Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Đảng bộ tỉnh yên bái lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 2000 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.08 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ ANH

ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HàNội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ ANH

ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2014
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.0315

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Kim Đỉnh

Hà Nội, 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Trần Kim Đỉnh.
Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách
quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà nội, ngày tháng 12 năm 2015.
Tác giả

Nguyễn Thị Anh

2


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới
thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Trần Kim Đỉnh. Thầy đã tận tình chỉ bảo, định
hướng cho tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ từ các thầy cô trong trường Đại học khoa
học xã hội và Nhân văn, các thầy cô trong khoa Lịch sử, trong bộ môn Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam - những người thầy đã dạy dỗ, chỉ bảo tôi trong
suốt quá trình học tập.
Tôi cảm ơn cán bộ trung tâm thông tin thư viện Đại học Quốc Gia Hà
Nội, các lãnh đạo và cán bộ phòng lưu trữ Tỉnh ủy, Tỉnh Đoàn Yên Bái đã
giúp đỡ tôi trong quá trình tìm và hệ thống tư liệu cần thiết cho luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn
bè đã luôn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành khóa học.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực, song trình độ có hạn, luận văn không
tránh khỏi những sai xót. Tôi rất mong nhận được ý kiến của quý thầy cô và

các bạn.
Xin chân thành cám ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Anh

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

8

1. Lý do chọn đề tài

8

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

9

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

11

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

11


5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

12

6. Đóng góp của luận văn

12

7. Kết cấu của luận văn

13

Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN
BÁI VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
1.1 Những cơ sở xác định chủ trƣơng

14

1.1.1 Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội

14

1.1.2 Khái quát phong trào thanh niên Yên Bái trước năm 2000

20

1.1.3 Quan điểm của Đảng về công tác thanh niên từ năm 2000 đến năm

23


2005
1.2 Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 2000

25

đến năm 2005
1.2.1 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về công tác thanh niên từ năm

25

2000 đến năm 2005
1.2.2 Quá trình chỉ đạo và những kết quả đạt được trong công tác thanh

28

niên từ năm 2000 đến năm 2005
1.2.2.1 Quá trình chỉ đạo

28

1.2.2.2 Kết quả đạt được

30

Tiểu kết chƣơng 1

38

4



Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI TĂNG CƢỜNG LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014
2.1. Quan điểm của Đảng và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnhYên Bái về

40

công tác thanh niên từ năm 2006 đến năm 2014
2.1.1 Quan điểm của Đảng về công tác thanh niên

40

2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về công tác thanh niên từ năm 44
2006 đến năm 2014
2.2 Quá trình chỉ đạo và những kết quả đạt đƣơc trong công tác thanh 49
niên từ năm 2006 đến năm 2014
2.2.1 Quá trình chỉ đạo

49

2.2.2 Kết quả đạt được

52

Tiểu kết chƣơng 2

61

Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM


62

3.1 Một số nhận xét

62

3.1.1 Ưu điểm

62

3.1.2 Hạn chế

70

3.2 Bài học kinh nghiệm

73

Tiểu kết chƣơng 3

83

KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85


CÁC BẢNG PHỤ LỤC

95

5


BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

ATGT

An toàn giao thông

BCH

Ban chấp hành

BCHQS

Bộ chỉ huy quân sự

BTV

Ban thường vụ

CLB

Câu lạc bộ

CNXH


Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐTN

Đoàn thanh niên

HĐND

Hội đồng nhân dân

NXB

Nhà xuất bản

LHTN

Liên hiệp thanh niên

TNCS

Thanh niên cộng sản

TTXH

Trật tự xã hội


UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

6


DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Công tác giáo dục trong Đoàn
Phụ lục 2: Công tác xây dựng tổ chức Đoàn
Phụ lục 3: Phân xếp loại Đoàn cơ sở, chi đoàn và đoàn viên

7


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với mọi quốc gia dân tộc và mọi thời đại, thanh niên là lực
lượng xã hội to lớn, trực tiếp kế thừa và tiếp nối các thế hệ cha anh để
thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển. Việc bồi dưỡng và phát huy vai
trò của thanh niên luôn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng
con người, không chỉ là vấn đề xã hội của riêng quốc gia nào mà còn là
vấn đề của thời đại và toàn nhân loại. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
đánh giá cao vai trò to lớn của thanh niên và tầm quan trọng của công tác

thanh niên, đồng thời luôn quan tâm chăm sóc, đào tạo bồi dưỡng, tạo
điều kiện thuận lợi để thanh niên phát triển toàn diện và cống hiến được
nhiều nhất cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn lại gần 30 năm đổi mới và phát triển đất nước, Đảng ta đã xây
dựng được một thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, nhân cách, tri thức,
sức khoẻ và tư duy năng động; tiếp nối được truyền thống hào hùng của dân
tộc, của Đảng, nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
sống có trách nhiệm với gia đình, xã hội; có ý chí vươn lên trong học tập, lao
động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, tình nguyện vì cộng đồng;
mong muốn được cống hiến cho đất nước, có việc làm, thu nhập ổn định, có
đời sống văn hóa tinh thần phong phú, môi trường sống an toàn. Song, thanh
niên cũng chứa đựng rất nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi phải được quan
tâm, định hướng và chăm lo giải quyết. Do độ tuổi còn trẻ, thiếu kinh
nghiệm nên thanh niên cần được sự giúp đỡ, chăm lo của các thế hệ đi
trước và toàn xã hội. Họ là lớp đối tượng chưa từng trải nên dễ bị chán
nản, dễ hoang mang dao động trước khó khăn, dễ bị kích động, nhẹ dạ cả
tin, tiếp nhận thông tin ít chọn lọc, tạo nên yếu tố tiêu cực trong cuộc

8


sống. Họ đang ở độ tuổi năng động, hăng hái, sôi nổi, nhiệt tình, vô tư,
nhạy bén, ưa dân chủ, chuộng cái mới song cũng dễ sa vào trạng thái cực
đoan, chạy theo sống thực dụng. Dù còn có tâm trạng khác nhau, song thanh
niên vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự phát triển của đất nước,
tương lai tươi sáng của dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái, trong nhiều năm qua công
tác thanh niên đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, song trước mắt còn
rất nhiều khó khăn, thách thức cần vượt qua. Vì vậy, việc nghiên cứu đánh giá
đúng thực trạng công tác thanh niên tỉnh Yên Bái hiện nay nhằm tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng trong những năm gần đây không chỉ là mối quan tâm
của Tỉnh đoàn Yên Bái mà còn của hệ thống chính trị và nhân dân địa
phương.
Là một giáo viên trực tiếp làm công tác thanh niên trong trường học,
được trang bị hệ thống lý luận trong quá trình học tập tại khoa Lịch sử, trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, với kinh nghiệm của bản thân trong
quá trình công tác, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo
công tác thanh niên từ năm 2000 đến năm 2014” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Với đề tài về thanh niên, tính đến nay đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu, tổng kết và in thành sách, báo như: “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay” TS Lâm Quốc Tuấn
và Ths Phạm Tất Thắng chủ biên, (NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội,
2011); “Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi
mới và hội nhập quốc tế”, Phạm Hồng Tung (NXB Chính trị quốc gia – Sự
thật, Hà Nội, 2011);“75 năm Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vinh
quang và trách nhiệm”(NXB Thanh niên, Hà Nội, 2006); “Giáo dục thanh

9


niên theo Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam” Nguyễn Hữu Đức chủ biên, (NXB quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003);
“Đổi mới Đoàn thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” (NXB Thanh niên, Hà Nội, 2008)
Nghiên cứu được công bố trên luận văn thạc sỹ và khóa luận cử nhân:
- Luận văn thạc sỹ: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh
niên từ năm 1996 đến năm 2006” của Ngô Thị Khánh, Khoa Lịch Sử, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

- Luận văn thạc sỹ: “Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo công tác Đoàn và
phong trào Thanh niên từ năm 2001 đến năm 2007”(2008) của Nguyễn
Khánh Ly, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Ngoài ra còn nhiều khóa luận tốt nghiệp của sinh viên khoa sử các khóa
nghiên cứu về công tác Đoàn và phong trào Thanh niên các tỉnh: Hải Phòng,
Hải Dương, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ…
Nghiên cứu về Yên Bái có một số luận văn thạc sỹ như: “Đảng bộ tỉnh
Yên Bái lãnh đạo phát triển kinh tế trang trại hộ gia đình từ năm 1991 đến
năm 2005”(2007) của Nguyễn Quốc Khương, Khoa Lịch sử, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn; “Quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo của Đảng ở tỉnh Yên Bái từ năm 1996 đến năm 2010” (2011) của
Lương Thị Thuần, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn.
Năm 2005, Tỉnh đoàn Yên Bái đã tổ chức sưu tầm, nghiên cứu, biên
soạn cuốn “Lịch sử Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào
thanh niên Tỉnh Yên Bái (1930 – 2005)”.Tuy nhiên, cho tới nay chưa có công
trình nghiên cứu có hệ thống nào về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái
đối với công tác thanh niên.

10


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái đối với công tác
thanh niên tỉnh Yên Bái từ năm 2000 đến năm 2014.
- Làm rõ sự phát triển của phong trào và những hoạt động của thanh
niên dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái.
- Tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm về sự lãnh dạo của Đảng
bộ tỉnh Yên Bái đối vớ công tác thanh niên.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và hệ thống những nguồn tài liệu có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu, chủ yếu là các nguồn tài liệu tại văn phòng Tỉnh ủy Yên Bái và
tỉnh đoàn Yên Bái.
- Trình bày một cách hệ thống các tư liệu theo từng giai đoạn lịch sử
- Phân tích những kết quả, hạn chế của quá trình trên, đồng thời bước
đầu rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Yên Bái nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên từ năm 2000 đến
năm 2014.
- Quá trình phát triển của phong trào thanh niên từ năm 2000 đến năm
2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung khoa học: Nghiên cứu chủ trương của Đảng bộ tỉnh Yên
Bái lãnh đạo công tác thanh niên.
- Về phạm vi thời gian: Nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2014.
- Về không gian nghiên cứu: Địa bàn tỉnh Yên Bái.

11


5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu:
- Văn kiện Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về thanh niên.
- Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái, các chỉ thị, nghị quyết,
chương trình hành động của Tỉnh ủy, các ban ngành có liên quan trực tiếp và
gián tiếp đến công tác thanh niên tỉnh Yên Bái từ năm 2000 đến năm 2014

- Các văn kiện Đại hội Đoàn, Hội LHTN, các nghị quyết, báo cáo tổng
kết thường niên của Tỉnh đoàn Yên Bái.
- Các cuốn sách, các công trình nghiên cứu về công tác thanh niên,.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu nhằm mô tả đúng sự thật lịch
sử diễn ra trong công tác Đoàn và phong trào thanh niên tỉnh Yên Bái.
Sử dụng phương pháp lôgic, phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm
đánh giá chính xác những chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng bộ Yên Bái với công tác thanh niên.
Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, lập
bảng nhằm trình bày những kết quả đã đạt được trong quá trình lãnh đạo công
tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh Yên Bái.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Trình bày có hệ thống về quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo
công tác thanh niên từ năm 2000 đến năm 2014. Qua đó làm rõ vai trò lãnh
đạo Đảng bộ tỉnh Yên Bái đối với công tác thanh niên trong sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước.
- Bước đầu nêu lên những đánh giá, nhận xét về thành tựu, hạn chế và
rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về quá trình Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh
đạo công tác thanh niên từ năm 2000 đến năm 2014

12


- Luận văn có thể dùng làm tài liệu cho việc biên soạn lịch sử truyền
thống của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Yên Bái.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái đối với

công tác thanh niên từ năm 2000 đến năm 2005
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Yên Bái tăng cường lãnh đạo công tác thanh
niên từ năm 2006 đến năm 2014
Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.

13


Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
YÊN BÁI VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
1.1

Những cơ sở để xác định chủ trƣơng

1.1.1 Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội tỉnh Yên Bái
- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
Yên Bái trước khi trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh là một địa
bàn nằm trong tỉnh Hưng Hóa – một tỉnh lớn về diện tích, trải rộng khắp vùng
trung du và thượng du Bắc Kỳ (khu vực Tây Bắc). Ngày 11 tháng 4 năm 1900
tỉnh Yên Bái được thành lập có địa giới hành chính gồm có Phủ Trấn Yên,
Châu Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã Yên Bái. Ngày 27 tháng 12 năm 1975 tỉnh
Hoàng Liên Sơn được ra đời trên cơ sở sáp nhập các tỉnh Lào Cai, Yên Bái và
các huyện Mù Căng Chải, Văn Chấn, Trạm Tấu, Than Uyên của tỉnh Nghĩa
Lộ (riêng 2 huyện Bắc Yên và Phù Yên nhập vào tỉnh Sơn La). Khi hợp nhất,
tỉnh Hoàng Liên Sơn có 4 thị xã: thị xã Yên Bái (tỉnh lị), Cam Đường, Lào
Cai, Nghĩa Lộ và 16 huyện: Bắc Hà, Bảo Thắng, Bảo Yên, Bát Xát, Lục Yên,
Mù Cang Chải, Mường Khương, Sa Pa, Si Ma Cai, Than Uyên, Trạm Tấu,
Trấn Yên, Văn Bàn, Văn Chấn, Văn Yên, Yên Bình. Ngày 12 tháng 8 năm
1991, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Hoàng Liên
Sơn để tái lập tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái. Yên Bái có phạm vi giới hạn ở

toạ độ địa lý từ 21024’ - 22016’ vĩ độ Bắc; 103056’ - 105003’ kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp 2
tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Tổng diện tích tự
nhiên của tỉnh Yên Bái là 688.627,64 ha, bằng 2% diện tích tự nhiên của cả
nước và bằng 10,4% diện tích vùng Đông Bắc; xếp thứ 8 so với 11 tỉnh thuộc
vùng núi phía Bắc về quy mô đất đai. Hiện nay Yên Bái có 9 đơn vị hành
chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 180 xã, phường, thị trấn
(157 xã và 23 phường, thị trấn); trong đó có 70 xã vùng cao và 62 xã đặc biệt

14


khó khăn được đầu tư theo các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước, có 2 huyện vùng cao Trạm Tấu, Mù Cang Chải (đồng bào Mông
chiếm trên 80%) nằm trong 61 huyện nghèo, đặc biệt khó khăn của cả nước…
Yên Bái có lợi thế để phát triển ngành nông – lâm sản gắn với vùng
nguyên liệu: trồng rừng và chế biến giấy, bột giấy, ván nhân tạo; trồng và chế
biến quế, chè, cà phê; trồng và chế biến sắn, hoa quả; nuôi trồng và chế biến
thuỷ sản. Với nguồn khoáng sản phong phú, tỉnh có điều kiện thuận lợi trong
việc khai thác và chế biến khoáng sản như: đá quý, cao lanh, fenspat, bột
cácbonnát canxi, sắt…và sản xuất vật liệu xây dựng: xi măng, gạch, sứ kỹ
thuật, sứ dân dụng, đá xẻ ốp lát, đá mỹ thuật và các loại vật liệu xây dựng
khác.
Yên Bái là một tỉnh miền núi, phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp:
hang Thẩm Lé (Văn Chấn), động Xuân Long, động Thuỷ Tiên (Yên Bình), hồ
Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng, cánh đồng Mường Lò; di tích mộ
Nguyễn Thái Học, Căng Đồn, Nghĩa Lộ …Tỉnh Yên Bái có nhiều dân tộc
thiểu số và mỗi dân tộc mang đậm một bản sắc văn hoá riêng, là điều kiện để
kết hợp phát triển du lịch sinh thái.
Với vị trí địa lý là cửa ngõ miền Tây Bắc, lại nằm trên trung điểm của

một trong những tuyến hành lang kinh tế chủ lực Trung Quốc – Việt Nam:
Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, có hệ thống giao thông tương đối
đa dạng đã tạo cho Yên Bái có điều kiện và cơ hội thuận lợi để tăng cường
hội nhập và giao lưu kinh tế thương mại, phát triển văn hóa xã hội…không
chỉ với các tỉnh trong vùng, các trung tâm kinh tế lớn trong cả nước mà còn cả
trong giao lưu kinh tế quốc tế, đặc biệt là với các tỉnh Tây Nam Trung Quốc.
Yên Bái có vị trí quan trọng trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc
phòng đã được khẳng định trong lịch sử đấu tranh giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc. Ngày nay, Yên Bái đã và đang được xây dựng thành khu vực mạnh về

15


kinh tế và trở thành khu vực phòng thủ vững chắc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
- Dân cư và các thành phần dân tộc
Theo kết quả tổng hợp sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009,
tổng dân số toàn tỉnh là 752.868 người. Mật độ dân số bình quân năm 2008 là
109 người/km2, tập trung ở một số khu đô thị như thành phố Yên Bái, thị xã
Nghĩa Lộ và các thị trấn huyện lỵ.
Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có tới 30 dân tộc sinh
sống, trong đó có bảy dân tộc có dân số trên 10.000 người, hai dân tộc có từ
2.000 - 5.000 người, ba dân tộc có từ 500 -2.000 người. Trong đó, người Kinh
chiếm 49,6%, người Tày chiếm 18,58%, người Dao chiếm 10,31%, người
H’mông chiếm 8,9% người Thái chiếm 6,7%, người Cao Lan chiếm 1%, còn
lại là các dân tộc khác.
Vùng thung lũng sông Hồng chiếm 41% dân số toàn tỉnh, trong đó:
người Kinh chiếm 43%, người Tày chiếm 33%, người Dao chiếm 10%, người
H’mông chiếm 1,3% so với dân số toàn vùng.Vùng thung lũng sông Chảy
chiếm 28% dân số toàn tỉnh. Trong đó, người Kinh chiếm 43%, người Tày

chiếm 11%, người Dao chiếm 13%, người Nùng chiếm 7%... so với dân số
toàn vùng. Vùng ba huyện phía Tây (Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn)
chiếm 31% dân số toàn tỉnh. Trong đó, người Kinh là 33%; người Thái
19,2%, Tày 11,8%, Hmông 24,1%; người Mường 5,2% và người Dao 5,1%
so với dân số toàn vùng. Cộng đồng và các dân tộc trong tỉnh với những
truyền thống và bản sắc riêng đã hình thành nên một nền văn hóa rất đa dạng
và phong phú, có nhiều nét độc đáo, sâu sắc nhân văn và những truyền thống
tập quán trong lao động sản xuất có nhiều bản sắc dân tộc.

16


- Truyền thống văn hóa
Sự định cư của đồng bào Kinh trên vùng đất Trung du miền núi không xa
cố đô Phong Châu đã mang theo những nét văn hóa đặc sắc của người Việt
giao hòa với nét văn hóa riêng của dân tộc thiểu số tạo nên bản sắc văn hóa
khác lạ rất đáng quý của dân tộc Kinh Yên Bái, góp phần tôn phong giá trị
văn hóa chung của nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái. Người Kinh có mặt ở
Yên Bái rất sớm và họ đã cùng với đồng bào các dân tộc thiểu số hòa nhập để
cùng mở mang khai phá vùng đất. Gia phả họ Phạm, người Tày ở Trấn Yên
và Văn Chấn ghi rõ “cụ Tổ” Phạm Bá Lực quê gốc ở Hải Dương lên Yên Bái
tính đến năm 1997 là chín đời. Đình làng Dọc (xã Việt Hồng) dựng năm 1937
là ngôi đình duy nhất còn lại đến ngày nay thờ ông tổ họ Phạm nói trên.
Phong tục tập quán và văn hóa tín ngưỡng của người Kinh Yên Bái không
còn giữ được đầy đủ như quê gốc đồng bằng. Một phần do quá trình thuyên
chuyển cần có sự đơn giản hóa để phù hợp với môi trường mới, phần khác do
điều kiện sinh hoạt ở miền núi không cho phép. Chẳng hạn ngày tết nguyên
đán nếu đồng bằng, thành phố thì tổ chức thăm viếng, vui chơi, đi hội, đi lễ;
tết thanh minh thì tảo mộ; tết trung thu thì rước đèn, ngày rằm, ngày mồng
một thì thắp hương… người Kinh ở thôn quê Yên Bái hạn chế hơn; hoặc lễ

hỏi - cưới nơi thành phố thường thể hiện sự sang trọng lịch lãm, ở nông thôn
miền xuôi thể hiện chất làng quê vừa lễ tiết vừa thâm cổ. Còn lễ hỏi cưới của
người Kinh miền núi thì dân dã, gọn gàng. Cố nhiên vẫn giữ cái lễ chung của
các bước: ngỏ lời, ăn hỏi, cưới xin và đón dâu.
Tín ngưỡng truyền thống của đồng bào Kinh là thờ cúng tổ tiên. Truyền
thống tín ngưỡng này gần như được đại gia đình các dân tộc Việt Nam tôn
trọng, hướng theo. Người Kinh miền xuôi tôn thờ bốn vị linh thiêng đất nước:
Mẫu Thượng Ngàn, Thần núi Tản Viên, Thánh Gióng, Đức thánh Trần Hưng
Đạo, thì ở Yên Bái người Kinh một số nơi đặt bài vị thờ bốn vị này (đến

17


Đông Cuông, đến Thác Bà, đến Bách Lẫm…). Rõ ràng nơi thờ tự các nghi lễ
tâm linh của người Kinh ở miền núi gần như không thay đổi so với các vùng
quê gốc. Một bộ phận người Kinh miền núi trước đây theo đạo Thiên chúa,
đạo Phật, nay chính gia đình, bản thân và con cháu họ có xu hướng thoát đạo,
bà con muốn coi đây là sinh hoạt văn hóa tâm linh của con người cầu cho sự
sống nhân đức, thuỷ chung, khỏe mạnh, thành đạt hơn.
Sinh hoạt văn hóa và nghề truyền thống của người Kinh ở Yên Bái mang
tính quần chúng, phổ thông nhiều hơn độ chuyên sâu. Có lẽ do nguồn gốc lịch
sử, Yên Bái là nơi hội tụ người Kinh từ nhiều vùng quê khác nhau qua nhiều
thế kỷ nên các loại hình văn hóa như: sàn diễn, âm nhạc, hội họa, làng nghề
truyền thống… chưa trở thành món ăn tinh thần đặc sắc.Qua các cuộc khởi
nghĩa Cần Vương, khởi nghĩa Yên Bái, các cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ và công cuộc xây dựng CNXH hiện nay; đồng bào Kinh Yên Bái
tiếp tục có những tác phẩm văn học viết tác phẩm văn học truyền miệng được
nhân dân thừa nhận, lưu truyền. Đó là niềm tự hào, là giá trị văn hóa đích thực
chẳng những của dân tộc Kinh mà còn của cả gia đình các dân tộc Yên Bái.
Sống trên mảnh đất Yên Bái, mỗi dân tộc đều sáng tạo nên những bản

sắc văn hóa riêng của mình trong nếp ở, nếp ăn, sự giao tiếp, văn học nghệ
thuật và tín ngưỡng. Đó không chỉ là niềm tự hào mà còn là giá trị đích thực
của đời sống tinh thần, làm cho vườn hoa của Yên Bái đậm đà, nhiều màu
sắc.
- Truyền thống yêu nước và cách mạng
Kể từ khi thành lập (11/4/1900) đến nay, tỉnh Yên Bái đã trải qua lịch
sử hơn 100 năm đấu tranh, xây dựng và trưởng thành. Quá trình một thế kỷ, in
đậm nhất vẫn là thời kỳ đấu tranh đầy gian khổ để giành lại nền độc lập tự do,
bảo vệ toàn vẹn thành quả cách mạng, kháng chiến thắng lợi, đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân

18


của Mỹ, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Dù trải qua biết bao
gian nan vất vả, nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái vẫn không ngừng phát huy
cao độ tinh thần yêu nước và yêu quê hương, đoàn kết chặt chẽ, lập nên
những thành tựu lớn lao góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc và sự
nghiệp xây dựng quê hương giàu đẹp.
Suốt ba chục năm đầu thế kỷ XX, hết lớp này đến lớp khác, nhân dân
các dân tộc Yên Bái đã vùng lên chống thực dân Pháp, dù họ là người Dao,
người Mông, người Tày hay người Kinh. Những chiến công vang dội trên các
nẻo núi rừng Yên Bái đã làm rạng rỡ những trang sử của địa phương. Đặc biệt
tinh thần chiến đấu anh dũng vô song của cuộc khởi nghĩa Yên Bái mùa xuân
năm 1930 đã thực sự làm cho quân thù khiếp sợ.
Sự lớn mạnh của Đảng bộ Yên Bái trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược đã trở thành nhân tố quan trọng và quyết định đối với
những thắng lợi ở vùng địch hậu, trong chiến thắng của chiến dịch Nghĩa Lộ
và chiến thắng Sông Thao. Một lần nữa Đảng bộ Yên Bái tỏ ra vững vàng
trong việc vận dụng sáng tạo đường lối của Trung ương của Khu ủy liên khu

Việt Bắc và sau này là Khu ủy Tây Bắc. Trình độ giác ngộ cách mạng, tinh
thần yêu nước đã trở thành những nhân tố và những động lực quan trọng để
huy động mọi sức mạnh của toàn dân đóng góp cho những thắng lợi của chiến
dịch Lê Hồng Phong, chiến dịch Lý Thường Kiệt và chiến dịch Tây Bắc giải
phóng quê hương
Trong chiến dịch Đông – Xuân (1953-1954), Yên Bái đã chứng tỏ được
vị trí của một địa bàn cửa ngõ Tây Bắc, đầu mối của các trục giao thông quan
trọng. Từ đây, súng đạn và lương thực được chuyển tới Điện Biên Phủ, góp
phần làm nên chiến thắng hết sức to lớn kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược.

19


Truyền thống yêu nước lại được tiếp tục phát huy trong công cuộc xây
dựng cơ sở vật chất cho CNXH, đấu tranh thống nhất đất nước, đánh bại hai
cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ. Hàng vạn đồng bào các dân
tộc tỉnh Yên Bái đã tham gia khai hoang, phục hóa khắc phục nạn đói những
năm đầu hòa bình mới lập lại, tham gia vào chiến dịch tiêu phỉ và vây bắt biệt
kích, bắn rơi máy bay trở biệt kích. Lúc cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của không quân Mỹ bắt đầu, nhân dân Yên Bái đã tích cực tham gia dân
quân tự vệ, bắn rơi và bắn cháy nhiều máy bay địch. Phong trào “ba sẵn
sàng”, “ba đảm đang” đã trở thành lẽ sống để chi viện cho sự nghiệp giải
phóng miền Nam, bảo vệ Tổ quốc. Hàng vạn con em Yên Bái, Nghĩa Lộ đã
có mặt khắp các chiến trường. Những người ở lại hậu phương ngoài nghĩa vụ
“thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” còn tự nguyện dời
bỏ bản làng mồ mả cha ông, dời nơi ở nhường chỗ cho xây dựng công trình
thủy điện Thác Bà - đứa con đầu lòng của ngành thủy điện Việt Nam.
Đất nước thống nhất, nhân dân các dân tộc Yên Bái lại đồng cam cộng
khổ khắc phục hậu quả chiến tranh, bắt tay khôi phục lại nhà cửa bị tàn phá

trong cuộc chiến tranh hủy diệt của kẻ thù. Hàng vạn con em tình nguyện lên
biên giới xây dựng và chiến đấu vì sự vẹn toàn lãnh thổ của Tổ quốc.
1.1.2 Khái quát phong trào thanh niên Yên Bái trước năm 2000.
Từ năm 1930 đến năm 1945: Thanh niên các dân tộc Tỉnh Yên Bái đã
kiên cường tham gia đấu tranh tiến tới giành chính quyền về tay nhân dân
dưới ngọn cờ của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Từ năm 1946 đến năm 1954: Tuổi trẻ Yên Bái lập nhiều thành tích
trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Từ năm 1954 đến năm1975: Thế hệ trẻ Yên Bái xây dựng, bảo vệ chủ
nghĩa xã hội và chống mỹ cứu nước.

20


Từ năm 1975 đến năm 2000: Thế hệ trẻ Yên Bái tích cực xây dựng quê
hương và bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2000 dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng bộ tỉnh Yên Bái, hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên toàn
tỉnh có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đã phát huy vai trò
xung kích đi đầu trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
tích cực tham gia các hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đứng trước thực trạng khó khăn của nền kinh tế đất nước, trước những
diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng được triệu tập tại thủ đô Hà Nội (12/1986). Với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã đánh giá những thành tựu
cũng như chỉ ra hạn chế còn tồn tại của nền kinh tế đất nước trrong thời gian
qua, đồng thời đề ra đường lối đổi mới đồng bộ toàn diện đất nước từ kinh tế,
tư tưởng - chính trị, văn hóa – xã hội. Thành công của Đại hội mở ra những
bước ngoặt quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đường lối đổi
mới đúng đắn, sáng tạo và kịp thời đó đã được toàn Đảng, toàn dân ta hưởng

ứng, trong đó, tuổi trẻ là lực lượng năng động và sáng, đóng vai trò to lớn
trong sự nghiệp Đổi mới.
Ngày 10 đến 13/10/1986 đã diễn ra Đại hội Đảng bộ Tỉnh Yên Bái lần
thứ IV. Đại hội đã biểu dương những thành tích của Đảng bộ, quân và dân các
dân tộc trong toàn tỉnh đã không ngừng nỗ lực thực hiện nhiệm vụ chính trị
do Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ III đã đề ra. Đại hội xác định trọng
tâm phát triển kinh tế toàn tỉnh là lấy nông – lâm nghiệp làm mặt trận hàng
đầu, khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, phấn đấu tự túc lương
thực, tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cùng với Đại hội của các tỉnh thành khác
trong toàn quốc, Đại hội Đảng bộ Tỉnh Yên Bái đã góp phần tạo đà tiến tới

21


Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI. Sau thành công của Đại hội VI,
đã mở ra một bước ngoặt vô cùng trọng đại cho cách mạng Việt Nam. Đường
lối đổi mới kịp thời, sáng tạo đã đi vào lòng dân, được nhân dân nô nức
hưởng ứng nhiệt thành. Ở mọi thời đại tuổi trẻ bao giờ cũng là lực lượng quan
trọng có ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành và phát triển xã hội: “ Nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên” [60, tr.84]. Ngày
13/3/1991 Bộ Chính trị (khóa VI) đã ra nghị quyết số 25/NQ-TW về “Đổi mới
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên”. Nghị
quyết đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của thanh niên trong công cuộc
đổi mới , ý nghĩa chiến lược của công tác thanh niên đối với tương lai dân tộc
và vận mệnh Tổ quốc; khẳng định những quan điểm cơ bản về công tác thanh
niên và nêu lên phương hướng, nội dung và giải pháp chủ yếu của công tác
thanh niên trong các nhiệm vụ: Giải quyết việc làm; đào tạo bồi dưỡng cán
bộ; tổ chức phong trào hành động cách mạng trong thanh niên; mở rộng tập
hợp đoàn kết thanh niên.

Thực hiện Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương IV
(khoá VII) và chương trình hành động của Tỉnh uỷ Yên Bái về đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong tình hình
mới. Ngay sau Đại hội Đoàn toàn tỉnh lần thứ IX BCH tỉnh Đoàn đã có Nghị
quyết chuyên đề bàn về công tác củng cố xây dựng Đoàn, xây dựng Hội và
công tác tham gia xây dựng Đảng. Đặc biệt đã tập trung vào việc xây dựng,
đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao nhiệt tình và kỹ năng công tác
thanh niên cho đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp, nhất là cán bộ chủ chốt cấp
huyện và cơ sở.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh Yên Bái dù đã phải trải qua vô vàn
khó khăn trở ngại do những nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại;
song tuổi trẻ Yên Bái vẫn luôn giương cao ý chí cách mạng, từng bước khắc

22


phục khó khăn, vươn lên lập nhiều thành tích trong lao động sản xuất; góp
phần quan trọng cùng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện
và hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ chính trị của địa phương, cùng tuổi
trẻ cả nước đưa sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn
dân tộc tới đích thắng lợi. Thanh niên đã khẳng định được vai trò vị thế chính
trị của mình .Vai trò và ảnh hưởng của thanh niên trong xã hội được giữ vững
và phát huy không ngừng.
1.1.3 Quan điểm của Đảng về công tác thanh niên từ năm 2000 đến
năm 2005
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) tại Hà Nội đã
xác định chủ trương của Đảng đối với công tác thanh niên là: “Chăm lo giáo
dục bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối
sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng
và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc” [30, tr.126]. Quan điểm của Đảng về công tác thanh niên trong
Nghị quyết Đại hội IX là những định hướng lớn để thanh niên xác định các
trọng tâm công tác, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa
các loại hình nhằm giúp Đảng tập hợp, đoàn kết, giáo dục và phát huy tiềm
năng to lớn của thanh niên. Đại hội IX cuả Đảng khẳng định chủ trương đổi
mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, đảm bảo
tính liên tục, kế thừa và phát triển. Chủ trương này của Đảng đã tạo cơ hội
cho những người trẻ tuổi có đủ năng lực, phẩm chất tham gia vào các cơ quan
lãnh đạo của Đảng, chính quyền và đoàn thể, phát huy tính sáng tạo, năng
động của tuổi trẻ trong quản lý kinh tế- xã hội. Đảng coi việc chăm lo công tác
thanh niên là một trong những nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng.

23


Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2/2002)
đã ra kết luận về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương ba và Nghị
quyết Trung ương khóa VIII “Về công tác tổ chức và công tác cán bộ”, xác
định chủ trương đối với các đoàn thể là: tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng, củng cố tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức hoạt động của các
đoàn thể nhất là cơ sở. Hội Nghị Trung ương sáu( khóa IX) cụ thể hóa một
bước quan điểm trẻ hóa đội ngũ cán bộ của Đảng. Điểm mới trong chủ trương
của Đảng là: có kế hoạch cử cán bộ và thanh niên ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài
với số lượng và cơ cấu ngành nghề phù hợp, đồng thời khuyến khích phong
trào tự học, tự nâng cao trình độ cán bộ bằng nhiều hình thức.
Các chủ trương trong văn kiện đại hội IX thể hiện sự quan tâm toàn
diện của Đảng với thanh niên và Đoàn thanh niên như: giáo dục lý tưởng, đạo
đức, lối sống, nghề nghiệp, việc làm…đặc biệt là xây dựng tổ chức Đoàn
thanh niên cộng sản vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức quy

tụ, đoàn kết thanh niên.
Thực hiện chủ trương của Đảng, để tạo điều kiện cho công tác Đoàn
mang lại hiệu quả hơn nữa, ngày 29/4/2003, Thủ tướng chính phủ phê duyệt
đến “chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam năm 2010”. Đây là văn bản
pháp quy đầu tiên, bước đầu thể chế hóa chủ trương về công tác thanh niên
của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Chiến lược đã phân tích những cơ hội, thách
thức, thuận lợi và khó khăn của công tác thanh niên. Qua đó, xác định mục
tiêu tổng quát của chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010.
Việc chính phủ phê duyệt chiến lược thanh niên Việt Nam đến năm 2010 có ý
nghĩa quan trọng, bước đầu giải quyết những vấn đề bức thiết nhất trong công
tác thanh niên, mở ra một hướng mới trong việc xây dựng Đoàn thanh niên,
củng cố các chức năng của tổ chức đoàn, hội, tạo cơ chế để thanh niên thực sự
phát huy được vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước.

24


×