Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Điều tra thực trạng về ảnh hưởng giữa bạo hành gia đình và sinh non hoặc sinh con nhẹ cân tại Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.04 MB, 150 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ NHẬT VY

ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG VỀ ẢNH HƯỞNG GIỮA
BẠO HÀNH GIA ĐÌNH VÀ SINH NON HOẶC SINH
CON NHẸ CÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ NHẬT VY

ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG VỀ ẢNH HƯỞNG GIỮA
BẠO HÀNH GIA ĐÌNH VÀ SINH NON HOẶC SINH
CON NHẸ CÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

Ngành: Sản phụ khoa
Mã số: 62720131



LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS.BS.VÕ MINH TUẤN
2. TS.BS.NGUYỄN THỊ TỪ VÂN

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là luận án nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

TRẦN THỊ NHẬT VY


ii

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA ............................................................................................Trang
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... i
MỤC LỤC ................................................................................................................ ii
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ............................................................. iv
BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ VIỆT – ANH .................................................. v
DANH MỤC CÁC BẢNG..................................................................................... vii

DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ ....................................................... ix
ĐẶT VẤN ĐỀ ......................................................................................................... 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .................................................................................. 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................... 4
Chƣơng 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................... 39
2.1. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................................ 39
2.2. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 39
2.3. Cỡ mẫu ........................................................................................................... 40
2.4 Phương pháp chọn mẫu .................................................................................. 42
2.5. Cách tiến hành và thu thập số liệu ................................................................. 46
2.6. Công cụ thu thập số liệu ................................................................................. 50
2.7. Định nghĩa các biến số ................................................................................... 55
2.8 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu……………………. ........................ 60
2.9 Đạo đức trong nghiên cứu .............................................................................. 61
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................... 62
3.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.................................................... 64
3.2 Các tỷ lệ về bạo hành gia đình ....................................................................... 66
3.3 Tỷ lệ sinh non/sinh nhẹ cân ............................................................................ 69
3.4 Các yếu tố liên quan với sinh non hoặc nhẹ cân ............................................ 70
3.5 Phân tích hồi quy đa biến ............................................................................... 80
Chƣơng 4: BÀN LUẬN ........................................................................................ 88
4.1 Đặc điểm mẫu nghiên cứu.............................................................................. 88


iii

4.2 Các tỷ lệ và hình thức bạo hành gia đình ....................................................... 92
4.3 Tỷ lệ sinh non/sinh nhẹ cân ............................................................................ 98
4.4 Mối liên quan giữa yếu tố dịch tễ - xã hội với sinh non hoặc nhẹ cân .......... 99
4.5 Mối liên quan giữa bạo hành gia đình với sinh non hoặc nhẹ cân ............... 103

4.6 Điểm mạnh và hạn chế của đề tài ................................................................ 114
4.7 Giá trị ứng dụng của đề tài ........................................................................... 118
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 121
KIẾN NGHỊ ........................................................................................................ 122
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng thu thập thông tin sản khoa và đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội
Phụ lục 2: Bảng thu thập thông tin về bạo hành gia đình
Phụ lục 3: Bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu
Phụ lục 4: Phiếu xét nghiệm tế bào cổ tử cung
Phụ lục 5: Bảng câu hỏi gốc của Tổ chức Y tế Thế giới
Phụ lục 6: Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
Phụ lục 7: Số liệu dân số và phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại Tp.HCM năm 2013
Phụ lục 8: Bản đồ địa điểm lấy mẫu ngẫu nhiên tại Tp.HCM
Phụ lục 9: Chọn cụm nghiên cứu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống
Phụ lục 10: Một số hình ảnh trong quá trình nghiên cứu
Phụ lục 11: Tờ bướm về Bạo hành gia đình
Phụ lục 12: Danh sách các đối tượng tham gia nghiên cứu


iv

CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BB – DV

Buôn bán – Dịch vụ

BHGĐ


Bạo hành gia đình

BHTC

Bạo hành thể chất

BHTD

Bạo hành tình dục

BHTT

Bạo hành tinh thần

BLGĐ

Bạo lực gia đình

BV

Bệnh viện

CN

Công nhân

CNV

Công nhân viên


CS.

Cộng sự

CTC

Cổ tử cung

CTV

Cộng tác viên

KCM

Khoảng cách mẫu

KTC

Khoảng tin cậy

LHQ

Liên hiệp quốc

NC

Nghiên cứu

PN


Phụ nữ

NHS

Nữ hộ sinh

SKSS

Sức khỏe sinh sản

TCYTTG

Tổ chức y tế thế giới

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

VD

Ví dụ

VN

Việt Nam


v

BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ VIỆT – ANH


Adrenaline đươc tiết ra từ vùng hạ đồi –Hypothalamic pituitary adrenal
tuyến yên
(HPA)
Bảng đánh giá bạo hành tinh thần ở
phụ nữ

Psychological Maltreatment of
Women Inventory (PMWI)

Bảng đánh giá nguy cơ BHGĐ

Abuse Risk Inventory (ARI)

Bảng đánh giá những kinh nghiệm
của người phụ nữ đối với việc bị
đánh đập

Women’s
Experiences
with Battering (WEB)

Bệnh võng mạc do sinh non

Retinopathy of Prematurity
(ROP)

Công cụ sàng lọc bạo hành ở phụ nữ

Woman Abuse Screening Tool

(WAST)

Chậm phát triển tâm thần

Mental Retardation (MR)

Chỉ số thông minh

Intelligence Quotient (IQ)

Gây đau – Xúc phạm – Đe dọa – La
mắng

Hurt – Insult – Threaten –
Scream (HITS)

Giai đoạn “Căng thẳng”

Tension Building Phase

Giai đoạn “Hành động”

Acting – out Phase

Giai đoạn “Trăng mật”

Honeymoon Phase

Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát
triển


International Conference on
Population and Development

Khảo sát Nhân quyền và Sức
khoẻ

Demographic and
Surveys (DHS)

Màu da, Nhịp tim, Phản xạ kích

Activity, Pulse, Grimace,

Health


vi

thích, Cử động, Hô hấp.

Apparance and Respiratin Score
(APGAR Score)

Nội tiết tố phóng thích corticotropin

Corticotropin – releasing
hormone (CRH)

Phương pháp chọn mẫu cụm xác

xuất tỷ lệ theo cỡ dân số

Probability Proportional to Size
(PPPS)

Sàng lọc BHGĐ

Abuse Assessment Screen (AAS)

Sàng lọc BHGĐ của bạn tình

Partner Violence Screen (PVS)

Sàng lọc BHGĐ đang tiếp diễn

Ongoing Abuse Screen (OAS)

Tổ chức Quốc tế khảo sát về Bạo
lực đối với phụ nữ

International Violence Against
Women Surveys (IVAWS)

Tổ chức Y tế Thế giới

World Health Organization
(WHO)

Tỷ số chênh về tỷ lệ


Prevalence Odds Ratio
(POR)

Thang điểm phương thức xung đột

Conflict Tactics Scale (CTS)

Thang đo chỉ số bạo hành của bạn
tình

Index of Spouse Abuse (ISA)

Thang đo chỉ số bạo hành của bạn
tình – thang đo bạo hành thể chất

Index of Spouse Abuse –
Physical Scale (ISA –PS)

Xuất huyết trong não thất

Intraventricular Hemorrhage
(IVH)


vii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1


Hệ số cronbach’s alpha của thang đo CTS theo quốc gia và giới tính.

21

Bảng 1.2

Yếu tố nguy cơ thúc đẩy bạo hành gia đình

31

Bảng 2.1

Tỷ lệ P2 theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hoàng Thanh và cs.

41

Bảng 2.2

Bảng tính cỡ mẫu

41

Bảng 2.3

Danh sách các cụm (phường, xã) được chọn và số lượng đối tượng đã tham
gia nghiên cứu

44

Bảng 2.4


Độ tin cậy của bộ câu hỏi về bạo hành gia đình

53

Bảng 3.1

Danh sách các cụm (phường, xã) được chọn và số lượng đối tượng đã tham
gia nghiên cứu

63

Bảng 3.2

Phân bố đặc điểm dịch tễ – xã hội

64

Bảng 3.3

Phân bố đặc điểm về xã hội của bạn tình/chồng của đối tượng nghiên cứu

65

Bảng 3.4

Tỷ lệ BHGĐ trong mẫu nghiên cứu

66


Bảng 3.5

Mức độ nặng của BHTC trong mẫu nghiên cứu

67

Bảng 3.6

Phân bố các hình thức bạo hành ở mẫu nghiên cứu

67

Bảng 3.7

Tần số bị BHGĐ trong mẫu nghiên cứu

68

Bảng 3.8

Phân bố tỷ lệ sinh non và sinh nhẹ cân trong mẫu nghiên cứu

69

Bảng 3.9

Mối liên quan giữa BHGĐ và yếu tố vợ/chồng với sinh non/nhẹ cân

70


Bảng 3.10

Mối liên quan giữa số nhóm BHGĐ với sinh non/nhẹ cân

73

Bảng 3.11

Mối liên quan giữa mức độ nặng của BHTC với sinh non/nhẹ cân

73

Bảng 3.12

Mối liên quan giữa BHGĐ và yếu tố vợ/chồng với sinh con nhẹ cân

74

Bảng 3.13

Mối liên quan giữa số nhóm BHGĐ với sinh con nhẹ cân

77

Bảng 3.14

Mối liên quan giữa BHGĐ và yếu tố vợ/chồng với sinh non

77


Bảng 3.15

Mối liên quan giữa số nhóm BHGĐ với sinh non

80

Bảng 3.16

Tóm tắt phân tích đơn biến và đa biến với kết cục sinh non/nhẹ cân

81

Bảng 3.17

Tóm tắt phân tích đơn biến và đa biến giữa các hình thức BHGĐ với kết
cục sinh non/nhẹ cân

82

Bảng 3.18

Phân tích đa biến với kết cục sinh con nhẹ cân

83

Bảng 3.19

Phân tích đa biến giữa các hình thức BHGĐ với kết cục sinh con nhẹ cân

84


Bảng 3.20

Phân tích đa biến với kết cục sinh non

85


viii

Bảng 3.21 Phân tích đa biến giữa các hình thức BHGĐ với kết cục sinh non

86

Bảng 4.1

So sánh tỷ lệ BHGĐ của một số NC trong nước và trên thế giới

94

Bảng 4.2

Mối liên quan giữa BHTD và sinh non ở một số nghiên cứu

108


ix

DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Hình 1.1

Vòng xoay bạo hành trong gia đình

Hình 1.2

Hình minh họa về phòng chống bạo hành trong gia đình

15

Hình 1.3

Tỷ lệ sinh non ở các nước trên thế giới trong năm 2010

25

Sơ đồ 2.1

Phương pháp chọn mẫu

45

Sơ đồ 2.2

Tóm tắt các bước thu thập số liệu

54

9



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạo hành gia đình (BHGĐ) nói chung và BHGĐ đối với phụ nữ nói riêng là
vấn đề đã tồn tại từ lâu trong lịch sử. Năm 1997, Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG)
đã đưa ra định nghĩa BHGĐ là:“Những hành động cưỡng bức về thể chất, tinh thần
và tình dục của bạn tình nam hiện tại hoặc trước đây đối với phụ nữ trong độ tuổi vị
thành niên và trưởng thành”[184]. Đa số nạn nhân của các vụ bạo hành là phụ nữ.
BHGĐ hiện đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng đang được quan tâm. Trên thế giới,
cứ 3 người phụ nữ thì có 1 trường hợp bị đánh, bị xâm phạm tình dục hoặc bị bạo
hành về tinh thần trong cuộc đời. Phần lớn thủ phạm là thành viên trong gia đình
của người phụ nữ đó[88]. Mang thai là thời điểm dễ bị tổn thương nhất đối với
những nạn nhân bị BHGĐ do thay đổi nhu cầu về thể chất, xã hội, tình cảm và kinh
tế; nhiều nghiên cứu (NC) cho thấy tỷ lệ phụ nữ bị bạo hành bởi chồng/bạn tình
trong thời kỳ mang thai dao động từ 4 – 29%[38]. Nghiên cứu quốc gia về bạo lực
đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2010 cho thấy 58% phụ nữ đã từng bị bạo hành ít
nhất một lần trong đời (bao gồm cả bạo lực thể chất, tinh thần và tình dục); 32%
phụ nữ đã từng kết hôn cho biết đã trải nghiệm BHTC trong suốt đời và 6% đã từng
bị BHTC trong 12 tháng qua. Tỷ lệ BHTC trong thai kỳ ở Việt Nam đã được báo
cáo là 5%[91].
BHGĐ không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản và tâm thần của người
phụ nữ mà còn gây tác động xấu đến sức khoẻ và sự phát triển sau này của trẻ[27].
Kết quả từ một phân tích gộp của Donovan và cs. cũng chỉ ra rằng BHGĐ làm tăng
nguy cơ sinh non gấp 1,91 lần (KTC 95% : 1,60 – 2,29) và nguy cơ sinh con nhẹ
cân cao gấp 2,11 lần (KTC 95% : 1,68 – 2,65)[60]. BHGĐ ảnh hưởng đến nguy cơ
sinh non bởi nhiều cách khác nhau. BHTC tác động trực tiếp vào vùng bụng hoặc
BHTD gây ra biến chứng như nhau bong non, kích thích cơn gò tử cung, ối vỡ non
hoặc nhiễm trùng đường sinh dục[84]. BHGĐ còn có thể đưa đến những hành vi
nguy cơ cho thai phụ làm ảnh hưởng xấu đến thai, ví dụ: hút thuốc, sử dụng ma túy,

chăm sóc trước sinh không đầy đủ[48],[84],[152]. Tại Việt Nam, 63.000 trẻ em
dưới 5 tuổi chết mỗi năm và 50% số ca tử vong này xảy ra ở trẻ sơ sinh. Một trong


2

những nguyên nhân chính của tử vong trẻ sơ sinh là do biến chứng của sinh non và
nhẹ cân, chiếm gần 50% tổng số ca tử vong sơ sinh[123]. Trẻ sơ sinh non tháng hay
nhẹ cân có nhiều nguy cơ bệnh tật như suy hô hấp, bệnh màng trong, viêm phổi, di
chứng thần kinh, chỉ số IQ thấp, chậm phát triển về cân nặng và chiều cao. Đây là
gánh nặng cho gia đình, xã hội về tinh thần và tài chính để điều trị bệnh cũng như
các di chứng của trẻ. Do đó sinh non hay nhẹ cân được ngành y tế đặc biệt quan tâm
vì nó là một trong những nguyên nhân gây tử vong chu sinh ở các nước phát triển
cũng như các nước đang phát triển. Tỷ lệ sinh non hay nhẹ cân tại Mỹ từ 5% đến
12%, tại Đông Nam Á khoảng 13,5% và Việt Nam tỷ lệ này 9,4%[28].
Mặc dù trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu trên nhiều đối tượng, nhiều
cộng đồng khác nhau về BHGĐ nhưng ở Việt Nam, các báo cáo về vấn nạn này chỉ
mới dừng lại ở những số thống kê chung hoặc vài nghiên cứu nhỏ lẻ. Trong “Hướng
dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản” do Bộ Y tế ban hành vào
29/07/2016 đã dành 6 trang nói về BHGĐ đối với phụ nữ và đề cập đến vai trò của
nhân viên y tế trong việc tuyên truyền, phát hiện, tư vấn, điều trị các nạn nhân
BHGĐ cũng như cung cấp thông tin cho các cơ quan truyền thông đại chúng[2].
Điều này cho thấy vấn nạn BHGĐ cũng đang được sự quan tâm của ngành y tế nhất
là trong lĩnh vực Sản phụ khoa. Hiện nay đây là vấn đề phổ biến mang tính thời sự
không chỉ riêng của ngành y tế mà của toàn xã hội. Do đó, những nghiên cứu về vấn
đề này của ngành Sản phụ khoa là những nghiên cứu hết sức cần thiết và đầy tính
nhân văn. TPHCM là trung tâm tài chính kinh tế của cả nước, nơi có đời sống kinh
tế và dân trí cao, tuy nhiên vấn nạn BHGĐ cũng còn khá phổ biến và chưa được
nghiên cứu đánh giá sâu rộng. Đa số trước đây, các NC thường đề cập đến tỷ lệ và
các yếu tố liên quan đến sinh non hay nhẹ cân, nhưng chưa có nhiều khảo sát về

mối liên quan giữa BHGĐ với nguy cơ sinh non hay nhẹ cân. Hy vọng với NC này,
sẽ có cái nhìn rõ hơn về tình hình BHGĐ đối với phụ nữ ở TPHCM nói chung và
phụ nữ sinh con non tháng hay nhẹ cân nói riêng.
Vì vậy, nghiên cứu được tiến hành nhằm trả lời cho câu hỏi: “Tỷ lệ BHGĐ ở
TP.HCM là bao nhiêu và có liên quan với sinh non/sinh nhẹ cân hay không?”


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ bạo hành gia đình và các loại bạo hành gia đình ở phụ nữ
sống tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 01/01/2015 đến 04/07/2016.
2. Xác định mối liên quan giữa bạo hành gia đình với sinh non hoặc nhẹ cân
hiện bé còn sống ở phụ nữ cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh.


4

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1

ĐỊNH NGHĨA VỀ BẠO HÀNH GIA ĐÌNH
Thông thường khi nói tới BHGĐ, ta liên tưởng ngay đến hình ảnh một người

chồng hung dữ, mặt mũi đỏ gay, đang nắm tóc một người đàn bà, đánh, đấm, đá
hoặc la hét người vợ của mình.
Đó chính là vì ngay từ thời phong kiến, trong xã hội Việt Nam, phụ nữ được
coi là những người chân yếu, tay mềm, có nhiệm vụ phải chăm sóc nhà cửa, nuôi

con và chu toàn bổn phận của một người con, người vợ và người mẹ. Khi còn sống
chung với cha mẹ, họ phải phục tùng và vâng lời cha mẹ, phải có nhiệm vụ chăm
sóc gia đình mình. Khi đã trưởng thành và lập gia đình, trở thành những nàng dâu
trong gia đình, họ không những phải phục tùng và hầu hạ gia đình chồng mà còn
phải phục tùng chồng, không được cãi lời chồng và không được ngang hàng với
chồng. Trái lại, người chồng có trách nhiệm phải “giáo dục” người vợ của mình bao
gồm cả đánh vợ.
Tất cả những điều trên cho thấy rằng phong tục tập quán Việt Nam đã coi
thường người phụ nữ, coi họ như là những tôi tớ trong nhà, nếu thích thì đánh đập
họ, xử phạt họ. Đàn ông là người có quyền quyết định tất cả trong gia đình, người
phụ nữ chỉ chấp hành những “mệnh lệnh” từ người chồng đưa ra, phải nghe lời và
phục tùng chồng. Người phụ nữ phải “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử”. Chính vì vậy mà người phụ nữ không được nói lên tiếng nói riêng của
mình, không được bình đẳng với người đàn ông và đây là những lý do dẫn đến bạo
hành trong gia đình.
Dưới con mắt của xã hội BHGĐ là như vậy còn về góc độ luật pháp và y học
thì BHGĐ lại có những khái niệm rõ ràng, cụ thể hơn.
Trong cuốn sách “Hãy biết đến những Quyền của Bạn: Bạo Hành Gia Đình
(Know Your Rights: Domestic Violence)”, được ấn hành bởi Hiệp hội Luật sư Mỹ,
nói rằng “BHGĐ là một chuỗi lặp đi lặp lại của nhiều hành vi điều khiển nhằm đạt


5

được và duy trì quyền lực và sự kiểm soát đối với một bạn tình, như bạo hành về thể
chất, ngược đãi về tinh thần, cô lập nạn nhân, hăm dọa, áp bức và nạt nộ”.
Hiệp hội Y khoa Mỹ đã xuất bản một cuốn sách hướng dẫn chẩn đoán và
điều trị cho các bác sĩ, trong đó có đưa ra định nghĩa lạm dụng bạn tình (intimate
partner abuse) là sự lạm dụng về thể chất, tinh thần, và/hoặc tình dục đối với một cá
nhân bởi người bạn tình trước đây hoặc hiện tại của họ. Mặc dù định nghĩa này

mang tính chất bình đẳng giới nhưng phụ nữ thường là đối tượng bị tổn thương về
mặt thể chất và thường gánh chịu những hậu quả về mặt tinh thần do bạn tình gây
ra[148].
Snugg và cộng sự đã định nghĩa BHGĐ là :“Sự bạo hành trong quá khứ hoặc
hiện tại về thể chất và/hay tình dục giữa những người bạn tình trước đây hoặc hiện
tại, giữa những người thân trong gia đình, hoặc trẻ vị thành niên và cha mẹ. Mối
quan hệ giữa nạn nhân và thủ phạm có thể là tình dục khác giới hoặc tình dục đồng
giới”[172].
Định nghĩa theo vấn đề: BHGĐ là bạo hành giữa những người bạn tình trong
độ tuổi trưởng thành. Mặc dù định nghĩa trên nghe có vẻ đơn giản nhưng nó lại
được chấp nhận về phương diện luật pháp và việc áp dụng định nghĩa này thay đổi
tùy theo từng quốc gia .
Tuy nhiên, định nghĩa cụ thể hơn cả là định nghĩa do TCYTTG đưa ra vào
năm 1997, trong đó BHGĐ là:“Những hành động cưỡng bức về thể chất, tinh thần
và tình dục của bạn tình nam hiện tại hoặc trước đây đối với phụ nữ trong độ tuổi vị
thành niên và trưởng thành”[184].
Ở nước ta, theo định nghĩa của “Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản” do Bộ Y tế ban hành năm 2016, bạo hành đối với phụ nữ là
bất cứ hành động bạo lực nào trên cơ sở giới gây ra, hoặc có thể gây ra tổn hại cho
phụ nữ về mặt thể chất, tình dục hoặc về tâm lý hay kinh tế, bao gồm cả việc đe dọa
thực hiện những hành động đó, ép buộc hay cố tình tước đoạt một cách tùy tiện sự
tự do, dù xảy ra ở nơi công cộng hay đời sống riêng tư [2].


6

1.2

CÁC HÌNH THỨC BẠO HÀNH GIA ĐÌNH[151]


1.2.1 Một số định nghĩa:
 Nạn nhân: đối tượng bị bạo hành hoặc lạm dụng.
 Thủ phạm: người gây ra những hành vi bạo hành hoặc lạm dụng đối với
nạn nhân.
 Bạn tình: bao gồm
– Chồng hiện tại (có kết hôn nhưng có hoặc không có hôn thú).
– Những người đang hẹn hò với nhau, kể cả hẹn hò lần đầu (khác giới
hoặc cùng giới).
– Bạn trai hoặc bạn gái (khác giới hoặc cùng giới).
– Chồng đã ly thân hoặc ly dị.
– Những người hẹn hò cũ (khác giới hoặc cùng giới).
– Bạn tình cũ (khác giới hoặc cùng giới).
Bạn tình có thể sống chung với nhau hoặc không. Mối quan hệ của họ không
nhất thiết phải liên quan về tình dục. Nếu nạn nhân và thủ phạm có con với nhau
nhưng hiện tại không còn sống chung thì mối quan hệ đó được gọi là vợ chồng cũ
hoặc vợ chồng không hôn thú.
1.2.2 Các hình thức của BHGĐ
Bạo hành được chia thành 4 nhóm:
 Bạo hành thể chất.
 Bạo hành tình dục.
 Dọa bạo hành thể chất hoặc tình dục.
 Bạo hành tinh thần.
1.2.2.1 Bạo hành thể chất
Những hành động được thực hiện một cách có chủ đích nhằm gây ra tử vong,
tàn tật, thương tích hoặc gây hại cho nạn nhân.
Bạo hành thể chất bao gồm (nhưng không chỉ giới hạn) những hành động
sau: cào cấu, xô đẩy, ném vật gì vào nạn nhân, chộp lấy nạn nhân, cắn, bóp cổ, nắm
chặt nạn nhân mà lắc, đánh bằng cùi chỏ, nắm tóc, tát vào mặt, đấm vào mặt hoặc



7

vào người, dùng lửa thiêu, nhốt vào 1 nơi nào đó, dùng vũ khí (súng, dao, bất cứ vật
gì) hoặc sức nặng, sức mạnh của cơ thể để tấn công nạn nhân.
Bạo hành thể chất còn bao gồm việc xúi giục hoặc bắt ép ai thực hiện những
hành vi trên với nạn nhân.
1.2.2.2 Bạo hành tình dục
Hành vi tình dục được định nghĩa là sự tiếp xúc giữa dương vật và âm hộ
hoặc giữa dương vật và hậu môn; tiếp xúc giữa miệng và dương vật, âm hộ hay hậu
môn; dùng bàn tay, ngón tay hoặc bất cứ vật gì đưa vào hậu môn hoặc cơ quan sinh
dục của 1 người khác.
Bạo hành tình dục: được chia thành 3 nhóm
– Dùng vũ lực ép buộc người khác thực hiện hành vi tình dục bất chấp
sự phản kháng của người đó, cho dù hành vi tình dục đó có hoàn
thành hay không.
– Cố gắng thực hiện hoặc đã hoàn thành hành vi tình dục với người
không có ý thức hoặc không có khả năng chống trả hành vi đó (vd:
người bị bệnh, tàn tật, say rượu hoặc thuốc kích thích, bị đe dọa hoặc
chịu áp lực nào đó).
– Cố tình đụng chạm trực tiếp hoặc đụng chạm qua quần áo các bộ phận
như: cơ quan sinh dục ngoài, hậu môn, háng, ngực, mặt trong đùi hoặc
mông bất chấp sự cho phép của người đó hoặc của người không có ý
thức hoặc không có khả năng chống trả hành vi đó (vd: người bị bệnh,
tàn tật, say rượu hoặc thuốc kích thích, bị đe dọa hoặc chịu áp lực nào
đó).
1.2.2.3 Dọa bạo hành thể chất hoặc tình dục
Sử dụng từ ngữ, cử chỉ hoặc vũ khí nhằm mục đích gây ra tử vong, tàn tật,
chấn thương, tổn hại về thể xác cho người khác hoặc ép buộc người khác đồng ý
thực hiện hành vi tình dục, va chạm tình dục bất chấp người đó không muốn hoặc
không có khả năng chống trả.



8

Ví dụ : “Tôi sẽ giết cô” ; “Tôi sẽ đánh cô nếu cô không quan hệ tình dục với
tôi”; cầm vũ khí dọa; làm các cử chỉ dọa nạt bằng tay hoặc cử chỉ như sắp chạm vào
ngực hoặc bộ phận sinh dục của người khác.
1.2.2.4 Bạo hành tinh thần
– Sỉ nhục nạn nhân.
– Thường xuyên chỉ trích, phê bình hoặc la mắng nạn nhân.
– Làm nhục hoặc làm nạn nhân xấu hổ ở nơi riêng tư hoặc nơi công cộng.
– Kiểm soát hành động của nạn nhân.
– Chiếm giữ tài sản của nạn nhân.
– Tỏ thái độ cáu gắt khi nạn nhân không đồng tình việc gì đó.
– Hạ thấp giá trị của nạn nhân khiến nạn nhân cảm thấy mình thấp kém (vd:
không thông minh, không hấp dẫn…)
– Sử dụng tiền của nạn nhân.
– Tước đoạt cơ hội của nạn nhân.
– Không quan tâm đến nhu cầu của nạn nhân.
– Cô lập nạn nhân, không cho tiếp xúc với gia đình và bạn bè.
– Lăng mạ bạn bè hoặc những người trong gia đình nạn nhân.
– Ngăn cấm nạn nhân dùng các phương tiện giao thông và truyền thông.
– Ép buộc nạn nhân tham gia vào các hoạt động phạm pháp.
– Dùng con cái làm công cụ kiểm soát hành vi của nạn nhân.
“Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản” của Bộ Y
tế phân chia bạo hành thành 4 nhóm: bạo hành tâm lý (hay còn gọi là bạo hành tinh
thần), bạo hành thể chất, bạo hành về sinh sản và tình dục, bạo hành về kinh tế [2].
Trong đó:
 Bạo hành tâm lý: lấn át ý kiến, mắng chửi, xúc phạm nhân phẩm, bôi nhọ
danh dự, uy tín, lăng nhục, cô lập, đe doạ bỏ rơi, hành hạ con cái (nhất là con riêng

của vợ) nhằm làm cho người phụ nữ đau khổ.


9

 Bạo hành thể chất: tát, túm tóc, đấm, đá, bóp cổ, giam hãm hay nhốt, tạt
acid, dùng hung khí… gây thương tổn cho người phụ nữ, thậm chí gây chết người.
 Bạo hành về sinh sản và tình dục: bị ngược đãi trong khi mang thai, cưỡng
bức tình dục; không cho sử dụng biện pháp tránh thai, ép buộc vợ phải sinh bằng
được con trai, xúi giục vợ đi vào con đường làm gái mại dâm hay mỹ nhân kế vì
mục đích tư lợi.
 Bạo hành về kinh tế: không cho vợ kiếm việc làm, buộc vợ phải lệ thuộc về
kinh tế, chiếm đoạt tiền và tài sản riêng của vợ.
Nếu căn cứ vào phân loại như đã trình bày của Trung tâm quốc gia kiểm soát
và phòng chống thương tổn, Trung tâm kiểm soát và phòng chống bệnh tật
Atlanta[151] thì bạo hành về kinh tế là một phần trong nhóm bạo hành tinh thần.
1.3

VÒNG XOAY BẠO HÀNH TRONG GIA ĐÌNH

Hình 1.1: Vòng xoay bạo hành trong gia đình
“Nguồn: Widom C. S, (2000).” [180]


10

Vòng tròn Bạo lực
Thông thường, trước khi xảy ra lần tấn công đầu tiên về thể chất, người gây
bạo lực sử dụng các phương thức kiểm soát như cô lập nạn nhân khỏi các mối quan
hệ xã hội hoặc gia đình, đe dọa, bắt phụ thuộc về tài chính và bằng những cách này

người gây bạo lực đã hạ thấp nạn nhân đến độ cô ấy tin vào những lời chỉ trích
mình và thiếu sự tự tin cần thiết để bỏ đi hoặc có phản ứng thích đáng đối với bạo
lực.
 Giai đoạn tích lũy căng thẳng bắt đầu bằng sự giận dữ, trách mắng và
căng thẳng gia tăng. Người gây bạo lực trở nên cáu kỉnh, dễ bị kích động, ích kỷ,
khó tính và dễ phản ứng tiêu cực với bất kỳ vấn đề nhỏ nhặt nào. Nhiều phụ nữ
nhận ra giai đoạn tích lũy căng thẳng này và đã cố gắng kiểm soát bằng cách trở nên
chu đáo, tìm cách “gìn giữ hòa bình”. Bạo lực về lời nói và thể chất có thể nổ ra.
Căng thẳng cũng tăng nhanh trước khi xảy ra bạo lực. Người phụ nữ có thể sử dụng
nhiều biện pháp như rút lui, cố gắng chịu đựng người gây bạo lực, lánh khỏi gia
đình hoặc không tranh luận để tránh sự căng thẳng ngạt thở.
Thông thường giai đoạn này không được trình báo với công an hoặc nếu có
trình báo thì cũng bị giễu cợt. Điều này đã khuyến khích người gây bạo lực chuyển
sang giai đoạn tiếp theo. Vì vậy công an cần xem xét một cách nghiêm túc tất cả các
vụ việc liên quan đến bạo lực khi được trình báo, cho dù vụ việc có vẻ rất nhỏ nhặt.
Ngoài ra, người phụ nữ thường coi sự giận dữ ngày càng gia tăng của chồng là
nhằm vào mình và xác định trách nhiệm của mình là phải giữ cho tình hình không
bị bùng nổ. Nếu cô ta làm tốt thì anh ta sẽ bình tĩnh, còn nếu cô ta thất bại thì đó là
lỗi của cô ta.
 Giai đoạn bạo lực là sự bùng nổ bạo lực của thủ phạm. Đối với những
phụ nữ đã từng bị bạo lực trước đó thì chỉ bị đe dọa bạo lực thôi cũng đã khiếp sợ.
Bạo lực có thể bao gồm những lời dọa dẫm, tát, đấm, đe dọa bằng vũ khí, đe dọa
con cái, bạo lực tình dục hoặc cưỡng bức quan hệ. Bạo lực có thể kết thúc nhanh
chóng hoặc kéo dài nhiều phút, nhiều giờ. Có thể có những chấn thương nhìn thấy
được nhưng những người gây bạo lực có kinh nghiệm thường không để lại dấu vết


11

thương tích. Hầu hết phụ nữ đều thấy cực kỳ nhẹ nhõm khi bạo lực kết thúc. Họ có

thể thấy may mắn vì mọi việc đã không tệ hơn, dù họ bị thương tích nặng đến đâu.
Họ cũng thường phủ nhận sự nghiêm trọng của thương tích và từ chối đi khám y tế
ngay lúc đó.
 Giai đoạn ngọt ngào là giai đoạn ăn năn và yêu thương trong vòng tuần
hoàn bạo lực. Tiếp theo sự bùng nổ bạo lực, thủ phạm tỏ ra yêu thương và bình tĩnh.
Người gây bạo lực xin lỗi và hứa sẽ thay đổi. Người gây bạo lực thuyết phục nạn
nhân và bản thân mình rằng những hứa hẹn này là chân thật. Đằng sau đó là niềm
tin rằng họ đã được bào chữa cho hành động của mình. Nạn nhân muốn tin rằng đây
là lần cuối cùng. Phụ nữ đôi khi rút lại yêu cầu truy cứu với một hy vọng sai lầm
rằng người gây bạo lực sẽ không làm như vậy nữa. Cảnh sát nên nhận ra bản chất
tạm thời của “giai đoạn ngọt ngào” và tư vấn để nạn nhân có đầy đủ thông tin trước
khi quyết định. Hầu hết các trường hợp, sự căng thẳng lại gia tăng trở lại.
Bạo lực ở nhiều gia đình có chu kỳ theo một kiểu nào đó, tuy nhiên cần ghi
nhớ rằng không phải quan hệ bạo lực nào cũng trải qua tất cả các giai đoạn của
vòng tròn bạo lực như miêu tả ở trên.
1.4

ẢNH HƢỞNG CỦA BẠO HÀNH TRONG GIA ĐÌNH[69]
 Thể chất:


Chấn thương (đặc biệt vùng đầu, cổ hoặc nhiều vùng phối hợp).



Bầm tím.



Đau vùng chậu mãn tính.




Đau bụng mãn tính.



Nhức đầu mãn tính.



Đau lưng mãn tính.



Hôn mê.

 Tinh thần:
– Mất ngủ.
– Trầm cảm.


12

– Có ý muốn tự tử.
– Triệu chứng lo lắng và rối loạn cảm giác đau.
– Rối loạn tiêu hóa.
– Nghiện thuốc và rượu.
 Tình dục, mang thai và sinh đẻ


1.5



Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục.



Sẩy thai.



Mang thai ngoài ý muốn.



Xuất huyết trong khi mang thai.



Chăm sóc tiền thai không tốt.



Sinh con nhẹ cân.

TÌNH HÌNH BẠO HÀNH GIA ĐÌNH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT

NAM
Trên thế giới, cứ 3 người phụ nữ thì có 1 trường hợp bị đánh, bị xâm phạm

tình dục hoặc bị bạo hành về tinh thần trong cuộc đời. Phần lớn thủ phạm là thành
viên trong gia đình của bà ta[88].
Ở Mỹ, người ta ước tính hằng năm có đến 4 – 6 triệu trường hợp bạo hành về
thể chất xảy ra trong các mối quan hệ vợ – chồng/bạn tình [148].
Trong số những phụ nữ bị bạo hành tình dục, bạo hành thể chất hoặc bị bạo
hành tinh thần bởi chồng/bạn tình: 72,2% trường hợp luôn sống trong sợ hãi, 62,3%
lo lắng cho sự an toàn của họ, 62,6% trải qua ít nhất một triệu chứng viêm nhiễm
đường sinh dục, 41,6% bị thương do bạo lực và 28,0% đã phải nghỉ làm hoặc nghỉ
học ít nhất một ngày do những hình thức bạo hành này gây ra[30].
12 triệu phụ nữ (chiếm 25% dân số nữ) từng trải qua bạo hành trong cuộc
đời. Trên 35% phụ nữ từng phải nằm viện vì BHGĐ[119].
Theo nghiên cứu của TCYTTG[70], các yếu tố nguy cơ của BHGĐ bao gồm:
– Giới tính: Phụ nữ chiếm ¾ trong số các nạn nhân. So với nam giới, phụ nữ
bị bạo hành cao gấp 5 lần.


13

– Chủng tộc: Phụ nữ da đen bị ngược đãi nhiều hơn, cao gấp 22 lần so với
các chủng tộc khác.
– Tuổi: BHGĐ thường phổ biến ở những phụ nữ trẻ tuổi, đặc biệt trong độ
tuổi từ 15 – 19. Những phụ nữ lớn tuổi ít gặp tình trạng BHGĐ có thể do họ
biết cách kiểm soát tần số xảy ra BHGĐ hoặc họ ít khai báo khi bị BHGĐ.
– Kinh tế: Nạn nhân của BHGĐ chủ yếu là những phụ nữ có thu nhập thấp.
– Tình trạng hôn nhân: BHGĐ thường gặp ở người đã ly dị hoặc ly thân,
cũng như sống chung mà không có hôn thú.
Khảo sát tại Úc, phụ nữ bị bạo hành về thể chất cao gấp 3 lần so với nam
giới bởi bạn tình của họ[95].
Tỷ lệ BHGĐ thay đổi rất khác nhau tùy thuộc vào định nghĩa và nguồn gốc
số liệu được khảo sát: từ số liệu của Ban phòng chống tội phạm[177]; từ nghiên cứu

trong bệnh viện[86],[95],[120],[155],[177] hay từ các khảo sát trong cộng
đồng[122]. Theo báo cáo lấy từ cuộc nghiên cứu tại một phòng cấp cứu của bệnh
viện lớn ở Úc thì tỷ lệ nữ bị BHGĐ là 19,3% – 25%[155]. Theo nguồn thông tin
khác lấy từ cuộc khảo sát tiến hành khi phụ nữ đến khám sức khỏe tại các bệnh viện
thì tỷ lệ này thay đổi trong khoảng 8,0%[75] – 28%[120]. Nếu dựa trên khảo sát
được thực hiện trong cộng đồng về lạm dụng tình dục và ngược đãi về thể chất thì
tỷ lệ này vào khoảng 2,6% trong 12 tháng qua và tỷ lệ này là 8,0% trong bất cứ giai
đoạn nào trong cuộc đời của họ[122].
Ngày nay, nạn BHGĐ trong xã hội Việt Nam ngày càng gia tăng.
Ông John Hendra điều phối viên thường trú Liên hợp quốc (LHQ) tại Việt
Nam nhận định những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều tiến bộ trong việc thúc
đẩy vấn đề bình đẳng giới nhưng còn rất nhiều phụ nữ Việt Nam vẫn gặp phải
BHGĐ, quan niệm lạc hậu về trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại và cho rằng: "Bạo
hành đối với phụ nữ không đơn giản là vấn đề của phụ nữ. Nó là vấn đề mà tất cả
chúng ta đều quan tâm, bao gồm nam giới, phụ nữ, trẻ trai hay trẻ gái. Tổ chức
LHQ tại Việt Nam cam kết làm việc cùng với Chính phủ để giải quyết vấn đề này”.


14

Theo thống kê, hầu hết bạo hành trong gia đình ở Việt Nam chủ yếu là bạo
hành về thể chất hay tâm lý. Nó chiếm tới 65 – 70% trong tất cả các trường hợp của
bạo hành trong gia đình. Trong năm 1998, Hội Đồng Dân Cư đã báo cáo rằng bạo
hành trong gia đình ở Việt Nam xảy ra trong nhiều gia đình có trình độ học vấn và
hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau và bao gồm rất nhiều yếu tố khác nhau như:
nghèo đói, rượu chè, cờ bạc, tâm thần, căng thẳng thần kinh, hoặc thất vọng, và
những mong muốn có con trai là những yếu tố gây nên bạo hành trong gia đình.
 66% các vụ ly hôn ở Việt Nam liên quan đến bạo hành gia đình[6].
 Trong 5 năm từ 2000 – 2005, có 186.954 vụ ly hôn do BHGĐ, hành vi đánh
đập, ngược đãi chiếm 53,1% trong các nguyên nhân dẫn tới ly hôn[7].

 Năm 2005, có tới hơn 39.000 vụ ly hôn có nguyên nhân từ bạo hành trong
tổng số gần 65.000 vụ án về hôn nhân và gia đình, chiếm tỷ lệ 60,3%[7], cũng theo
nghiên cứu đó thì:


25% gia đình có hành vi bạo hành tinh thần.



30% cặp vợ chồng xảy ra hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục.



Ở đồng bằng sông Cửu Long có 1.319 ca nhập viện do BHGĐ,
trong đó khoảng 1.000 ca tự tử và 30 trường hợp tử vong. Tuy
nhiên, bài báo này không đăng số liệu cho các vùng khác.

 5% phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập[6].
 82% hộ dân nông thôn và 80% hộ ở thành phố có xảy ra bạo hành[6].
Theo điều tra Gia đình ở Việt Nam 2006 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới và Quỹ Nhi đồng LHQ thực hiện
đã cho thấy khoảng 21,2% các cặp vợ chồng đã kết hôn cho biết họ đã trải qua một
trong các hành vi BHGĐ[1]. Điều đó có nghĩa là cứ 5 gia đình thì sẽ có một gia
đình xảy ra tình trạng BHGĐ dưới các hành thức chính bao gồm: bạo hành thể chất,
bạo hành tinh thần và bạo hành tình dục. Điều tra cũng cho thấy trong các trường
hợp BHGĐ thì các cặp vợ chồng hiếm khi nhờ đến sự can thiệp của cha mẹ, bạn bè
hoặc chính quyền vì họ sợ mất mặt.



×