Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

BAI TAP 3 bai tap ca nhan môn Luật và Chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.8 KB, 2 trang )

Môn học: LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH CÔNG
Lớp Thạc sĩ Điều hành cao cấp Quản lý Công – EMPM3 – Kiên Giang
BÀI TẬP 3
Ngày nộp bài: 15/3/2019

Họ tên: TRẦN THỊ MỸ LOAN
Lớp: EMPM-KG

* Điều gì tạo nên sự trì trệ, kinh tế kém phát triển trong
thời kỳ bao cấp?
Trước thời kỳ đổi mới năm 1986, khi mà bối cảnh trên thế
giới có nhiều biến động bất lợi cho hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa. Lúc này tình hình kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng về hầu hết các mặt của đời sống xã hội. Hầu
như những mặt hàng thiết yếu đều đến tay người tiêu dùng qua
kênh phân phối bằng hiện vật, phiếu và định lượng bằng chỉ tiêu,
tem.
Thời kỳ này, Sản xuất và đầu tư tuy có tăng nhưng rất chậm
và hiệu quả thấp; tài nguyên của đất nước chưa được khai thác
hiệu quả và còn bị lãng phí trong quá trình sử dụng. Sự chưa
thông suốt trong lưu thông, sự phân phối còn rối ren, giá cả các
mặt hàng lại tăng nhanh ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sản
xuất và xã hội. Sự mất cân đối trong nhiều mặt như giữa việc
cung và cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, nguyên
vật liệu,… Quan hệ sản xuất trong xã hội chủ nghĩa chưa được
củng cố, vai trò của của nền kinh tế quốc doanh ngày càng suy
yếu, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa được chú
trọng. Đó là những khó khăn, rào cản, và điều gì đã tạo nên sự trì
trệ, kinh tế kém phát triển trong thời kỳ bao cấp lúc bấy giờ.
Việc áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Tuy
mô hình này góp phần thắng lợi chống đế quốc Mỹ xâm lược và


xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhưng vì duy trì lâu mô hình này nên
đã làm cho nền kinh tế thị trường bị sơ cứng và kém năng động.
Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu
trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của họ.
Quan hệ Hàng hóa - Tiền tệ bị coi nhẹ, nó chỉ là hình thức và
quan hệ hiện vật là chủ yếu, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Nhà
nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “Cấp phát - Giao nộp”, nảy
sinh cơ chế “xin - cho”.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo, nhiều cấp trung gian
vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực,
không sâu sát cơ sở, phong cách cửa quyền, quan liêu gây hậu
quả nghiêm trọng cho xã hội.


2

Các cấp các ngành thường hay ỷ lại và trong chờ vào Ngân
sách của Nhà nước, gây ra sự lãng phí cũng như hạn chế sự năng
động của các cấp cơ sở.
* So sánh: Mô hình kinh tế “social market" của các
quốc gia Bắc Âu (Đan Mạch, Thuỵ Điển, Na Uy) hiện nay
với

hình
kinh
tế
kế
hoạch
hoá

tập
trung quan liêu bao cấp của Việt Nam giai đoạn 1959 1986.
Với mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp của Việt Nam giai đoạn 1959 - 1986. Nhà nước quản lý nền kinh tế
chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp
đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư,
tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do cấp có
thẩm quyền quyết định. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu. Các cơ quan
hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các
quyết định của mình. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu.
Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều
hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan
trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý. Bộ máy quản lý cồng kềnh,
nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng
lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn
người lao động.
Và mô hình kinh tế “social market" của các quốc gia Bắc Âu
(Đan Mạch, Thuỵ Điển, Na Uy) hiện nay sử dụng nhiều ngân sách cho các
chương trình, chính sách an sinh xã hội, ví dụ như bảo hiểm y tế, giáo dục miễn
phí, trợ cấp thất nghiệp... Hiệu suất của tất cả các trường học và bệnh viện được đo
lường. Chính phủ buộc phải hoạt động dưới sự giám sát của mọi người dân: Thụy
Điển cho phép tất cả mọi người truy cập các hồ sơ của chính phủ. Các chính trị gia
sẽ bị phỉ báng nếu lạm dụng xe công. Skype và Spotify cũng được sử dụng trong
mô hình chính phủ điện tử tại đây: người dân có thể đóng thuế với một tin nhắn
SMS. Bắc Âu đã chứng minh có thể kết hợp tư bản cạnh tranh với một nhà nước
lớn: họ sử dụng 30% lực lượng lao động trong khu vực công, so với mức trung

bình của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) là 15%. Chính phủ không
can thiệp để bảo vệ các công ty mang tính biểu tượng, chẳng hạn Thụy Điển để
hãng xe Saab phá sản hay hãng xe Volvo nay đã thuộc sở hữu của Geeley của
Trung Quốc. Nhưng Na Uy lại đầu tư 600 tỷ USD để làm dịu bớt tác động của chủ
nghĩa tư bản khắc nghiệt. Đan Mạch có một hệ thống an sinh cho phép các ông chủ
lao động dễ dàng sa thải nhân viên, nhưng hệ thống này cũng giúp người thất
nghiệp tìm việc dễ dàng hơn. Ví dụ, khi các nhà máy sản xuất giấy đóng cửa thì
công nhân sẽ được hỗ trợ chuyển sang làm việc bằng những công nghệ mới hơn.../.



×