VÀI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG NHÂN SINH
QUAN PHẬT GIÁO VÀ SỰ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ TỚI ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Theo Phật giáo, nguyên nhân cuối cùng của
sự khổ đau đối với con người là do vô minh
Phật giáo là một trường phái triết học
(ngu dốt). Chính do ngu dốt, con người
tôn giáo xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI
không hiểu đúng hiện thực – cái mà chúng
TCN ở miền Bắc Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt
ta đang sống - theo Phật giáo, thực chất chỉ
Đa, con vua Tịnh Phan và Hoàng hậu Ma
là ảo và mọi thứ quanh ta cũng là ảo, chúng
Da sáng lập. Đạo Phật ra đời trong làn sóng
luôn luôn biến đổi và cuối cùng lại trở về
phản ánh sự ngự trị của đạo Bà la môn và
với hư không. Song, con người lại muốn có
chế độ phân biệt đẳng cấp vô cùng khắt khe
nó, muốn bám lấy mọi thứ, muốn nó ở bên
trong xã hội, nhằm lý giải căn nguyên dẫn
mình mãi mãi và khi không đạt được điều
tới nỗi khổ của con người và hướng tới việc
họ muốn thì sẽ cảm thấy bất hạnh và khổ
tìm cách giải phóng con người khỏi nỗi khổ
đau.
trầm luân.
Từ sự lý giải về căn nguyên dẫn tới nỗi
Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ
khổ trong con người, Đức Phật Thích Ca
quan niệm cho rằng: cuộc đời con người là
Mâu Ni đã xây dựng lên thuyết “Tứ Diệu
bể khổ, sự khổ đau đó bắt nguồn từ nghiệp
Đế” và “Thập Nhị Nhân Duyên” với mục
chướng của kiếp trước, càng trải qua nhiều
đích cứu vớt con người và chúng sinh thoát
kiếp thì nỗi khổ càng chồng chất và được
khỏi nỗi khổ trầm luân, bất tận. Thực chất
gọi là vòng luân hồi. Thừa nhận vòng “luân
“Tứ Diệu Đế” là bốn chân lý vĩnh cửu,
hồi” và “nghiệp”, Phật giáo đặc biệt chú
tuyệt đối, bất di bất dịch nhằm giải thoát
trọng tới triết lý nhân sinh – triết lý luôn
con người khỏi sự khổ đau. Bốn chân lý đó
hướng tới con người và đặt mục tiêu hàng
có mối quan hệ mật thiết với nhau không
đầu là tìm kiếm sự giải thoát con người
thể tách rời, là tiền đề và nguyên nhân của
cùng chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi,
nhau. Trong lý thuyết đó – Tứ diệu đế
nghiệp báo, để đạt tới trạng thái niết bàn.
khẳng định: Nỗi khổ của con người là tất
yếu, cuộc đời con người là bể khổ, từ khi
con người cất tiếng khóc chào đời, đến khi
họ trở về với thế giới bên kia. Trong những
đại đa số người dân Việt Nam, làm nên
nỗi khổ đó, có 8 nỗi khổ lớn nhất đã được
những mặt tích cực và tiêu cực trong đời
chân lý đầu tiên ( Khổ đế ) của “Tứ Diệu Đế
sống tinh thần của con người.
“ chỉ ra. Tiếp theo Khổ đế, tư tưởng nhân
Mặt tích cực: Tư tưởng nhân sinh
sinh quan Phật giáo còn đề cập rõ nguyên
quan Phật giáo nêu cao tinh thần từ bi, bác
nhân sinh ra nỗi khổ trong con người ở chân
ái, cứu khổ, cứu nạn, đề cao giá trị đạo đức,
lý thứ 2 đó là Nhân đế mà nguyên nhân chủ
văn hóa trong mỗi con người cũng như cộng
đạo chính là ( tham, sân, si ).
đồng xã hội, ngày càng thấm sâu vào đời
Sau khi chỉ rõ nguyên nhân dẫn tới
sống tâm linh, hướng con người vào con
nỗi khổ trong con người, thuyết “Tứ Diệu
đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức. Việc
Đế” tiến xa hơn nữa ở chỗ: không chỉ khẳng
đề cập nhiều tới thuyết nhân duyên, quan hệ
định rằng sự khổ đau của con người là hoàn
nhân quả, nhìn sự vật từ kết quả để đi tìm
toàn có thể loại bỏ ( tiêu diệt ) được thông
nguyên nhân, tư tưởng công bằng không chỉ
qua chân lý thứ 3 - Diệt đế - mà còn chỉ ra
với con người mà còn với cả chúng sinh, tư
con đường tối ưu nhất để đưa con người
tưởng không oán ghét, thù hận đã lay động
thoát khỏi khổ đau trở về với Niết bàn – nơi
lòng nhân ái, sự tự giác trong mỗi con
hạnh phúc nhất đối với con người, mà chân
người để chính họ cùng nhau đứng lên giải
lý cuối cùng của “ Tứ Diệu Đế “ đã chỉ rõ.
phóng nỗi khổ cho mình và đồng loại.
Sau khi du nhập vào nước ta, trải qua
Chính những tư tưởng nhân văn cao đẹp đó
hơn 2000 năm tồn tại và phát triển, Phật
đã góp phần làm phong phú thêm giá trị
giáo ở Việt Nam có lúc thịnh, lúc suy, song
truyền thống tốt đẹp của Dân tộc Việt Nam
cuối cùng nó đã phát triển thành tôn giáo
như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người
lớn nhất hiện nay. Phật giáo góp phần vào
trong một nước phải thương nhau cùng”, “
việc tố cáo sự bất công trong xã hội, đòi tự
Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác
do và bình đẳng xã hội, đó chính là sự thể
giống nhưng chung một giàn”, “ Con ơi nhớ
hiện tinh thần phản kháng của quần chúng
lấy câu này, gà cùng một mẹ chớ hoài đá
nhân dân đối với xã hội đương thời. Trong
nhau”… v.v. Tinh thần đoàn kết, tình yêu
suốt quá trình tồn tại và phát triển, Phật giáo
thương và sự sẻ chia cao đẹp đó đã góp
ở nước ta đã được dân tộc hóa, dân gian hóa
phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh
và đã ăn sâu vào suy nghĩ, hành động của
giành và bảo vệ nền độc lập chủ quyền của
dân tộc trước đây cũng như qúa trình hội
nhập và phát triển đất nước hiện nay.
Bên cạnh mặt ảnh hưởng tích cực rất
to lớn tới đời sống tinh thần của xã hội, tư
Ngày nay số lượng phật tử không
tưởng nhân sinh quan Phật giáo còn có
ngừng tăng lên cả về số lượng và chất
những tác động tiêu cực đến con người và
lượng. Sự thành kính khi thực hiện các nghi
đời sống tinh thần của xã hội cụ thể như:
lễ tại những nơi thờ tự, sự siêng năng thiền
Một là, khi chỉ ra nguyên nhân dẫn
định cũng như giữ giới và làm việc thiện
tới khổ đau trong con người Phật giáo chủ
không chỉ giúp cho việc củng cố niềm tin
yếu hướng vào cái tâm bên trong, xao
vào giáo lý, hoàn thiện các quy định tư duy,
nhãng yếu tố bên ngoài, ít quan tâm tới vấn
hành động, mà còn tạo cơ sở hình thành
đề kinh tế - chính trị, khoa học kỹ thuật, lao
nhân cách riêng biệt cho con người.
động sản xuất, bất bình đẳng...
Tư tưởng Phật giáo còn ảnh hưởng
Hai là, Phật giáo thường nhấn mạnh
tới môi trường giáo dục, tới thế hệ trẻ hiện
tơi nỗi khổ tinh thần, nỗi khổ nội tâm còn ít
nay. Việc đưa các chuẩn mực đạo đức vào
chú ý tới nỗi khổ vật chất, nỗi khổ thể xác –
giảng dạy trong các nhà trường, sự truyền
nỗi khổ do xã hội và điều kiện hoàn cảnh
cảm tới các em tình yêu thương, lòng kính
đưa lại.
trọng ông bà, bố mẹ, anh em; tinh thần
Ba là, quan điểm “vô ngã” và “vô
tương thân, tương ái “ Lá lành đùm lá rách”,
thường” trong Phật giáo nhìn con người quá
chủ trương “Đền ơn đáp nghĩa” của Đảng
chú trọng tới mặt động mà bỏ qua mặt tĩnh,
và Nhà nước, “Quỹ người nghèo vượt khó”;
dẫn tới việc thừa nhận con người nói riêng
các phong trào hoạt động làm việc thiện,
và sự vật nói chung chỉ là ảo ảnh, hư vô.
việc tử tế, cặp lá yêu thương . . . đã lan tỏa
và ảnh hưởng sâu rộng tới cộng đồng, tạo
động lực để mọi người quan tâm chia sẻ,
giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, trở ngại
góp phần vào công cuộc bảo vệ và phát
triển đất nước trong thời kỳ hội nhập và
phát triển của khoa học công nghệ 4.0.
Bốn là, khi chỉ ra con đường nhằm
giải thoát con người khỏi khổ đau bất tận
Phật giáo chỉ chú trọng tới giải pháp tích
đức, tu thân, cam chịu, không đề cập tới đấu
tranh về mặt xã hội để giải quyết mâu thuẫn
giúp con người đạt được hạnh phúc, tự do.
Năm là, thế giới quan Phật giáo nói
chung và nhân sinh quan Phật giáo nói
riêng, suy cho cùng là duy tâm chủ quan vì
giải phóng con người khỏi khổ đau, bất
vậy tư tưởng đó khó có thể giúp cho việc
hạnh.