Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.35 KB, 6 trang )

Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu công
1. Sự phát triển về vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
-

Gánh vác thêm nhiệm vụ mới

Sở dĩ chi tiêu công có sự tăng lên nhanh chóng là vì vai trò của chính phủ ngày
càng được mở rộng. Sự mở rộng này là do chính phủ phải gánh vác thêm những
nhiệm vụ mới. Thật là khó tin rằng khu vực tư nhân sẽ cung cấp những hàng hóa
công cho xã hội với cơ chế “người hưởng tự do không phải trả tiền”. Thêm vào đó,
sự phát triển của nền kinh tế sẽ có nhu cầu mới xuất hiện mà khu vựa tư sẽ không
tham gia và không có lời hoặc không đủ nguồn lực để thực hiện hoạt động sản
xuất. Vì vậy, chính phủ cần có sự can thiệp và tham gia sản xuất những loại hàng
hóa đó.
Có thể nói rằng Việt Nam có một nền tài chính công không lành mạnh. Chính vì
thế, vấn đề chi tiêu không đúng chế độ; sử dụng tài chính không đúng mục tiêu,
không đúng nguồn; tình trạng bội chi, lãng phí và thất thoát đã diễn ra một cách
phổ biến. Cuối năm 2008, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) công bố những con số...
giật mình. Bộ NNPTNT phản ánh thiếu tài sản, ôtô, máy móc... lên tới gần 10 tỉ
đồng. Tại 8 bộ, ngành, địa phương, qua kiểm toán phát hiện số tài sản mua sai chế
độ, sai mục đích... lên tới 95 tỉ đồng. Trong chi đầu tư năm 2007, KTNN nhận
định: Hầu hết các dự án đều sai sót, trong đó phổ biến là nghiệm thu không đúng
thực tế, sai chế độ. Số tiền... sai sót này lên tới 723,8 tỉ đồng.
Còn trong chi thường xuyên, có tới 16/29 tỉnh được kiểm toán (hơn 50%) chi hỗ
trợ, chi thường xuyên không đúng chế độ, không thuộc nhiệm vụ chi với số tiền
hơn 800 tỉ đồng... Tổng số tiền chi tiêu công mà KTNN kiến nghị xử lý lên tới hơn
13.000 tỉ đồng - tương ứng thu ngân sách của 13 tỉnh, thành phố.
Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2008 tăng 22,3% so với năm 2007 và bằng
118,9% dự toán năm. Trong đó, chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên vượt dự
toán tương ứng ở mức 118,3% và 113,3%. (trích báo lao động)
- Xã hội hóa các rủi ro


Sự gia tăng chi tiêu công còn bắt nguồn từ sự thay đổi phong tục và tư tưởng mà
các nhà kinh tế gọi đó là sự “xã hội hóa các rủi ro”. Đáng lý ra mỗi cá nhân trong
xã hội phải cố gắng đối phó vỡi mọi rủi ro bằng cách phòng ngừa, lo xa của riêng
mình, nhưng do không đủ khả năng hoặc không nhận thức được đầy đủ trách
nhiệm, nên dần dần người ta đã chuyển sang vai nhà nước. Nghĩa là chính phủ phải
đứng ra bảo hiểm, phụ cấp lương và tái phân phối các gánh nặng đó cho toàn thể
xã hội để đảm bảo mức sống tối thiểu của mỗi công dân. Ví dụ như việc chi tiêu


công được dùng để trả lương cho công chức nhà nước. Hiện nay, tuy khu vực nhà
nước có lương tương đối thấp hơn khu vực tư nhân nhưng cũng chiếm đến 40%
tổng thu nhân sách nhà nước. Hay như việc chính phủ bảo trợ cho tập đoàn
Vinashin thì đến khi tập đoàn làm ăn thất thoát, nợ 80000 tỷ đồng thì chính phủ
buộc phải ra tay cứu giúp để tránh việc phá sản. Do đó dẫn tới chi tiêu công tăng
lên.
2. Sự thay đổi quan niệm tổng quát về tài chính công
- Do những thay đổi của nền kinh tế thị trường trong từng giai đoạn.
Sự gia tăng chi tiêu công có ảnh hưởng đến sự tái phân phối nguồn lực giữa khu
vực công và khu vựa tư. Lý thuyết kinh tế học hiện đại cho rằng nền kinh tế muồn
phát triển ổn định cần có sự phối hợp giữa bàn tay chính phủ và bàn tay thị trường
trong quá trình tái phân phối thu nhập. Điều đó có nghĩa là, quy mô chi tiêu công
nên có sự giới hạn nhất định. Nhưng giới hạn ở quy mô nào thì cho đến nay các
nhà kinh tế cũng chưa đưa ra câu trả lời chính xác. Thay vào đó các nhà kinh tế
thường nêu ra sự giới hạn chi tiêu công trên các khía cạnh: trong chi tiêu công có
một khoản chi cần phải được tiết kiệm và hạn chế như chi phí hành chính thuần túy
hoặc những hoạt động của khu vực công mà sự quản lý không hiệu quả so với hoạt
động của khu vực tư tương đương thì những hoạt động này nên chuyển giao cho
khu vực tư. Bên cạnh đó họ cho rằng sự giới hạn chi tiêu công cần linh hoạt theo
chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế bị suy thoái, cần tăng chi tiêu để thúc đẩy kinh tế
phát triển; ngược lại nền kinh tế trong giai đoạn hưng thịnh thì cần phải cắt giảm

quy mô chi tiêu công.
Ví dụ như việc nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đang bước vào thời
kì khó khăn, lạm phát cao. Theo bộ này, tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011 ước đạt
khoảng 870 nghìn tỉ đồng, bằng khoảng 34,7% GDP. Trong số đó, vốn Ngân sách Nhà nước
(NSNN) và trái phiếu chính phủ ước đạt 220 nghìn tỉ đồng, vốn tín dụng đầu tư Nhà nước ước đạt
50 nghìn tỉ đồng.
Tổng số vốn cắt giảm, điều chuyển là 81.500 tỉ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái
phiếu Chính phủ (TPCP) và xổ số kiến thiết đã cắt giảm, điều chuyển khoảng 9.452 tỉ đồng. Số
vốn cắt giảm nêu trên được điều chuyển cho các dự án hoàn thành, cấp bách cần đẩy nhanh tiến
độ. Nhờ việc cắt giảm, điều chuyển, số dự án hoàn thành trong năm 2011 tăng thêm 1.053 dự án.
Tính chung cả năm 2011 có khoảng 4.400 dự án hoàn thành, đưa vào sử dụng.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định, vốn đầu tư toàn xã hội giảm nhiều so với năm trước là do thực
hiện chủ trương chủ động cắt giảm vốn đầu tư của nhà nước để kiềm chế lạm phát; mặt khác các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, hiệu quả kinh doanh thấp nên giảm đầu tư hoặc tìm cách bảo
toàn vốn chờ thời cơ.


Tuy nhiên, tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, Ủy ban Tài chính - Ngân sách nhìn nhận khác: Chi đầu
tư phát triển vẫn vượt dự toán và tăng 15,1% (23.000 tỷ đồng) là mức tăng khá cao, nếu đặt trong
bối cảnh đang thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, giảm đầu tư công thì việc tăng chi nói trên là
chưa hợp lý.
Tại hội nghị đang diễn ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng đã thực hiện nghiêm túc chủ trương
tiết kiệm chi tiêu, cắt giảm 10% chi thường xuyên (trừ các khoản lương và có tính chất lương) với
tổng số tiền cắt giảm 3.857,7 tỷ đồng.
Tuy nhiên, về điểm này Ủy ban Tài chính - Ngân sách nhìn nhận, mặc dù nghị quyết 11 của Chính
phủ tập trung vào việc cắt giảm chi tiêu công, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên, nhưng tổng
số chi ngân sách vẫn vượt dự toán 9,7%. Đây là mức tăng khá lớn.

Các nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu công cộng
A. Về phía cung hàng hóa công cộng

1. Bản thân của chính phủ: Sự mở rộng hay thu hẹp sư quản lý
của chính phủ trong nền kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới chi
tiêu trong khu vực công. Khi xã hội càng phát triển, công
nghiệp hóa không ngừng gia tăng thì hệ thống các mối quan
hệ xã hội, thương mại, pháp lý trong nền kinh tế ngày càng
trở nên phức tạp. Chính phủ sẽ có một vị thế mạnh hơn để
thiết lập và vận hành các tổ chức giải quyết các mối quan hệ
phúc tạp đó. Điều đó dân đến sự tăng nhanh chi tiêu cho khu
vực công cộng cho luật pháp và duy trì trật tự, cho giao
thông và liên lạc.
2. Chi phí để cung cấp hàng hóa công cộng: có những loại hàng
hóa mà chi phí để cung cấp ra nó quá lớn và gặp nhiều rủi ro
và thời gian thu hồi vốn là rất lớn không thể cung cấp cá
nhân được mà phải cung cấp công cộng, do đó chi tiêu cho
khu vực công cũng tăng theo.
B. Về phía cầu hàng hóa công cộng
3. Thay đổi dân số: tốc độ tăng dân số thay đổi sẽ ảnh hưởng
đến cơ cấu dân số theo độ tuổi và ảnh hưởng tới các khoản
chi tiêu cho giáo dục và y tế. Từ đó sự thay đổi dân số quyết
định đến sự thay đổi trong tỉ trọng chi tiêu công. Khi dân số


tăng nhanh buộc chính phủ phải xem xét vấn đề mở thêm
trường học và đầu tư thêm cơ sở vật chất đáp ứng cho việc
giảng dạy. Khi một quốc gia có cơ cấu dân số già thì họ phải
chú ý nhiều tới vấn đề y tế, chăm sóc sức khỏe cho người
già.
4. Thay đổi công nghệ: cùng với sự phát triển của khoa học
công nghệ đã tạo ra nhiều loại hàng hóa hiện đại, từ đó nhu
cầu về sự thay đổi trong chi tiêu công gia tăng để phù hợp

với sự phát triển này. Ví dụ như sự phát triển mạnh của công
nghiệp sản xuất ô tô đã tạo ra nhu cầu rất lớn về giao thông,
hệ thống đường xá có chất lượng tốt, rộng rãi,… dẫn đến chi
tiêu của chính phủ cho đường xá gia tăng.
5. Thu nhập bình quân theo đầu người: khi thu nhập bình quân
đầu người gia tăng, xét trong khu vực công, nhìn chung tiêu
dùng của xã hội cho những hàng hóa công cộng thiết yếu có
thể giảm xuống, còn tiêu dùng cho những hàng hóa công
cộng cao cấp như công viên, khu vui chơi gải trí, giáo dục
chất lượng cao sẽ không ngừng gia tăng. Điều này có thể
không đúng với những quốc gia phát triển vì khi thu nhập
tăng họ sẽ tìm đến những hàng hóa cá nhân chất lượng cao.
Nhưng đối vớ một nước đang phát triển như nước ta thì vấn
đề nói trên vẫn đúng. Đặc biệt khi thu nhập tăng nhanh thì
chất lượng giáo dục ngày càng được quan tâm, chi tiêu cho
giáo dục sẽ tăng nhanh.
Theo báo cáo chi tiêu công, ở Việt Nam, đầu tư bằng nguồn ngân sách nhà nước ngày càng tăng,
hiện tại chiếm khoảng 40% tổng chi ngân sách nhà nước. Do vậy quản lý đầu tư công là đặc biệt
quan trọng. Trong đó, các địa phương có vai trò ngày càng lớn trong chi tiêu công. Tự chủ chi tiêu
khiến số địa phương tự cân đối được ngân sách hiện đã tăng từ 5 lên 15 tỉnh thành.
Báo cáo chi tiêu của Chính phủ cũng cho thấy, tỷ lệ chi cho giáo dục, khoa học công nghệ và giao
thông là những ngành có tỷ lệ đầu tư tăng cao nhất trong những năm gần đây. Nguồn chi cho giáo
dục và đào tạo tăng từ 14% (năm 1997) lên 16,7% (năm 2003), khoa học công nghệ tăng từ 1,3%
lên 2,2 %, giao thông tăng từ 9,7% lên 13%. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng khuyến cáo nên áp
dụng việc học cả ngày trên diện rộng, giảm học phí cho các đối tượng được miễn giảm, nâng cao
trình độ giáo viên ở các địa phương nghèo nhất và nâng lương cho giáo viên.


Lạm phát thực sự đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ, doanh nghiệp và người
dân. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của

Việt Nam đã tăng tới 9,64%, đã cao hơn mục tiêu kiềm chế ở 7% mà Quốc hội thông qua đầu năm.

Lạm phát đang trở thành mối lo ngại của toàn xã hội.

Nhận diện về tình hình này, tại buổi giao lưu trực tuyến mới đây với chủ đề: “Lạm phát 2011:
Nhận diện và giải pháp”, chuyên gia kinh tế Huỳnh Thế Du (thuộc Chương trình Giảng dạy Kinh
tế Fulbright) cho rằng, trong thời gian qua, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất
thường so với các nước trong khu vực. Trong khi ở các nước này nhìn chung mức lạm phát luôn
thấp hơn mức tăng trưởng GDP (cụ thể là hầu hết đều dưới 5%) từ năm 2004 đến nay, thì lạm phát
ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP.
Ông Du chỉ ra rằng, nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam chính là yếu tố tiền tệ. Nói một
cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do: đầu tư công quá mức; sự thiên lệch
trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp; và cuối cùng là việc theo đuổi chính sách ổn định
tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn tăng cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công song nhà nước chỉ nên tham gia vào những lĩnh
vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền kinh tế mà tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có
hiệu quả. “Nhưng trên thực tế, nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều
khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân.” - ông Du nhận định.
Cũng liên quan đến đầu tư công, chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung - Phó viện trưởng Viện
Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương bổ sung thêm: “Lạm phát của Việt Nam bắt nguồn từ


mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng
trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung
lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước.”
Hiện tượng lựa chọn ngược khi lãi suất cao
Theo nhận định của ông Du, lãi suất cao là kết quả của lạm phát cao và việc thắt chặt tiền tệ của
Ngân Hàng Nhà nước. Lãi suất cao, đầu tư sẽ giảm do vậy sẽ giảm áp lực tăng giá trong trước mắt.
Tuy nhiên, khi đầu tư giảm sẽ dẫn đến tăng trưởng giảm đó là tác động trực tiếp của lãi suất cao.

Ở đây có một vấn đề cần quan tâm là hiện tượng lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức (tâm lý ỷ lại)
khi lãi suất bị đẩy lên cao. Theo ông Du, khi lãi suất cao, những hoạt động kinh doanh thông
thường với suất sinh lợi kém, rủi ro vừa phải không thể đi vay được vì suất sinh lợi không bù đắp
được chi phí lãi vay. Chỉ những khoản đi vay có rủi ro cao kèm với suất sinh lợi cao mới có thể
vay được. Hiện tượng này gọi là lựa chọn ngược.
Hơn thế, đối với những người đi vay, do lãi suất cao, để có thể bù đắp được chi phí lãi vay nên
người ta có xu hướng đầu tư vào các hoạt động kinh doanh rủi ro cao hơn để mong có được một
suất sinh lợi tương ứng.
Nếu vòng xoáy trên cứ tiếp tục thì cuối cùng hầu hết các khoản vay đều là những khoản vay có rủi
ro hay không trả được nợ cao. Hậu quả là nợ xấu ngân hàng cao và đến một lúc nào đó các ngân
hàng có thể mất thanh khoản kéo theo toàn hệ thống sụp đổ do hiệu ứng dây chuyền.
Do vậy, song song với việc cải thiện môi trường kinh doanh thì việc duy trì mức tăng giá hay lạm
phát thấp là vấn đề cốt lõi đối với một nền kinh tế và là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng
đầu của chính phủ.
Theo ông Nguyễn Đình Cung, trong năm nay, nếu Chính phủ kiên trì thắt chặt tài khóa và tiền tệ
thì nguyên nhân cầu kéo (do mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ) lạm phát sẽ dần được loại trừ.
Tuy vậy, nếu không khởi động trên thực tế quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng dựa chủ yếu vào nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thì
nguyên nhân sâu xa của lạm phát vẫn còn nguyên, và nguy cơ lạm phát do cầu kéo sẽ quay trở lại.

-



×