Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

đề tài sử dụng PP thảo luận nhóm trong giảng dạy môn giáo dục Quốc phòng An Ninh nhằmphát triển năng lực của học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.03 KB, 21 trang )

Chương 1:
Giới thiệu đề tài.
1.1. Lý do chọn đề tài:
GDQP-AN là một môn học bao gồm nhiều kiến thức về khoa học xã
hội, nhân văn, khoa học tự nhiên lẫn khoa học kĩ thuật quân sự. Là một môn
học không chỉ trang bị những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng,
tư duy về QPAN và kiến thức quân sự cần thiết mà còn rèn luyện, bồi dưỡng
nhân cách sống con người CNXH.
Tuy nhiên, đây là một môn học nằm trong nhóm môn học có tỉ lệ lí
thuyết chiếm trên 60% chương trình môn học. Chính vì lí do đó, cùng với
những nhận thức non nớt của học sinh, các em thường dành nhiều thời gian
cho các môn học mà các em cho là quan trọng hơn, có thể thi Đại học, cao
đẳng… ( Vd: Toán, lí, hóa, anh văn….) mà xem nhẹ môn học này, các em
thường không học bài củ trước khi đến lớp hoặc ít khi đọc trước bài mới, dẫn
đến kết quả học tập chưa cao và chưa nhận thức hết tầm quan trọng của môn
học. Trãi qua gần 16 năm công tác và giảng dạy môn học này, bản thân tôi
cũng như các đồng nghiệp đã có nhiều cố gắng luôn tìm cách đổi mới về
phương pháp giảng dạy để cải thiện nhằm nâng cao chất lượng và kết quả học
tập cho học sinh như: ứng dụng Công nghệ thông tin đưa phim ảnh vào giảng
dạy, sử dụng giáo án điện tử, viết bài thu hoạch cá nhân, thảo luận nhóm...
Qua các Phương pháp trên tôi thấy:
“ Thảo luận nhóm” không chỉ mang lại hiệu quả cao trong học tập, giúp
các em có thể ghi nhớ kiến thức ngay trên lớp mà còn giúp các em phát huy
được sức mạnh tập thể, nâng cao khả năng giao tiếp, khả năng làm việc của cá
nhân ….đồng thời giảm bớt thời gian để học bài củ ở nhà. Từ đó, giúp các em
có hứng thú với môn học, mang lại kết quả giáo dục cao hơn.
“Thảo luận nhóm” là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự
tham gia tích cực của học sinh trong học tập. Trong thảo luận nhóm, Học sinh
1



được tham gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm
cùng quan tâm. “Thảo luận nhóm” còn là phương tiện học hỏi có tính cách
dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt
bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân
giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề khó khăn.
Dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của
người học là yêu cầu tất yếu của đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào
tạo.
Trên cơ sở đó, tôi lựa chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong giảng dạy bộ môn giáo dục Quốc phòng An ninh nhằm phát
triển năng lực của học sinh trung học phổ thông”.
1.2. Mục tiêu hướng tới của đề tài:
1.2.1. Mục đích:
“Thảo luận nhóm” là một hình thức học tập mang tính hợp tác nhằm nâng
cao chất lượng của học sinh – học sinh đóng vai trò chủ động, giảm bớt đi
phương pháp học tập thụ động trước đây, đó là: phấn trắng – bảng đen; thầy
đọc – trò chép; thầy giảng – trò nghe….giúp cho người học chiếm lĩnh tri thức
chứ không phải lĩnh hội tri thức. Học sinh có cơ hội giao lưu, trao đổi, thảo
luận với nhau để đạt được kết quả cao trong học tập về nhiều mặt. Theo cách
học này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan
điềm của cá nhân và cùng hợp tác trao đổi kiến thức.
1.2.2. Yêu cầu:
Để phát huy hiệu quả của việc học nhóm, giáo viên đóng vai trò rất
quan trọng. Giáo viên phải cung cấp nền tảng kiến thức cho học sinh, phải
khơi gợi được hứng thú của học sinh bằng cách chọn những chủ đề tương ứng
với trình độ của các em, đưa ra những câu hỏi hoặc những vấn đề để học sinh
tư duy một cách sâu sắc hơn. Bên cạnh đó quá trình cộng tác phải được sắp
xếp để đảm bảo các thành viên trong nhóm đều phải tham gia một cách tích
cực.
1.2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu:

2


Sử dụng phương pháp “thảo luận nhóm” trong giảng dạy bộ môn GDQP AN nhằm phát triển năng lực của học sinh trung học phổ thông theo hướng
đổi mới giáo dục hiện nay.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh trường THPT số 1 Nghĩa Hành.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh các lớp 10A7; 11B4; 12C5.

Chương 2:
Kế hoạch và phương pháp nghiên cứu:
2.1. Thời gian nghiên cứu:
3


Năm học 2015 – 2016
( từ tháng 09 năm 2015 đến tháng 05 năm 2016).
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp giúp học sinh làm quen với phương pháp học nhóm.
- Phương pháp chọn “thủ lĩnh” để điều hành và quản lí hoạt động của
nhóm.
- Phương pháp để các thành viên trong nhóm đều phải tham gia hoạt động
chung của nhóm.
2.3. Địa điểm:
Trường THPT số 1 Nghĩa Hành.

Chương3 :
Lý thuyết liên quan và cơ sở thực tiễn.
3.1. Hệ thống các khái niệm:
4



3.1.1. Khái niệm cơ bản về Quốc phòng, An ninh
- Quốc phòng: Là công việc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các
hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa
học ...của Nhà nước để phòng thủ quốc gia.
- Quốc phòng toàn dân: là nền quốc phòng mang tính chất “của dân, do
dân, vì dân”; phát triển theo hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự
cường và ngày càng hiện đại.
- An ninh quốc gia: là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội
của một quốc gia.
- An ninh nhân dân: Là sự nghiệp của toàn dân, do dân tiến hành; LL
ANND làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước.
3.1.2. Khái niệm về phương pháp thảo luận nhóm:
Phương pháp thảo luận nhóm (PPTLN) là một trong những phương pháp
có sự tham gia tích cực của học viên. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học
hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói
quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành
quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề khó
khăn.
3.1.3. Khái niệm về học sinh THPT:
“ Học sinh trung học phổ thông” là thuật ngữ để chỉ nhóm học sinh đầu
tuổi thanh niên (từ 15, 16 đến 17, 18 tuổi). Theo tâm lý học lứa tuổi, tuổi
thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc từ lúc tuổi
mới lớn.
3.2. Cơ sở lý luận:
5



Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa
là từ chỗ quan tâm đến việc Học sinh học được cái gì, đến chỗ quan tâm Học
sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực
hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy
cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên –
học sinh, học sinh – giáo viên theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng
nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ
năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập
tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành
và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm
kiếm thông tin…), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập,
sáng tạo của tư duy. Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp
chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử
dụng bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh
tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên”.
3.3. Cơ sở thực tiễn:
Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp
dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu
bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để
nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước
hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của
chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu
hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện
tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất
yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử
dụng các phương pháp dạy học mới, có thể tăng cường tính tích cực nhận

6


thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải
quyết vấn đề.

Chương 4:
Thực trạng và nguyên nhân dạy học môn
GDQP - AN hiện nay:
4.1. Thực trạng dạy học môn GDQP tại trường THPT hiện nay:
7


Hiện nay, công tác GDQP - AN đã và đang thực hiện trong chương
trình chính khóa tại các trường THPT có nhiều chuyển biến tiến bộ, ngày
càng đi vào nề nếp, chất lượng từng bước được nâng cao. số lượng học sinh
học môn GDQP - AN ngày càng đầy đủ hơn. Chương trình, nội dung môn
học và giáo trình, giáo khoa, tài liệu cũng như các điều kiện đảm bảo phục vụ
môn học ngày càng tốt hơn. Mặt khác, trong thực tiễn GDQP - AN đang đặt
ra nhiều vấn đề phải giải quyết. Trong đó có mâu thuẫn khá gay gắt giữa
“thời gian” và “khối lượng” công việc vì nội dung chương trình hiện nay còn
dài mà việc bố trí thời gian cho giảng dạy và ôn luyện còn thiếu chưa đáp
ứng được yêu cầu nội dung bài giảng dẫn đến hiệu quả của môn học chưa đạt
được mục tiêu đề ra, còn mang nặng tính hình thức hoặc theo dạng thanh
toán chương trình. GDQP - AN trong các trường THPT trong thời gian qua đã
có những cố gắng nhất định, khẳng định vị trí của môn học này, nhưng nhìn
chung GDQP - AN có lúc còn chưa chặt chẽ, chất lượng chưa đáp ứng được
yêu cầu.
4.2. Thực trạng dạy học môn GDQP–AN tại trường THPT số 1
Nghĩa Hành.

4.2.1. Trường THPT số 1 Nghĩa Hành đóng trên địa bàn trung du, thôn
phú vinh trung, Thị Trấn Chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2.2. Thực trạng học môn GDQP – AN của học sinh tại trường THPT số
1 Nghĩa Hành.
 Thuận lợi và khó khăn:
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên giảng dạy môn GDQP - AN của nhà trường đều đã qua các lớp
đào tạo ngắn hạn 6 tháng. Sự quan tâm của Sở Giáo dục, hàng năm, đều tổ
chức các khóa học bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên.
- Các giáo viên đều đã có những nhận thức tích cực, luôn muốn tìm tòi học
hỏi để làm sao giờ dạy của mình đạt hiệu quả cao. Chính vì thế, trong thời
gian vừa qua các giáo viên giảng dạy nói chung và giáo viên giảng dạy bộ
8


môn GDQP-AN nói riêng đã áp dụng rất nhiều phương pháp mới vào giảng
dạy để nâng cao hứng thú và kết quả học tập cho học sinh. Cụ thể như: Ứng
dụng Công nghệ thông tin vào giảng dạy, thiết kế bài giảng bằng giáo án điện
tử, phương pháp trình chiếu phim ảnh sống động, kết hợp nhuần nhuyễn và sử
dụng hiệu quả các thiết bị vào giảng day, kết hợp phương pháp truyền thống
với ứng dụng CNTT, hướng dẫn cho học sinh “thảo luận nhóm” một cách tích
cực nên đã lại kết quả khả quan.
* Đối với học sinh:
- Đa số học sinh đều có thái độ tích cực, tham gia thảo luận nhóm đã mang
lại hiệu quả cao trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
- Những học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng
tâm cơ bản thông qua hoạt động thảo luận nhóm, các em đã mạnh dạng hơn
khi tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, hòa đồng và đoàn kết hơn với
các bạn trong nhóm, trong lớp, phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao khả
năng giao tiếp, khả năng làm việc của cá nhân…

4.3. Nguyên nhân của thực trạng môn học GDQP – AN.
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên chưa gây được hứng thú cho học sinh khi bắt đầu tiết học mới,
chưa có phần dẫn dắt vào bài hoặc chưa gây được sự tập trung chú ý bài học
của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên.
- Giáo viên chỉ nêu ra câu hỏi mà chưa định hướng cho học sinh cách trả lời
câu hỏi như thế nào.
- Khi giáo viên đặt câu hỏi thì phần lớn các em học sinh khá giỏi dơ tay trả
lời, chưa có câu hỏi dành cho đối tượng yếu kém. Cho nên học sinh yếu kém
ít được chú ý và không được tham gia hoạt động. Từ đó, làm cho các em càng
thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán môn học.
* Đối với học sinh:
- Học sinh còn lười và chưa có sự say mê đối với môn học, một số bộ phận
học sinh không học bài củ và đọc bài mới trước khi đến lớp, trên lớp học thì
thiếu tập trung không chú ý, không có tinh thần phát biểu xây dựng bài.
9


- Học sinh chỉ có thể trả lời những câu hỏi dễ, đơn giản qua việc nhìn và
đọc trong sách giáo khoa, chưa có sự độc lập về tư duy. Đối với những câu
hỏi mang tính suy luận, giải thích, phân tích… thì học sinh trả lời chung
chung chưa sát với nội dung yêu cầu của câu hỏi.

Chương 5
Tiến hành kiểm tra khảo sát và kết quả nghiên cứu:
Bản thân đảm nhận dạy môn học GDQPAN cho học sinh cả 3 khối lớp 10,
11, 12. Qua quá trình công tác đến nay đã gần 16 năm tôi đã không ngừng học
tập nâng cao trình độ chuyên môn, tìm ra các phương pháp mới để giúp các
em học tốt hơn và rút ra kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy. Việc điều tra thông qua
các câu hỏi khảo sát nhận thức và câu hỏi kiểm tra 15 phút hoặc 45 phút.

10


* Kết quả điều tra như sau:
+ Điều tra hứng thú học tập của các em đối với môn GD QP - AN:
Rất thích Thích
Khối

Lớp

Hơi thích

Bình

Không
thích
SL %

SL

lớp
HS
Khối 10 10A7 39

SL

%

SL


%

SL

%

thường
SL %

3

7.7

7

18

14

35.8

12

30.7

3

7.8

Khối 11 11B4


43

4

9.3

6

15

15

34.8

16

37.2

2

4.7

Khối 12 12C5

42

4

9.5


6

14.3

17

40.4

13

31

2

4.8

+ Điều tra về kết quả học tập với môn GD QP - AN:
Khối
lớp
Khối 10
Khối 11
Khối 12

Lớp

SL

Giỏi
SL

8
9
4

%

Khá
SL %

Trung bình
SL
%

Yếu
SL %

20.5
20.9
9.5

17
18
22

11
12
13

3
4

3

HS
10A7
11B4
12C5

39
43
42

43.6
41.9
52.5

28.2
27.9
30.9

7.7
9.3
7.1

Chương 6
Giải pháp và kết quả đạt được sau khi áp dụng:
6.1. Các giải pháp thực hiện:
Từ những điều tra trên để đánh giá nhận thức và kết quả học tập của các
em, tôi đã tiến hành một số phương pháp nhằm nâng cao hứng thú và kết quả
học tập như: Ứng dụng CNTT đưa hình ảnh vào bài giảng, Phương pháp trình
chiếu, viết bài thu hoạch, thảo luận nhóm … Trong các phương pháp nêu trên

tôi nhận thấy phương pháp “Thảo luận nhóm” mang lại hiệu quả giáo dục
toàn diện hơn so với các phương pháp khác.Với những câu hỏi khó, những
11


tình huống chưa giải quyết, cá nhân các em có thể đưa ra thảo luận trong
nhóm để thống nhất ý kiến. Thảo luận nhóm là phương pháp thể hiện rõ nhất
sự đổi mới trong phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm. Giúp cho
học sinh mở rộng kiến thức, phát triển được tư duy khoa học, phát triển kĩ
năng nói, giao tiếp, tranh luận... Tuy nhiên khi tiến hành phương pháp này
còn gặp phải một số hạn chế như sau:
* Do học sinh chưa quen với cách học mới, các em thụ động, thiếu tự tin,
không dám nêu ra quan điểm của mình và đây chính là một trở ngại lớn nhất
khi đưa phương pháp này vào giảng dạy.
* Khi phân chia nhóm để thảo luận. Giáo viên phải phân chia như thế nào
cho hợp lí, chọn cử ai làm “thủ lĩnh” nhóm để nhóm học tập có hiệu quả.
* Làm cách nào để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có tinh thần
trách nhiệm trong công việc, tránh trường hợp ỷ lại vào nhóm.
 Để áp dụng tốt phương pháp này ta cần giải quyết được 3 mặt hạn chế
nêu trên bằng những phương pháp sau:
Thứ nhất: Để giúp học sinh làm quen với cách học mới, giúp các em chủ
động, tự tin, dám nêu ra quan điểm của mình chúng ta cần phải trải qua một
thời gian để các em thích ứng. Trong những tiết học đầu tiên chúng ta không
nên áp dụng phương pháp này ngay, vì làm như thế các em sẽ bỡ ngỡ dẫn đến
nhiều trở ngại trong quá trình học tập, không thu được kết quả như mong
muốn. Chúng ta có thể làm theo cách sau để tạo cho các em thói quen độc lập,
tư duy và làm bài theo hiểu biết của cá nhân.
Ví dụ: Ở khối 10, ngay bài học đầu tiên.
Bài 1: Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Phần I – Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Trong phần này giáo viên nêu câu hỏi: Bằng những kiến thức lịch sữ đã
học, em hãy lập dàn ý về:
“Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam”. Cho các em đọc bài và
yêu cầu mỗi em lập dàn ý trong thời gian do giáo viên quy định.
12


Giáo viên quan sát hoạt động của học sinh, nhận xét và kiểm tra bài làm
của một số em. Sau đó giúp các em hệ thống lại nội dung của bài.
Hoặc cho các em viết bài thu hoạch.
Ví dụ: Ở Khối lớp 11
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biện giới quốc gia.
Phần III: Bảo vệ Biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam.
mục 2.c. Trách nhiệm của công dân.
Trong phần này giáo viên đặt câu hỏi như sau:
Là một công dân của nước CHXHCN Việt Nam bản thân em phải làm gì
để xây dựng và quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia ( GV định hướng cho các
em viết bài thu hoạch).

 Qua những cách này chúng ta đã dần giúp cho các em chủ động, tự tin
làm quen với cách học mới và đã dần loại bỏ đi một trở ngại lớn khi bắt đầu
tiến hành phương pháp “Thảo luận nhóm”
Thứ hai: Là khi phân chia nhóm để thảo luận. Giáo viên phải phân chia
như thế nào cho hợp lí, chọn cử ai là thủ lĩnh nhóm để nhóm học tập có hiệu
quả.
Theo cá nhân tôi chúng ta nên sử dụng phương pháp sau để chọn ra thủ
lĩnh nhóm đạt yêu cầu: Chúng ta chia thành 4 nhóm theo 4 tổ của lớp, mỗi tổ
có 3 bàn học, giáo viên đưa ra một câu hỏi về kiến thức môn học hoặc kiến
thức xã hội, yêu cầu mỗi bàn học thảo luận để tìm ra đáp án, giáo viên cho
thời gian đủ để quan sát hoạt động của các em. Từ hoạt động này chúng ta sẽ

chọn ra một em nỗi trội trong bàn có khả năng lãnh đạo, thuyết trình. Như thế
mỗi bàn ta sẽ chọn được một em học sinh. Mỗi tổ ta sẽ có 3 học sinh để tiếp
tục lựa chọn nhóm trưởng bằng cách vừa nêu trên. Tiếp tục cho 3 em trong tổ
vừa chọn ngồi lại cùng một bàn và giáo viên đặt câu hỏi để các em trao đổi
thảo luận trả lời đáp án. Trong 3 em này ta sẽ chọn một em được nhóm bầu
lên để thuyết trình nội dung hoặc em nào có tinh thần xung phong để bầu làm

13


nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ điều hành. Phân công nhiệm vụ cho
các thành viên trong nhóm.
 Đây là một khâu quan trọng để thay đổi phương pháp trong dạy và học.
Nó cung cấp những kiến thức cơ bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp trong
nhóm, là những viên gạch đầu tiên để thực hiện thành công phương pháp
“ thảo luận nhóm”.
Thứ ba: Làm cách nào để tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có tinh
thần trách nhiệm trong công việc, tránh trường hợp ỷ lại vào nhóm.
Để làm tốt điều này, cần có sự phối hợp tốt giữa trưởng nhóm, cán sự lớp
và giáo viên. Đánh giá trực tiếp vào kết quả, ý thức của từng nhóm là điều
thực sự cần trong giai đoạn đầu. Ở đây ta áp dụng chính sách thưởng phạt
trong thảo luận.
Chúng ta thưởng cho những học sinh tham gia sôi nổi, nhiệt tình, có ý thức
cao trong hoạt động của nhóm và trong quá trình học tập bằng cách cộng
điểm ưu tiên. Phạt những em mất trật tự, không tham gia thảo luận, làm việc
hoặc nói chuyện riêng... bằng cách nhắc nhở, cảnh cáo, viết kiểm điểm hoặc
trừ điểm…
* Dựa vào phương pháp trên tôi có thể đưa ra câu hỏi và hướng dẫn
để cho học sinh thảo luận nhóm như sau:
Ví dụ: Ở lớp 10

Bài 5: Thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai
Phần II. Tác hại của thiên tai và một số biện pháp phòng tránh
Trong tiết học này tôi nêu ra mục đích, yêu cầu của tiết học và định hướng
cho các em tìm hiểu các loại hình thiên tai, tác hại, nguyên nhân gây ra thiên
tai và đưa ra các biện pháp phòng tránh thiên tai.
Câu hỏi: Các em hãy kể tên một số loại hình thiên tai thường gặp trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng, nguyên nhân gây ra thiên tai, tác hại
của thiên tai và một số biện pháp phòng tránh?

14


Tiến hành hoạt động: Cho mỗi em tự nghiên cứu nội dung trong SGK
kết hợp với hiểu biết của cá nhân yêu cầu các em lập dàn ý. Sau đó chia lớp
thành 4 nhóm yêu cầu các em trao đổi, thảo luận, thống nhất ý kiến và cử một
thành viên trong nhóm đứng lên trình bày lần lượt từng nhóm. Giáo viên nhận
xét, đánh giá kết quả bài làm của từng nhóm. ( trong các hoạt động này giáo
viên phân chia thời gian cho hợp lí).
Ví dụ: Ở lớp 11
Bài 2: Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh.
Phần II, mục 3: Trách nhiệm của học sinh.
Giáo viên nêu câu hỏi: Em hãy trình bày trách nhiệm của học sinh trong
việc thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự.
Giáo viên định hướng cho các em về trách nhiệm của bản thân đối với
việc thực hiện luận NVQS. Cho các em trao đổi thảo luận và trình bày kết
quả.
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia.
GV nêu câu hỏi: Là công dân của nước CHXHCN Việt Nam bản thân em
có trách nhiệm như thế nào trong xây dựng và quản lí, bảo vệ biên giới quốc
gia. Cho các em thảo luận rồi trình bày.

Ví dụ: Ở lớp 12
Bài 2: Một số hiểu biết về nền Quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Giáo viên cho các em thảo luận về những biện pháp chủ yếu để xây dựng
nền QPTD-ANND vững mạnh trong giai đoạn hiện nay và trách nhiệm của
học sinh trong xây dựng nền QPTD-ANND.
6.2. Kết quả đạt được:
- Mặc dù thời gian thời gian một tiết dạy còn hạn chế, nhưng tôi cũng đã
mạnh dạng vận dụng phương pháp này vào các tiết dạy và đạt được những kết
quả khả quan. Phương pháp này khi áp dụng vào một số nội dung lí thuyết
của môn học phù với với chương trình sách giáo khoa và đảm bảo phương
pháp học mới. Học sinh có hứng thú học tập, tích cực chủ động chiếm lĩnh tri
thức và phát triển được nhiều kĩ năng. Từ đó, không khí học tập trở nên sôi
15


nỗi và nhẹ nhàng, học sinh thích thú với môn học so với phương pháp truyền
thống trước đây.
- Qua phương pháp học sinh tự nghiên cứu, sau đó trao đổi thảo luận đã
giúp các em phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói
quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào
những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm vui,
hứng thú trong học tập.
- Khi một người trong nhóm lên trình bày các em còn lại chú ý lắng nghe
xem bạn mình trình bày có đầy đủ ý không, hoặc khi nhóm khác lên trình bày
các em cũng chú ý lắng nghe xem kết quả có giống với kết quả của nhóm
mình hay không? Chính việc lắng nghe đó đã giúp các em có thể ghi nhớ kiến
thức ngay trên lớp học một cách dễ dàng, không cần phải dành nhiều thời gian
học thuộc lòng bài ở nhà. Từ đó, giảm bớt đi áp lực của môn học và gây hứng
thú cho học sinh dần dần làm cho các em yêu thích môn học hơn.


 Kết quả cụ thể:
(khảo sát sau khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm)
+ Về hứng thú học tập sau khi áp dụng phương pháp thảo
luận nhóm:
Rất thích
Khối

Lớp

lớp
Khối 10
Khối 11
Khối 12

SL
HS
10A7 39
6
11B4 43
5
12C5 42
5
+ Điều tra về

Thích

Hơi thích

Bình


Không

SL

thường
SL %

thích
SL %

SL
%

SL %

15.4 9
23
17
11.6 10 23.3 15
11.9 9
21.4 18
kết quả học tập:

%

43.5 6
34.8 13
42.9 10

15.4 1

30.2 0
23.8 0

16

2.6
0
0


Giỏi
Khối

Lớp

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

1


2.6

SL

SL

%

lớp
HS
Khối 10 10A7 39

10

25.6 19

48.8 9

23

Khối 11 11B4

43

10

23.3 20

46.5 13


30.2 0

0

Khối 12 12C5

42

6

14.3 24

57.1 12

28.6 0

0

SL

%

6.3. Bài học kinh nghiệm:
- Sau một thời gian áp dụng phương pháp này vào giảng dạy, bản thân tôi
rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả trước hết giáo viên phải đưa ra những
yêu cầu rõ ràng về câu hỏi cần thảo luận.
- Trong mỗi tiết dạy giáo viên cần nêu mục đích, yêu cầu của tiết học;
mục tiêu của bài học. Sau đó phổ biến nội dung và phân bố thời gian hợp lí và

hướng dẫn học sinh thực hiện.
- Nên quy định cụ thể thời gian thảo luận.
- Mỗi nhóm báo cáo xong giáo viên cần có nhận xét đánh giá ( khen
ngợi, nhắc nhở).
- Giáo viên cần chú ý theo dõi sự hoạt động của các nhóm.
- Mỗi nhóm sẽ cử một nhóm trưởng chỉ đạo các bạn trong nhóm hoạt
động và một thư ký ghi ý kiến của các bạn trong nhóm.
- Giáo viên cần nghiên cứu kĩ giáo án, sách giáo khoa và các tài liệu có
liên quan, chuẩn bị các câu hỏi phù hợp với đối tượng và trình độ của các em.
- Giáo viên cần tạo cơ hội cho tất cả các học sinh trả lời, thảo luận nhóm,
không gây căng thẳng hoặc tạo áp lực nặng nề trong giờ học.
- Hoạt động này sẽ không hiệu quả nếu giáo viên chưa đi sâu đi sát đến
từng nhóm và hướng dẫn các nhóm hoạt động. Và đây cũng chính là nguyên
nhân dẫn đến kết quả hoạt động nhóm chưa đạt yêu cầu.
- Giáo viên không nên để các nhóm tự hoạt động hoặc ít để ý đến các em,
như vậy sẽ có nhóm các em gây ồn ào mất trật tự, có nhóm chỉ có một vài em
17


làm việc còn lại một số các em khác không chú ý, ngồi chơi hoặc làm việc
riêng.

Kết luận và kiến nghị
1. Kết Luận:
-“Thảo luận nhóm” là một phương pháp dạy và học nhằm mang lại kết
quả cao trong giáo dục. Nó không những giúp các em có thể ghi nhớ kiến
thức ngay trên lớp, giảm bớt thời gian để học bài củ ở nhà mà còn giúp cho
học sinh mở rộng kiến thức, phát triển được tư duy khoa học, giúp học sinh
phát triển kĩ năng nói, giao tiếp, tranh luận, khả năng làm việc độc lập của cá
nhân. Qua đó phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao tinh thần đoàn kết và

nâng cao kết quả học tập.

18


- Tuy nhiên, để vận dụng tốt và rộng rãi phương pháp này vào dạy học
ngoài những giải pháp nêu trên thì bản thân mỗi giáo viên phải bỏ nhiều công
sức, sáng tao trong lao động, tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đòi
hỏi Giáo viên phải luôn học tập trao dồi năng lực tư duy, nắm vững lí luận,
thường xuyên rèn luyện nghiệp vụ và hành động của mình trước khi giáo dục
học sinh.
- Với kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian giảng dạy chưa nhiều nên tôi
chỉ nêu ra đây một phương pháp dạy - học mà bản thân tôi thấy tâm đắc nhất
góp phần vào đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay. Với phương pháp
này tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giúp giáo viên có thể vận dụng
vào giảng dạy để nâng cao hứng thú và kết quả học tập cho các em.
2. Kiến nghị:
- Với tổ chuyên môn, tham mưu cho lãnh đạo nhà trường để trang bị
những tài liệu liên quan đến việc giảng dạy bộ môn.
- Với lãnh đạo nhà trường, tạo điều kiện cho tổ chuyên môn tổ chức
những Hội thảo về việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực của người học .
- Nhà trường cần mua một số tài liệu liên quan đến nội dung giảng dạy
môn GDQP-AN như các loại sách báo về: biển đảo và chủ quyền biên giới
quốc gia, Điều lệnh đội ngũ, kĩ thuật quân sự, các loại báo như an ninh, quân
đội…. để giáo viên và học sinh có cơ hội tìm hiểu thêm về kiến thức môn học.
- Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài viết, những vấn đề mà tôi đưa ra
còn nhiều thiếu sót, hy vọng sẽ nhận được những đóng góp thiết thực và quý
báu của quý thầy giáo, cô giáo, đồng nghiệp nhằm nâng cao hơn nữa chất
lượng dạy và học môn Giáo dục Quốc phòng - An ninh trong trường học.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Nghĩa Hành, ngày 20 tháng 01 năm 2017
Người viết

19


Cao Bá Quang

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị 12/CT/TW của Bộ chính trị - BCH TW Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 3/2/2007.
2. quocphonganninh.edu.vn/index.aspx
3. giaoan.violet.vn
4. nde.agu.edu.vn/sites/default
5. />6. SGK giáo dục quốc phòng an ninh 10, 11, 12
20


21



×