Tải bản đầy đủ (.doc) (190 trang)

Đảng bộ quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 190 trang )

4

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
QUÂN KHU 1 VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TƯ
NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2008
2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Quân
khu 1 về công tác dân vận (2003 - 2008)
2.2. Chủ trương của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác dân vận
(2003 - 2008)
2.3 Đảng bộ Quân khu 1 chỉ đạo thực hiện công tác dân vận
(2003 - 2008)
Chương 3 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
QUÂN KHU 1 VỀ ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN
VẬN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
3.1. Những yếu tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ
Quân khu 1 về công tác dân vận (2008 - 2013)
3.2. Chủ trương của Đảng bộ Quân khu 1 về đẩy mạnh công tác
dân vận (2008 - 2013)
3.3. Đảng bộ Quân khu 1 chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận
(2008 - 2013)


Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân
vận (2003 - 2013)
4.2. Những kinh nghiệm chủ yếu
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
11
11
30
34
34
55
63
79
79
89
99
117
117
129
152
155
156
172



5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công tác dân vận là công việc của toàn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng tiến hành tập hợp vận động, đoàn kết nhân dân, thực hiện đường lối
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời công tác dân
vận cũng nhằm góp phần chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân; phát huy quyền

làm chủ, sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong bài báo Dân vận
đăng trên báo Sự thật, ngày 15-10- 1949, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng
của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém.
Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [130, tr. 234].
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định công
tác dân vận là một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân
dân. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
giải pháp về công tác dân vận, phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực. Đồng
thời, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, mở rộng dân chủ,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng như vai trò của Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và lực lượng vũ trang trong công
tác dân vận đã mang lại hiệu quả thiết thực.
Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận
công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một nội dung cơ bản
trong hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của quân đội. Thực hiện
có hiệu quả công tác dân vận vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm của “Bộ
đội Cụ Hồ” đối với nhân dân, đồng thời, là điều kiện để cán bộ, chiến sĩ

quân đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Địa bàn Quân khu 1 bao gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về


6

kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh của đất nước, có nhiều dân tộc, tôn giáo
cùng sinh sống. Đây là vùng đất có nhiều tiềm năng, lợi thế, nhưng cũng tiềm ẩn
nhiều nhân tố mất ổn định, nhất là sự chống phá thường xuyên, quyết liệt của các
thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của địa bàn chiến lược
và việc xây dựng “thế trận lòng dân” ở Quân khu 1, từ 2003 - 2013 các đơn vị
thuộc lực lượng vũ trang Quân khu 1 đã có nhiều cố gắng trong việc vận động
nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, góp
phần quan trọng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên địa bàn. Tuy nhiên,
công tác dân vận trên địa bàn Quân khu 1 vẫn bộc lộ không ít những hạn chế cả
trong nhận thức và hành động, một số đơn vị chưa quan tâm đúng mức công tác
dân vận, còn có biểu hiện xem nhẹ công tác dân vận so với một số mặt công tác
khác. Trong tổ chức các hình thức dân vận, “một số đơn vị chưa thật sự chú
trọng đến công tác tuyên truyền vận động nhân dân cùng làm, cùng thực hiện
nhiệm vụ; nội dung, phương pháp tuyên truyền còn hạn chế” [85, tr. 8].
Hiện nay trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế,
công tác dân vận đang đặt ra những yêu cầu mới nhằm tạo sự đồng thuận
trong toàn xã hội, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa quân đội với nhân
dân. Cùng với đó, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng
nước ta thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” “bạo loạn lật đổ” với
nhiều thủ đoạn nham hiểm tinh vi xảo quyệt, nhằm chia rẽ gây mất đoàn

kết nội bộ, lôi kéo phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhất là ở các địa
bàn trọng điểm, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Thực tiễn đó, đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả của công tác
dân vận, phối hợp chặt chẽ các tổ chức, các lực lượng tuyên truyền vận động
nhân dân thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà


7

nước. Đã có rất nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về công tác dân vận nói
chung, trên các địa bàn vùng miền nói riêng. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có
công trình chuyên khảo nào đi sâu nghiên cứu về qúa trình Đảng bộ Quân khu
1 lãnh đạo công tác dân vận trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm
2013 dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo
công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013, trên cơ sở đó đúc kết những
kinh nghiệm chủ yếu, góp phần vào việc tổng kết công tác dân vận của Đảng,
của Quân ủy Trung ương trong thời kỳ đổi mới (qua thực tế địa bàn Quân khu
1). Đồng thời góp thêm cơ sở cho việc bổ sung, hoàn thiện chủ trương, biện
pháp lãnh đạo công tác dân vận trên địa bàn Quân khu 1 trong thời gian tới là
vấn đề cấp thiết có ý nghĩa cả về lý luân và thực tiễn.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo
công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013” làm luận án tiến sĩ Lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận từ năm
2003 đến năm 2013, đúc kết những kinh nghiệm có giá trị tham khảo trong việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận ở Quân khu 1 trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo công tác dân
vận của Đảng bộ Quân khu 1 từ năm 2003 đến năm 2013.
Luận giải làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo công tác dân vận của Đảng bộ Quân
khu 1 từ năm 2003 đến năm 2013, qua hai giai đoạn 2003 - 2008 và 2008 - 2013.
Nhận xét đánh giá những ưu điểm, hạn chế làm rõ nguyên nhân đúc
rút những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo
công tác dân vận (2003 - 2013)


8

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác
dân vận trên địa bàn Quân khu.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ những yếu tố tác động,
chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác dân vận từ năm
2003 đến năm 2013, tập trung làm rõ các vấn đề: Chỉ đạo giáo dục nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ về công tác dân vận; Chỉ đạo tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
Nhà nước; Tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở địa phương vững
mạnh; Phối hợp giúp đỡ địa phương phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội.
Về không gian: trên địa bàn Quân khu 1, bao gồm 6 tỉnh (Thái Nguyên,
Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang)
Về thời gian: Luận án nghiên cứu trong khoảng thời gian 10 năm từ năm
2003 đến năm 2013. Năm 2003 là năm Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là
Quân ủy Trung ương) ra Nghị quyết 152 “Về tiếp tục đổi mới và tăng cường
công tác dân vận của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới”, Đảng ủy Quân
khu 1 ra Nghị quyết 403 về “tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận

của lực lượng vũ trang Quân khu trong thời kỳ mới”. Năm 2013 là năm Quân
ủy Trung ương và Đảng ủy Quân khu 1 tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết
152. Để vấn đề nghiên cứu có tính hệ thống bảo đảm tính toàn diện, đồng thời
phục vụ cho mục tiêu đúc kết kinh nghiệm, luận án mở rộng phạm vi nghiên
cứu cả trước và sau mốc thời gian trên.
4. Cở sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trò của quần chúng nhân dân và


9

công tác vận động quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng.
* Cơ sở thực tiễn
Luận án thực hiện trên cơ sở thực tiễn quá trình Đảng bộ Quân khu 1
lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013 (thể hiện qua các báo
cáo tổng kết của Đảng bộ, Phòng Dân vận Quân khu; các đề tài, công trình
nghiên cứu có liên quan; các số liệu điều tra, khảo sát thực tế của nghiên cứu
sinh tại địa bàn Quân khu 1(5.2018) và các số liệu được công bố trên các
sách, tạp chí, trong và ngoài quân đội).
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc; kết
hợp 2 phương pháp đó là chủ yếu. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp
khác: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, để làm sáng
tỏ các nội dung luận án. Cụ thể là:
Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu, miêu tả bối cảnh, chủ trương,
sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác dân vận theo tiến trình lịch sử.
Phương pháp lô gích được sử dụng để sâu chuỗi các sự kiện chủ yếu

và khái quát lịch sử. Nêu bật những nội dung trọng tâm trong từng văn kiện
và liên kết các nội dung đó để thấy được quá trình nhận thức phát triển chủ
trương của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác dân vận; sử dụng trong khái
quát quá trình chỉ đạo công tác dân vận của Đảng bộ Quân khu, sử dụng để
khái quát những ưu điểm, hạn chế, đúc rút những kinh nghiệm từ quá trình
Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận.
Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lô gích để tái hiện một
cách chân thực và khoa học quá trình Đảng bộ Quân khu 1 lãnh đạo công
tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013; đồng thời khái quát luận giải
những ưu điểm, hạn chế và đút rút những kinh nghiệm từ quá trình Đảng
bộ Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận.


10

Các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
được sử dụng phù hợp với từng nội dung của luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Về tư liệu: Luận án cung cấp khối lượng tư liệu khá phong phú, cập
nhật, đáng tin cậy về chủ trương của Đảng, của Quân ủy Trung ương và đặc
biệt là chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ Quân khu 1 về công tác
dân vận từ năm 2003 đến năm 2013. Nguồn tài liệu tham khảo, phụ lục của
luận án có thể đóng góp cho việc nghiên cứu một số vấn đề về công tác vận
động quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Về nội dung khoa học:
Luận án trình bày có hệ thống về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
Quân khu 1 lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013.
Đưa ra những nhận xét, đánh giá có cơ sở khoa học về quá trình Đảng bộ Quân
khu 1 lãnh đạo công tác dân vận từ năm 2003 đến năm 2013, trên cả 2 bình diện ưu

điểm và hạn chế làm rõ nguyên nhân. Đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu có giá trị
tham khảo, vận dụng trong lãnh đạo công tác dân vận trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lý luận
Góp phần vào việc tổng kết công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập quốc tế (qua thực tế địa bàn Quân khu 1)
Góp thêm luận cứ cho việc hoàn thiện chủ trương, giải pháp đổi mới
công tác dân vận của Đảng và Đảng bộ Quân khu 1 trong thời gian tới.
* Ý nghĩa thực tiễn
Luận án là tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng, các lực lượng tiến hành
công tác dân vận ở Quân khu 1 và các đơn vị có liên quan. Đồng thời, là tài liệu
khảo tham phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án


11

Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (10 tiết), kết luận, danh mục công trình
khoa học của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


12

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1 Các nghiên cứu chung về công tác dân vận
Công tác dân vận là công việc của toàn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhằm tập hợp vận động, đoàn kết nhân dân, đưa các chủ trương,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự
đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng. Vì vậy,
luận bàn về công tác dân vận có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau như:
Nguyễn Văn Linh (1986), Về công tác vận động quần chúng hiện nay
[122]. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác vận động quần chúng
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, tác giả đã khẳng định: “Công tác vận
động quần chúng trong mỗi giai đoạn cách mạng đều có ý nghĩa quyết định”
[122, tr.30], tác giả nhấn mạnh việc thực hiện chính sách xã hội, giáo dục
quần chúng hiểu về vai trò làm chủ thực sự của mình, đập tan mọi âm mưu
của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ Đảng và quần chúng, hòng làm suy yếu
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Góp phần củng cố mối liên hệ giữa Đảng và
quần chúng nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh của cách mạng. Nhiệm vụ của
các cấp ủy Đảng trong công tác vận động quần chúng rất nặng nề, “lấy dân
làm gốc” phải trở thành nền nếp của xã hội, tất cả phải do nhân dân, vì nhân
dân mới có thể thực hiện thắng lợi được nhiệm vụ đó. Cán bộ các ngành, các
cấp phải coi trọng công tác vận động quần chúng, xem công tác vận động
quần chúng là công việc gốc trong mọi hoạt động cách mạng. Chỉ có như thế
mới góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng, lấy lại lòng tin cho quần chúng
nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân đến mọi thành công.


13

Ban Dân vận Trung ương (1996), Kỷ yếu Hội nghị tổng kết 5 năm thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương, khóa VI,
Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân [13], đã tập trung phân tích làm rõ vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của công tác vận động quần chúng của Đảng, khẳng định tính đúng đắn
của những quan điểm chỉ đạo công tác dân vận của Đảng. Nhận thức của các

cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các cấp, cán bộ và đảng viên được nâng
cao. Bước đầu nâng cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, góp phần tăng
cường và phát huy vị trí, vai trò của công tác dân vận trong thời kỳ mới. Củng
cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc được thực hiện ở tầm cao mới, thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo,
chính quyền điều hành, quân đội - công an làm tham mưu, mặt trận và các
đoàn thể nhân dân tham gia phối hợp”, trong công tác xây dựng, củng cố nền
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.
Vũ Oanh (1996), Đổi mới công tác dân vận của Đảng, chính quyền,
Mặt trận và các đoàn thể [134], luận giải khá sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm
quan trọng của công tác vận động quần chúng của Đảng trong sự nghiệp
cách mạng đồng thời nêu rõ sự cần thiết phải đổi mới công tác dân vận của
Đảng hiện nay. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng luôn xác định công
tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, phải được tiến hành thường
xuyên trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với mọi tầng lớp nhân
dân. Phải bằng nhiều hình thức và biện pháp để đưa đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước đến với đông đảo quần chúng nhân dân, phù hợp
với từng đối tượng quần chúng nhân dân. Song trước tiên phải xuất phát từ
thực tiễn tình hình đất nước, tình hình quần chúng nhân dân hiện nay để xây
dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng, phù hợp với lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân.


14

Hội Nông dân Việt Nam (1999), Công tác dân vận trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, [138] khẳng định vị trí, vai trò của Hội Nông
dân Việt Nam trong hệ thống chính trị: Nông dân Việt Nam có vị trí chí chiến
lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững,

giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Tăng cường
lãnh đạo, củng cố xây dựng Hội Nông dân các cấp vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng nòng cốt của phong trào nông dân xây
dựng nông thôn mới, là thành viên tích cực trong khối đại đoàn kết toàn dân, là
nhân tố quan trọng của khối liên minh giai cấp công - nông và đội ngũ trí thức nền tảng chính trị vững chắc của chế độ.
Bộ Quốc phòng (1998) Lịch sử 50 năm Quân đội nhân dân Lào 19451995, [26] cuốn sách đã tổng hợp lại những bài học kinh nghiệm của Đảng
nhân dân cách mạng Lào trong lãnh đạo công tác tuyên truyền, vận động để tổ
chức xây dựng lực lượng quân đội nhân dân Lào vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Quân đội nhân dân Lào là lực lượng vũ trang cách mạng
của Đảng, Nhà nước, của nhân dân các bộ tộc Lào, là đội quân của dân, do
dân và vì dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu đặt dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng nhân dân Cách mạng Lào. Nội
dung cuốn sách khẳng định: Quân đội Nhân dân Lào có truyền thống đoàn
kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, chiến đấu vì nhân dân được nhân dân đùm
bọc, che chở, giúp đỡ và nuôi dưỡng. Những thành tích to lớn và truyền thống
vẻ vang của quân đội là thành tích chung của Đảng, Nhà nước và của nhân
dân các bộ tộc Lào, được bắt nguồn từ tinh thần đại đoàn kết, mối quan hệ
chặt chẽ giữa quân đội và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nói chung, của Quân đội
nhân dân Lào nói riêng.


15

Nguyễn Tiến Thịnh (Chủ biên), (2003), Công tác dân vận của Đảng thời
kỳ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [154], phân tích làm rõ vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng của Đảng. Công tác
dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của Đảng, một trong những công
tác cơ bản, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam;

là truyền thống, nguồn gốc sức mạnh của Đảng, có mối quan hệ gắn bó máu
thịt giữa Đảng với nhân dân. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo phong trào rộng lớn xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước đòi hỏi phải thực hiện tốt công tác dân vận trong thời kỳ mới.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo phong trào rộng lớn xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tòng Thị Phóng (2003), “Nhiệm vụ trung tâm của công tác dân vận
hiện nay” [135], tác giả khẳng định công tác dân vận là nhiệm vụ quan trọng
của cả hệ thống chính trị, do vậy phải nâng cao nhận thức về công tác dân vận
một cách đồng bộ và sâu sắc. Trong giai đoạn hiện nay để việc triển khai thực
hiện chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có kết quả
tốt, phải có sự quan tâm lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy, đồng thời có sự đổi
mới nhận thức, tư duy về công tác dân vận hiện nay trong toàn bộ hệ thống
chính trị. Phải quan tâm xây dựng được mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của
Đảng với phong trào quần chúng, vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân và
cả vai trò cá nhân trong công tác dân vận của Đảng.
Dương Xuân Ngọc (2005), “Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành
công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [133], khẳng định: Công tác
dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, cả trong thời kỳ chưa có chính quyền cũng như thời kỳ Đảng
cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối
với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với


16

dân. Tác giả đã đưa ra bốn quan điểm chỉ đạo công tác dân vận dưới ánh sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh: công tác dân vận phải xuất phát từ lợi ích của quần
chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân; thực hành dân chủ

là phương thức cơ bản của công tác dân vận; Dân vận phải hướng tới mục tiêu
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Dân vận và công tác dân vận là sự
nghiệp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá thực trạng công tác dân vận, tác giả chỉ rõ: Muốn bảo vệ vững
chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, Đảng và Nhà nước cần có những
chính sách phát triển kinh tế xã hội thích hợp, nhằm không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc nhất là vùng sâu, vùng
xa biên giới và làm tốt công tác dân vận.
Ban Dân vận Trung ương (2006), 75 năm công tác dân vận của Đảng,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn [15], luận giải làm rõ tầm quan trọng của
công tác dân vận và quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn có nhận thức đúng đắn quan điểm của Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò quần chúng nhân dân trong tiến trình cách mạng
xã hội và tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng của chính đảng
cách mạng giai cấp công nhân. Đảng luôn xác định công tác dân vận là nhiệm
vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều
kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Công tác phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể được các cấp chính
quyền thực hiện đã đi vào nền nếp. Chính quyền các cấp và nhiều cơ quan nhà
nước đã phân công một đồng chí lãnh đạo phụ trách công tác quần chúng.
Công tác tham mưu của Ban Dân vận các cấp về công tác dân vận của chính
quyền được chú trọng. Ban Dân vận ở địa phương chủ động phối hợp với các


17

cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp để tổ chức triển khai, thực hiện và

kiểm tra công tác dân vận của chính quyền. Các Ban Dân vận địa phương đã
thành lập bộ phận chuyên trách theo dõi công tác dân vận của chính quyền và
tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo chính quyền các cấp về công tác quần chúng.
Đỗ Quang Tuấn (2006) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới (152)
khẳng định: Đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân nhằm mục tiêu củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Trên cơ sở phân
tích những ưu điểm và hạn chế về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, tác giả nêu lên một số bài học
kinh nghiệm: Đảng phải tiếp tục nâng cao nhận thức và quan điểm quần
chúng, đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của cán bộ,
đảng viên, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất. Củng cố, tăng cường
Ban Dân vận các cấp về tổ chức, bộ máy và cán bộ; về phương tiện, điều kiện
làm việc để cho Ban làm tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, phối
hợp hoạt động, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về công tác dân vận.
Hà Thị Khiết (2010) “Một số bài học kinh nghiệm trong công tác dân
vận của Đảng sau gần 25 năm đổi mới” [115], khẳng định những chủ trương,
chính sách về công tác dân vận, về đại đoàn kết dân tộc, về xây dựng giai cấp
công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ, về tôn giáo,
dân tộc, người Việt Nam ở nước ngoài, lần lượt được xác định và ngày càng
được hoàn thiện. Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được và chỉ ra những
tồn tại, khó khăn trong công tác dân vận của Đảng gần 25 năm đổi mới, tác
giả chỉ rõ: Thường xuyên củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, để công tác dân vận ngày càng được triển khai sâu rộng trong
các cấp, các ngành, các lĩnh vực và trong quần chúng nhân dân; đồng thời,


18


huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân thực
hiện thành công các nhiệm vụ chính trị, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà
Đảng và Nhà nước đề ra.
Hà Thị Khiết (2013), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động quần chúng trong tình hình mới” [116] bài viết của tác giả đã
khẳng định “Công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ chiến lược, phải
được tiến hành thường xuyên trong mọi hoàn cảnh, trên mọi địa bàn, đối với
mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài”.
Cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với
Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân. Vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phát huy sức mạnh to lớn của nhân
dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong điều kiện đất
nước có sự thay đổi ngày một cơ bản và toàn diện: Kinh tế - xã hội phát triển,
quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường; đời sống nhân dân từng
bước được cải thiện, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố và tăng cường. Tác giả nhấn mạnh: “Trong bất cứ hoàn cảnh và điều
kiện nào cũng phải tin ở lực lượng và sức mạnh của nhân dân, gắn bó máu thịt
với nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Linh hoạt, sáng tạo trong
việc tổ chức, tập hợp nhân dân bằng các hình thức hoạt động thích hợp trong
từng giai đoạn cách mạng” [116, tr.4].
Nguyễn Bá Quang (2013), Học tập và làm theo phong cách “Dân vận
khéo”Hồ Chí Minh (142), đã phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận khéo; nêu lên những tiêu chí về mô hình và
điển hình dân vận khéo ở một số cơ sở; đề xuất một số nội dung và phương


19


pháp nhằm hiện thực hóa tư tưởng “Dân vận khéo” của Người trong giai đoạn
hiện nay, đó là: thực hành dân chủ, nêu gương; cải cách thủ tục hành chính;
thực hiện kỹ năng “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; đổi mới công tác
cán bộ dân vận. Đáng chú ý là nhận định của tác giả: “Dân vận là công tác
khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật, nhằm giải quyết mối quan hệ giữa Đảng
và dân. Muốn làm tốt công tác dân vận, cán bộ phải có tâm trong sáng, có
trách nhiệm, có tri thức khoa học, tóm lại phải có tâm và có tài, như vậy mới
là “Dân vận khéo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [142, tr.80].
Sụ Băn Hủn Nạ Chăm Pa (2014), “Công tác vận động tuyên truyền của
Quân đội nhân dân Lào trong tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững
mạnh, bảo đảm cho sự ổn định toàn diện của Tổ quốc” [167]. Tác giả, khẳng
định: vai trò tầm quan trọng chiến lược lâu dài của công tác vận động, tuyên
truyền; vai trò và bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Lào nói
chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội nói riêng. Là lực lượng chủ
chốt trong tiến hành cuộc vận động tuyên truyền tham gia xây dựng cơ sở địa
phương vững mạnh, đồng thời chỉ rõ đó là chức năng, nhiệm vụ và trách
nhiệm của Quân đội nhân dân Lào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc giai đoạn hiện nay.
Ban Dân vận Trung ương (2015), Lịch sử công tác dân vận của Đảng
Cộng sản Việt Nam (1930-2010) [17]. Công trình đã phản ánh quá trình lịch
sử phong phú, sinh động về công tác dân vận của Đảng qua các thời kỳ cách
mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nêu bật những chủ
trương, chính sách, nhiệm vụ và quá trình lãnh đạo thực hiện, khẳng định
những thành tựu đạt được, đồng thời, chỉ rõ những sai lầm, hạn chế trong
công tác dân vận. Từ đó đúc kết những bài học lịch sử cho công tác dân vận
của Đảng trong hiện tại và tương lai. Cùng với các công trình trên có rất nhiều
nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí khoa học, tiêu biểu là những bài viết:



20

“Một số bài học kinh nghiệm về công tác vận động quần chúng của Đảng
trong những năm đổi mới”.
Từ thực tế lãnh đạo công tác vận động quần chúng của Đảng sau gần
30 năm đổi mới, cho thấy Đảng luôn nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò
quan trọng của công tác vận động quần chúng. Quá trình lãnh đạo công
cuộc đổi mới, lấy độc lập dân tộc và dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm mục tiêu của công tác vận động quần chúng, đoàn kết,
thống nhất trong Đảng. Là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác vận động quần chúng, được thực hiện
trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã
hội, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. Công tác vận động quần chúng
phải được dựa trên cơ sở, thấm nhuần phương châm “Vì quần chúng nhân
dân, do quần chúng nhân dân”, trong công tác vận động quần chúng phải
biết phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc, nhất là truyền thống
yêu nước [17, tr.170 - 183].
1.1.2.

Các nghiên cứu về công tác dân vận ở các

vùng miền, địa phương
Trương Minh Dục (2008), Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc ở Tây Nguyên [102], đã đề cập đến vấn đề dân tộc, đặc điểm kinh tế xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Phân tích làm rõ truyền
thống đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên qua các thời kỳ lịch sử, quá trình
xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên. Trong
cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là thời
kỳ đổi mới; đánh giá những kết quả đã đạt được và những hạn chế, yếu
kém. Trong quá trình thực hiện chính sách của Đảng về đoàn kết các dân tộc Tây
Nguyên, từ đó đề xuất các nhóm giải pháp khá toàn diện, đồng bộ. Nhằm xây

dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện


21

nay. Trong đó, đáng chú ý là nhóm giải pháp tăng cường công tác dân vận: Cần
nhận thức đúng đắn vai trò của công tác dân vận trong quá trình xây dựng khối
đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên. Công tác vận động quần chúng phải thật sự
hướng về cơ sở, nội dung, phương pháp vận động phải cụ thể, thiết thực, phù
hợp với trình độ nhận thức và tâm lý của đồng bào. Công tác phát động quần
chúng là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ trọng
tâm, thường xuyên của hệ thống chính trị các cấp. Phát huy vai trò già làng trong
quá trình củng cố và tăng cường khối đoàn kết các dân tộc thiểu số, xây dựng đội
ngũ cán bộ làm công tác vận quần chúng có tâm huyết, biết nghe dân nói, nói
dân nghe, làm dân tin [102, tr.424 - 432].
Lê Văn Đính (2009), Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh
niên các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay [105], cuốn sách đã tập trung phân
tích tình hình thanh niên và thực trạng công tác đoàn kết, tập hợp thanh
niên các dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian qua, nêu lên những ưu điểm,
hạn chế, nguyên nhân. Đề ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên trong bối
cảnh hiện nay. Trong đó, nổi lên là giải pháp tăng cường công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, giữ gìn bản sắc văn hóa cho thanh
niên các dân tộc ở Tây Nguyên.
Lưu Văn Sùng (2010), “Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại
các vùng đa dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây hiện trạng, vấn đề
các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống” [145]. Trong những năm đầu
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng về kinh tế, văn hoá - xã hội. Đời sống của nhân
dân tiếp tục được cải thiện, tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc

phòng - an ninh được tăng cường. Đạt được những thành tựu trên là do sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, sự tham gia tích
cực của các tổ chức chính trị quần chúng. Cùng với những thành quả đạt


22

được, trong những năm đầu bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cũng đã xuất hiện những yếu tố tiêu cực, bất ổn định, an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội diễn biến phức tạp. Những vấn đề bức xúc của nhân dân ở cơ
sở diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước. Công tác tiếp dân và giải quyết
đơn thư tố cáo từ tỉnh đến cơ sở bị coi nhẹ, không quan tâm chỉ đạo giải quyết
kịp thời, thỏa đáng những khiếu kiện chính đáng của nhân dân.
Nguyễn Thị Lệ (2013), “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác dân vận ở Thành phố Hồ Chí Minh” [117], bài viết đã làm rõ
trong những năm qua, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, tình hình
khu vực và thế giới diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng và tác động trực tiếp tới
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ,
toàn hệ thống chính trị và nhân dân Thành phố đã quán triệt và chấp hành
nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Vững vàng, đoàn kết, năng động, sáng tạo vượt qua khó khăn thách
thức, đạt được những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Góp phần thực
hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lần thứ IX đã đề ra.
Nguyễn Thế Tư (2014), Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân
vận trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay [156], đã làm
rõ cơ sở lý luận, vai trò của lực lượng nòng cốt; phân tích tình hình xây dựng
và hoạt động của lực lượng nòng cốt ở Tây Nguyên. Đưa ra các nhóm giải
pháp nhằm xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận trong cộng đồng
các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay. Điểm nổi bật của công trình này là

góp phần làm sáng rõ vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng
nòng cốt làm công tác dân vận. Xem đây là một trong những nội dung quan
trọng của công tác dân vận, góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân, nhất là tạo lập niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với


23

Đảng, chính quyền. Đây là lực lượng gần dân, hiểu được đặc điểm, tâm tư,
nguyện vọng của đồng bào, trực tiếp vận động đồng bào tích cực tham gia các
phong trào của địa phương. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các
đoàn thể trên địa bàn phải có chương trình, kế hoạch, mục tiêu cụ thể để chăm
lo xây dựng lực lượng này thực sự là chỗ dựa tin cậy cho tổ chức đảng, chính
quyền trong công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số [156, tr.35].
Lê Xuân Đại (2014), “Hiệu quả từ công tác dân vận của chính quyền ở
Nghệ An” [103], bài viết khẳng định công tác dân vận của hệ thống chính trị thì
công tác dân vận của chính quyền có vị trí rất quan trọng. Vì chính quyền là nơi
cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng đến với dân, nhất là việc ban
hành các cơ chế chính sách để đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Các cơ quan nhà nước cũng là nơi thường
xuyên trực tiếp tiếp xúc, giải quyết các vấn đề liên quan đến dân và doanh nghiệp,
giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân. Nếu chính quyền làm không tốt
công tác dân vận thì rất khó khăn cho công tác dân vận nói chung.
Nguyễn Văn Hào (2014), “Lãnh đạo công tác dân vận vùng đồng bào dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên” [111], bài viết làm rõ trong quá trình lãnh đạo, các
cấp ủy Đảng ở Tây Nguyên luôn xác định công tác vận động đồng bào dân tộc
thiểu số. Là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, do đó đã ban hành nhiều chủ trương,
nghị quyết về công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, về phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững an ninh chính trị, nâng cao đời sống nhân dân trong cộng đồng dân tộc
thiểu số. Nhiều cấp ủy viên, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn

thể chính trị - xã hội đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm cá nhân trong chỉ đạo,
điều hành thực hiện nhiệm vụ dân vận ở cơ sở.
Thực tế cho thấy, đời sống mọi mặt của đồng bào dân tộc thiểu số Tây
Nguyên được nâng cao hay giảm sút, tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội
có được giữ vững hay không thuộc về trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, các
cấp ủy viên phụ trách công tác dân vận và cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Vì vậy,


24

muốn tăng cường, đổi mới công tác dân vận, ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên. Các cấp ủy Đảng cần phải cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách thành quy chế, quy định để cấp ủy, cá nhân cấp ủy viên quán triệt
và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Đối với tập thể cấp ủy, cần căn cứ yêu cầu, tình
hình cụ thể, xây dựng chủ trương, chương trình hành động hàng năm. Định
hướng nội dung hoạt động, tạo thuận lợi để mặt trận và các đoàn thể nhân dân
tham gia xây dựng chủ trương, nghị quyết về công tác dân vận trong đồng bào
dân tộc thiểu số. Lãnh đạo về tổ chức, nhân sự, bố trí, giới thiệu cán bộ, đảng viên
có năng lực phụ trách công tác dân vận, “khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm
chất, năng lực yếu kém và không có uy tín về làm công tác dân vận” [111,
tr.6].
Vũ Thái Dũng (2018) Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc
từ tháng 10-1949 đến tháng 1-1954 ”, [168] khẳng định đảm bảo thành công
của mọi cuộc cách mạng là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp
được đông đảo nhân dân trong lực lượng của cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của
Trung ương Đảng và Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến
được xây dựng, củng cố về mọi mặt, sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài
của quân và dân Việt Nam. Tại Liên khu Việt Bắc, chính quyền nhân dân các
cấp được chăm lo củng cố và kiện toàn, khối đoàn kết toàn dân được

tăng cường, quần chúng nhân dân các dân tộc trên địa bàn Liên khu được quy
tụ trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt với các đoàn thể (nông hội, hội
phụ nữ, hội thanh niên). Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Việt Bắc
đã vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn đóng góp to lớn sức người, sức
của cho kháng chiến, cung cấp nhân lực chủ yếu cho chiến trường. Nhờ chủ
động trong công tác chuẩn bị nên khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, việc
di chuyển các cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến được thực hiện đúng kế
hoạch. Việc chủ động trong công tác xây dựng và củng cố căn cứ địa Việt
Bắc, quân và dân Việt Nam đã đánh bại âm mưu của thực dân Pháp trong việc


25

đánh vào cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến, làm thất bại hoàn toàn chủ
trương đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Nhìn lại những chủ trương, đường
lối trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác dân vận
của Đảng suốt những năm tháng đầy khó khăn, thử thách với cách mạng Việt
Nam là một việc làm rất cần thiết, nhất là sau khi vừa giành được chính
quyền cách mạng, cả dân tộc phải đương đầu với kẻ thù lớn mạnh.
1.1.3. Các nghiên cứu về công tác dân vận trong quân đội
Cục Dân vận và Tuyên truyền đặc biệt (1993), Đổi mới công tác dân
vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới [55], làm rõ vị trí ,
vai trò của công tác dân vận và sự cần thiết phải đổi mới công tác dân vận
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng,
đồng thời, xác định rõ vị trí, vai trò và nội dung công tác dân vận của Quân
đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, đề xuất những
kiến nghị, giải pháp tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân
Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng
quân đội. Công tác dân vận được coi là tiêu chí để xây dựng bản chất và rèn

luyện ý chí quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Công
tác dân vận thực sự là một trong những điều kiện quan trọng để quân đội ta
rèn luyện, xây dựng bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp “Trung với
Đảng, hiếu với dân” xây dựng nên mối quan hệ máu thịt quân - dân, tạo thành
nguồn sức mạnh vô địch và ý chí quyết chiến, quyết thắng mọi kẻ thù, góp
phần làm rạng danh Tổ quốc và dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Đặng Vũ Liêm (2000), “Công tác vận động quần chúng của Bộ đội Biên
phòng góp phần xây dựng và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới Tổ quốc”
[119], khẳng định, nội dung công tác vận động quần chúng không chỉ đơn
thuần tuyên truyền vận động, mà phải tiến hành toàn diện. Tham gia xây dựng,
củng cố cơ sở chính trị, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội,


26

chương trình xóa đói giảm nghèo, tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng và
bảo vệ biên giới. Trên cơ sở phân tích những chủ trương, biện pháp đổi mới
công tác vận động quần chúng, tác giả đã đánh giá kết quả thực hiện công tác
vận động quần chúng và rút ra 6 kinh nghiệm chủ yếu, trong đó kinh nghiệm
thứ ba được tác giả chỉ rõ: Bộ đội Biên phòng đã kết hợp chặt chẽ công tác biên
phòng với tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực biên giới; giữa
tuyên truyền, giác ngộ đồng bào với “chăm lo nhu cầu bức thiết trong đời sống
của quần chúng, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, trên cơ sở đó tạo động lực
phong trào quần chúng bảo vệ biên giới” [119, tr.14].
Tổng cục Chính trị (2000), Đẩy mạnh công tác dân vận tham gia xây
dựng nền chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới, [160] khẳng định công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt
Nam là một phần công tác dân vận của Đảng Cộng sảng Việt Nam. Trong quá
trình thực hiện công cuộc đổi mới, thực hiện cơ chế kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi phải được đẩy mạnh công tác tuyên

truyền vận động nhân dân cả chiều rộng và bề sâu. Trong đó nhấn mạnh công
tác dân vận của quân đội có vai trò quan trọng, góp phần quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của đất nước, đồng thời đề ra các biện pháp nhằm đẩy
mạnh công tác dân vận của quân đội trong tình hình mới.
Cục Dân vận và Tuyên truyền đặc biệt (2001), Đổi mới công tác dân
vận tham gia xây dựng nền tảng chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam
[56], làm rõ vị trí, vai trò của công tác dân vận trong việc tham gia xây
dựng nền tảng chính trị tinh thần trong quân đội và sự cần thiết phải đổi
mới công tác dân vận trong giai đoạn cách mạng mới. Vì Quân đội nhân
dân Việt Nam luôn nhận được sự giúp đỡ quý báu của nhân dân, thực sự là
lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà
nước nhân dân qua các thời kỳ cách mạng. Công tác dân vận của quân đội
đã trực tiếp góp phần củng cố nền tảng chính trị - xã hội vững chắc, tăng


27

cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, tạo nên nguồn sức
mạnh to lớn để lực lượng vũ trang nhân dân chiến đấu và chiến thắng.
Đặng Vũ Liêm (2002),Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần
chúng của Bộ đội Biên phòng trong đấu tranh phòng chống truyền đạo trái
phép ở địa bàn biên giới Tây Bắc hiện nay [120], khẳng định cơ sở khoa
học của công tác vận động quần chúng trong phòng chống truyền đạo trái
phép ở địa bàn biên giới Tây Bắc. Trong đó khẳng định vai trò quan trọng
của công tác vận động quần chúng trong phòng chống truyền đạo trái phép,
bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới Tổ quốc. Tác giả nhấn mạnh: “Chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh chính trị vùng biên giới chỉ có thể
được giữ gìn và bảo vệ vững chắc trong mọi tình huống khi và chỉ khi tạo
lập được một thế trận biên phòng toàn dân vững chắc” [120, tr.54].
Nguyễn Kim Khoa (2006), “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết

hợp với xây dựng thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới Quân khu 2”
[114], làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân kết hợp với xây dựng thế trận an ninh nhân dân và công tác vận động
quần chúng, tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.
Tác giả đã đề cập đến những đặc điểm chi phối công tác xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân kết hợp với xây dựng thế trận an ninh nhân dân ở khu
vực biên giới trong tình hình mới.
Bùi Văn Huấn (2010) “Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Quân
đội nhân dân trong thời kỳ mới” [108]. Trong bài viết, tác giả đã làm rõ vị trí,
vai trò của công tác dân vận, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành, trải qua các giai đoạn cách mạng khác nhau, lúc thuận lợi
cũng như khó khăn, trong chiến tranh hay trong hòa bình, Quân đội nhân
dân Việt Nam luôn dựa vào nhân dân, giúp đỡ nhân dân, bảo vệ nhân dân
và được nhân dân tin cậy, đùm bọc. Dù ở đồng bằng hay miền núi, biên
giới hay hải đảo, công tác dân vận của quân đội đã góp phần quan trọng


28

đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đến với đồng bào, đưa nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống. Trên cơ sở
quán triệt sâu sắc Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về công tác
dân vận trong tình hình mới, tác giả đã đánh giá những thành tựu, hạn chế,
đề xuất những nội dung cần tập trung thực hiện trong thời gian tới nội
dung, biện pháp hàng đầu là: “Cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động
nhân dân quán triệt và thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng các địa phương
ngày càng giàu mạnh” [108, tr.23].
Nguyễn Văn Thúy (2012), Bộ đội Biên phòng tỉnh vận động quần
chúng tham gia bảo vệ biên giới Tây Bắc trong tình hình mới [146], chỉ ra

những vấn đề lý luận và thực tiễn về Bộ đội Biên phòng vận động quần chúng
tham gia bảo vệ biên giới Tây Bắc. Đánh giá thực trạng, đưa ra những dự báo
và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Bộ đội
Biên phòng cấp tỉnh vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới Tây Bắc
trong tình hình mới. Trong đó, tác giả chỉ rõ: “Cùng tham gia bảo vệ biên giới
quốc gia với Bộ đội Biên phòng còn có một lực lượng quan trọng, đó là quần
chúng nhân dân sống trực tiếp trên biên giới” [146, tr.76]. Quần chúng nhân
dân có sức mạnh to lớn, các tỉnh biên giới Tây Bắc muốn hoàn thành nhiệm
vụ phải biết dựa vào dân, tuyên truyền, vận động và tổ chức, hướng dẫn quần
chúng nhân dân tham gia bảo vệ biên giới.
Phạm Huy Tập (2013), “Bộ đội Biên phòng đẩy mạnh công tác vận động
quần chúng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tình hình mới” [149], chỉ rõ: Để từng
bước phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân ở khu vực biên giới hiện nay cần tiếp tục nâng cao chất lượng
và hiện quả công tác vận động quần chúng trong tình hình mới. Trên cơ sở phân
tích những đặc điểm cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở khu vực biên


×