ở đâu? Cùng với ai?
4) Kể từ khi ly thân, chị có gặp cháu Đức Anh không?
5) Ai là người kê khai để cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 496?
6) Kể từ khi biết anh chị được cấp GCNQSDĐ, có ai có ý kiến gì không? Có tranh
chấp gì không?
3



7) Trong quá trình ở trên diện tích đất, anh chị đã tôn tạo và xây dựng những gì? Có
ai có ý kiến gì không?
2.2. Hỏi bị đơn – anh Nguyễn Văn Nguyệt
1) Anh Nguyệt cho biết, anh có thường xuyên chơi bài, uống rượu không?
2) Anh cho biết, trong thời gian hôn nhân, anh có từng có hành vi đánh chị Hảo
không?
3) Kể từ khi ly thân, cháu Đức Anh có được gặp mẹ không? Cháu được gặp mẹ mấy
lần?
4) Việc anh chị được cấp GCNQSDĐ, có ai có ý kiến gì không? Có tranh chấp
không?
2.3. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – bà Thoa
1) Bà có biết việc anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số
496 không?
2) Việc vợ chồng anh chị Nguyệt – Hảo xây nhà trên thửa đất số 496, bà có ý kiến gì
không?
3) Từ lúc vợ chồng anh chị Nguyệt – Hảo được cấp GCNQSDĐ đến trước khi ly
thân, bà có ý kiến gì không?
4) Từ năm 1999 đến nay, bà có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất đối với thửa đất này
không?
2.4. Hỏi người làm chứng
1- Hỏi ông Bích – công chức địa chính xã Thượng Đạt
1) Sau khi vợ chồng anh chị Nguyệt – hảo được cấp GCNQSDĐ, UBND xã có nhận
được bất kỳ ý kiến, thư khiếu nại nào không?
2) Ông cho biết, có tranh chấp gì đối với thửa đất số 496 không?
2- Hỏi ông Tư – cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt
1) Ông cho biết, việc anh Nguyệt đánh và không cho cháu Đức Anh gặp chị Hảo có
được nhiều người biết không?


4


3.

LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
BẢN LUẬN CỨ
Kính thưa:

- Hội đồng xét xử
- Vị đại diện Viện Kiểm sát
- Toàn thể quý vị đang có mặt tại phiên tòa ngày hôm nay

Tôi là luật sư Phạm Thị Kiều Trinh – Thuộc văn phòng Luật sư AN thuộc Đoàn Luật
sư thành phố Hà Nội. Tôi tham gia phiên toà hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Hảo trong vụ án ly hôn được đưa
ra xét xử ngày hôm nay.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, trao đổi với các đương sự và theo dõi diễn biến phiên
tòa ngày hôm nay, tôi xin đưa ra quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp
pháp cho nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Hảo. Chúng tôi xin khẳng định, các yêu cầu chị
Nguyễn Thị Hảo đưa ra là hoàn toàn có căn cứ và hợp pháp.
I.

CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG
Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đã đảm bảo đúng các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự. Trong quá trình giả quyết vụ án cho đến thời điểm diễn ra phiên tòa ngày
hôm nay, không phát sinh các tình tiết tố tụng làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ
án.

II. CÁC VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Về yêu cầu ly hôn
Chị Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết hôn hợp pháp với
nhau trên cơ sở tự nguyện theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 26/03/1999. Tuy
nhiên, chỉ sau 02 năm, đời sống hôn nhân của anh Nguyệt và chị Hảo đã nảy sinh nhiều
mâu thuẫn.
Theo như lời trình bày của cả hai bên thì quan hệ hôn nhân của vợ chồng anh
Nguyệt và chị Hảo đã mâu thuẫn đến mức đỉnh điểm, không thể hòa giải được. Hai anh
5


chị đã ly thân từ ngày 14/12/2014. Từ đó đến nay, chị Hảo xác định tình cảm vợ chồng
không còn, hai vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Vì vậy, chị Hảo xin ly hôn
với anh Nguyệt. Anh Nguyệt cũng xác nhận không còn tình cảm vợ chồng và đồng ý yêu
cầu ly hôn của chị Hảo.
Do vậy, có thể khẳng định rằng cả hai bên không thể tiếp tục sống chung, hôn nhân
lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, tôi kính đề
nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 (Luật
HNGĐ 2014) và các chứng cứ tại hồ sơ cũng như tại phiên tòa hôm nay, chấp nhận yêu
cầu ly hôn của anh Nguyệt và chị Hảo.
2. Về việc nuôi con chung
1- Về việc nuôi dưỡng cháu Nhi
Cháu Nguyễn Thị Nhi sinh ngày 04/01/2000, là con chung của anh Nguyệt và chị
Hảo trong thời kỳ hôn nhân.
Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyệt và chị Hảo đã đạt được thỏa thuận về
việc chị Hảo sẽ tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nhi, thể hiện tại các biên bản hòa giải (BL 148152, 175-177).
Đồng thời, cháu Nhi cũng có đề nghị được ở với mẹ thông qua Đơn đề nghị (BL 30)
và khả năng kinh tế cũng như các yếu tố khác của chị Hảo có thể đáp ứng tốt việc nuôi
dạy cháu Nhi.
2- Về việc nuôi dưỡng cháu Đức Anh

Cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/06/2007, là con chung của anh Nguyệt và chị
Hảo trong thời kỳ hôn nhân, tính đến thời điểm hiện tại cháu Đức Anh đã trên 07 tuổi.
Thứ nhất, theo đơn đề nghị (BL 31) và Biên bản lấy lời khai (BL 167-168), có thể
thấy được nguyện vọng của cháu Đức Anh, nếu hai bố mẹ ly hôn, cháu muốn được ở với
mẹ. Hiện nay cháu Đức Anh đã được 10 tuổi. Đây là độ tuổi khá nhạy cảm về dễ bị ảnh
hưởng về tâm lý và tính cách. Trong bối cảnh cha mẹ ly hôn, việc cháu được ở cùng với
mẹ và chị gái 16 tuổi sẽ tốt hơn cho cháu và bản thân cháu cũng đã thể hiện nguyện vọng
được ở với mẹ tại biên bản lấy lời khai của Quý tòa ngày 05/07/2016 (BL 167-168) có sự
chứng kiến của bà Nguyễn Thị Thoa là bà nội của cháu.
Thứ hai, về vấn đề kinh tế và khả năng nuôi dưỡng, hiện nay, chị Hảo đang sống ở
nhà mẹ đẻ và có công việc với mức lương khá và nơi ở ổn định, cùng với đó là sự giúp đỡ
của mẹ ruột chị trong việc nuôi dạy các cháu. Điều này thể hiện ở phần xét hỏi tại phiên
6


tòa ngày hôm nay, biên bản lấy lời khai của chị Hảo (BL 108-109). Nói cách khác, chị
Hảo hoàn toàn có đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu Đức Anh.
Ngoài ra, trong thời gian qua khi cháu Đức Anh ở với bố, anh Nguyệt đã không cho
chị Hảo gặp cháu, nếu chị Hảo gặp thì anh Nguyệt sẽ đánh cháu. Điều này chính quyền và
bà con hàng xóm láng giềng đều biết và ông Đỗ Văn Tư - cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt
cũng đã xác nhận thực tế này thông qua biên bản xác minh ngày 09/03/2016 (BL 73-74).
Như vậy, nếu như anh Nguyệt được giao nuôi cháu Đức Anh thì sau khi ly hôn, quyền
được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đức Anh của chị Hảo theo khoản
2 Điều 83 Luật HNGĐ 2014 không được bảo đảm.
Như vậy, việc chị Hảo yêu cầu nuôi cả 2 con chung là cháu Nhi và cháu Đức Anh và
không cần cấp dưỡng là hoàn toàn phù hợp với các quy định pháp luật cũng như thực tế
hiện tại và mong muốn của cháu Đức Anh và cháu Nhi.
3. Về tài sản chung
Tài sản chung yêu cầu phân chia sau khi ly hôn của anh Nguyệt và chị Hảo chỉ có
ngôi nhà và các công trình phụ nằm trên thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích

216m2, có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
3.1. Thửa đất số 496 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của anh Nguyệt và chị
Hảo
Thứ nhất, vợ chồng anh chị Nguyệt – Hảo được ông bà Cang – Thoa cho thửa đất
số 496 để xây nhà và sinh sống.
Chị Hảo và anh Nguyệt đều thống nhất rằng anh chị đã được bố mẹ chồng là bà
Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang cho vợ chồng xây dựng nhà và công trình
phụ để ra ở riêng từ năm 1999 sau khi kết hôn. Điều này cũng đã được thể hiện qua Biên
bản lấy lời khai của ông Ông Đỗ Văn Tỏ (BL 69-70), là anh em trong họ với anh Nguyệt
xác nhận cùng với Biên bản lấy lời khai của ông Nguyễn Văn Giới (BL 67-68) và một số
thợ khác đã xây nhà và công trình phụ cho hai vợ chồng năm 1999.
Thứ hai, thửa đất này đã được cấp GCNQSDĐ cho hai vợ chồng chị Hảo và anh
Nguyệt từ năm 2005 một cách hợp pháp và trong suốt thời gian đó đến này không hề phát
sinh bất kỳ tranh chấp nào.
+ Ngày 31/12/2005, UBND huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương đã cấp cho ông
Nguyễn Văn Nguyệt và bà Nguyễn Thị Hảo GCNQSDĐ đối với thửa đất số 496, tờ bản
đồ số 1, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt. Công văn ngày 10/6/2016 của Phòng Tài
7


nguyên và Môi trường UBND TP. Hải Dương (BL 133-134) đã xác nhận với Quý tòa về
việc cấp GCNQSDĐ cho thửa số 496 nói trên cho anh Nguyệt và chị Hảo trong khuôn
khổ cấp đồng loạt cho cả 30 hộ dân trong xã Thượng Đạt bảo đảm đúng quy định của
pháp luật và không chấp nhận yêu cầu hủy GCNQSDĐ này của anh Nguyệt, bà Thoa và
ông Cang.
+ Tại buổi hòa giải ngày 19/5/2016 do Quý tòa thực hiện (BL 115-120) , bà Thoa
nêu rằng đã biết việc anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSĐ và bà Thoa và mọi
người trong gia đình không ai có ý kiến phản đối hay thắc mắc gì, không ai tranh chấp gì.
Bên cạnh đó, tại biên bản xác minh ngày 23/6/2016 (BL 163-164) ông Bích cán bộ địa
chính xã Thượng Đạt xác nhận kể từ khi được cấp GCNQSDĐ đến nay anh Nguyệt và chị

Hảo sử dụng đất ổn định không có tranh chấp với các hộ giáp danh cũng như với ông
Cang, bà Thoa và các thành viên khác trong gia đình anh Nguyệt.
+ Công văn ngày 10/6/2016 (BL 133-134) nói trên của Phòng Tài nguyên và Môi
trường cũng nêu rõ ông Cang, bà Thoa đã biết việc anh Nguyệt chị Hảo được cấp
GCNQSDĐ nhưng tất cả đều không có ý kiến về việc cấp GCNQSDĐ nêu trên và các
thành viên trong gia đình ông Cang, bà Thoa không ai có tranh chấp hay ý kiến phản đối
gì.
Như vậy, các tài liệu và chứng cứ nêu trên cho thấy rõ ràng rằng bà Thoa và ông
Cang đã giao lại toàn bộ thửa đất số 496 cho vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt sau khi hai
người kết hôn năm 1999. Hai vợ chồng đã xây dựng một nhà 18m 2 lợp ngói kiên cố, 1
gian bếp và nhà vệ sinh, 1 giếng khơi và 1 bể xây gạch xi măng trên thửa đất này. Bà
Thoa, ông Cang và các thành viên trong gia đình anh Nguyệt đều biết việc xây dựng này
và không ai có ý kiến gì.
Thứ ba, trong thời gian sống trên thửa đất số 496, chị Hảo góp công tôn tạo cho
thửa đất cùng anh Nguyệt.
Lúc ban đầu thửa đất này là đất thùng vũng sâu (đất ao) mới chỉ được san lấp được
một phần để xây nhà và công trình phụ. Hai vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt hàng năm
đã bỏ công sức và tiền ra tôn tạo mảnh đất mới được như hiện nay. Tại bản xác minh của
Quý tòa ngày 9/3/2016 (BL 75-76), ông Nguyễn Văn Bích, cán bộ địa chính xã Thượng
Đạt đã xác nhận rằng thửa đất này trước đây là thùng vũng.
Và tại biên bản lấy lời khai của Quý tòa ngày 9/3/2016 (BL 71-72), ông Đỗ Văn Tạo
là hàng xóm của hai vợ chồng đã nêu rõ tại thời điểm năm 2002 chị Nguyệt và anh Hảo
đã ở trên thửa đất được một thời gian và khi đó diện tích thùng vũng chiếm khoảng ¾
8


thửa đất, ông Tạo đã giúp phun bùn bồi lắp và đến năm 2004 có thấy hai vợ chồng tiếp
tục đắp thêm cho thửa đất thùng vũng này.
Trong quá trình ở từ năm 1999, chị Hảo và anh Nguyệt đã có nhiều công tôn tạo để
biến thửa đất thùng vũng này thành đất ở như hiện nay. Kể từ khi được cấp GCNQSDĐ

năm 2005 đến khi có việc ly hôn của chị Hảo và anh Nguyệt đã hơn 10 năm, vợ chồng chị
Hảo và anh Nguyệt đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định, gia đình bà Thoa,
ông Cang cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý
chí của gia đình bà Thoa, ông Cang là đã cho vợ chồng chị Hảo anh Nguyệt diện tích đất
nêu trên.
Trường hợp này, việc phân định thửa đất số 496 có thể được dẫn chiếu theo án lệ số
03/2016/AL. Tôi xin được tóm lược nội dung án lệ số 03/2016/AL như sau: “Trường hợp
cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng,
nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì
cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người
con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất,
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã
được tặng cho quyền sử dụng đất.”
Dựa trên những tài liệu trên:
1- Từ năm 1999, vợ chồng anh chị Nguyệt – Hảo được bố mẹ là ông bà Cang – Thao
cho diện tích đất – cụ thể là thửa đất số 496, anh chị Nguyệt – Hảo đã xây nhà và sinh
sống lâu dài trên thửa đất này.
2- Trong suốt quá trình sinh sống, cũng như thời điểm anh chị Nguyệt – Hảo được
cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 496, không có bất kỳ ai có ý kiến hay tranh chấp gì,
đồng thời UBND xã Thượng Đạt cũng không nhận được bất kỳ khiếu nại nào về việc cấp
GCNQSDĐ cho anh chị Nguyệt – Hảo. GCNQSDĐ nói trên được cấp hợp pháp và đúng
thủ tục pháp luật.
3- Trong thời gian sinh sống, anh chị Nguyệt – Hảo là người đứng ra thực hiện các
nghĩa vụ đóng thuế đối với thửa đất số 496. Đồng thời hai anh chị cũng thực hiện việc tôn
tạo cho thửa đất.
Như vậy, theo án lệ số 03/2016/AL, vợ chồng anh chị Nguyệt – Hảo được coi là
được tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất 496.
Theo khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ 2014:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
9



1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Vậy thửa đất số 496 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của anh Nguyệt và chị
Hảo.
3.2. Yêu cầu chia đôi thửa đất 496 của chị Hảo là hợp pháp và hợp lý
Theo khoản 2, 3 Điều 59 Luật HNGĐ 2014:
“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết
tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng
hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều
này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài
sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp
để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng
hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn
phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.”
Vợ chồng anh chị Nguyệt – Hảo khi kết hôn không có bất cứ thỏa thuận này về chế

độ tài sản của vợ chồng trong hôn nhân, cũng như không thể thỏa thuận được việc phân
chia tài sản thông qua hòa giải.
Vậy đối với tài sản chung là thửa đất số 496, yêu cầu chia đôi thửa đất bằng hiện vật
của chị Hảo là hoàn toàn hợp pháp và hợp lý.

10


Từ những phân tích nêu trên, toàn bộ yêu cầu của chị Hảo, cụ thể là:
1- Ly hôn anh Nguyễn Văn Nguyệt;
2- Nuôi 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi và cháu Nguyễn Đức Anh, không yêu
cầu anh Nguyệt cấp dưỡng;
3- Chia đôi tài sản chung là thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, có địa
chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương bằng hiện vật;
Là hoàn toàn hợp lý và hợp pháp.
Vì vậy, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết và chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – chị Nguyễn Thị Hảo.
Trên đây là phần trình bày quan điểm của tôi đối với vụ án, kính mong Hội đồng xét
xử xem xét, giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn.
Tôi xin cảm ơn Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng và tham gia phiên
tòa đã chú ý lắng nghe ý kiến của tôi.

11



×