Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN LOP 1 TINH NHAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.36 KB, 20 trang )

THÔNG TIN VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến : Rèn kĩ năng tính nhẩm cho học sinh lớp 1
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Môn Toán lớp 1
3. Thời gian áp dụng : Từ tháng 9 -2014 đến tháng 5– 2015
4. Tác giả : Vũ Thị Liên
Năm sinh :1987
Địa chỉ liên hệ: 23 Vũ Ngọc Phan, P. Hạ Long, Nam Định.
Số điện thoại:0982640277
Trình độ chuyên môn : Cao đẳng Sư phạm.
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Chu Văn An


MỤC LỤC
Phần I : Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến.
I. Lý do chọn sáng kiến.
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Phần II : Mô tả sáng kiến.
I. Cơ sở lí luận và thực tế.
II. Thực trạng.
III. Biện pháp thực hiện.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
V. Bài học kinh nghiệm.
Phần III : Một số đề xuất để áp dụng sáng kiến.


Sáng kiến kinh nghiệm
Rèn kĩ năng tính nhẩm cho học sinh lớp 1
Phần I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến


I. Lý do chọn sáng kiến.
Trong xây dựng cơ bản, như khi xây một toà nhà cao tầng hiện đại thì
việc xử lý móng là hết sức quan trọng, mà nền móng ngôi nhà lại là phần nằm
sâu trong lòng đất, nên người ta thường chỉ nhìn thấy những tầng cao ở trên;
chỉ có những người xây dựng, những người có chuyên môn mới thấy rõ tầm
quan trọng, giá trị đích thực của nó. Bậc Tiểu học cũng được coi như cái nền
móng của ngôi nhà tri thức kia. Chính vì vậy, điều 2 của luật phổ cập giáo dục
tiểu học đã xác định bậc tiểu học là bậc học đầu tiên bậc học nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân. Bậc tiểu học đã tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản
và bền vững cho các em tiếp tục học các bậc học trên. Nội dung giảng dạy của
tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống, không
chỉ có thế mà mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và
phát triển nhân cách học sinh. Trong các môn học, môn toán là một trong
những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có
nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số
lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Một trong những nội
dung toán đáp ứng được mục đích trên đó là đơn vị đo lường. Ngày nay, sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đã làm cho
khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội. Điều đó đã đòi hỏi những nhà
nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng
dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng học sinh nhằm không ngừng
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài cho quê hương, đất nước.


Môn Toán lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học,
rồi mai đây các em lớn lên trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà
thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống và sản
xuất, trên tay có máy tính xách tay, nhưng không bao giờ các em quên được
những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết số các 1, 2, 3, ... học các

phép tính cộng, trừ các em không thể quên được vì đó là kỉ niệm đẹp đẽ nhất
của đời người và hơn thế nữa những con số, những phép tính đơn giản ấy cần
thiết cho suốt cuộc đời của các em.
Đó cũng là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên nói chung và
giáo viên lớp 1 nói riêng. Người giáo viên từ khi chuẩn bị cho tiết dạy đầu tiên
đến khi nghỉ hưu không lúc nào dứt nổi trăn trở về những điều mình dạy và
nhất là môn Toán lớp 1 là một bộ phận của chương trình môn Toán ở tiểu học.
Chương trình đó kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy Toán lớp 1, nên
nó có vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu trong mỗi cấp học.
Dạy học môn Toán ở lớp 1 nhằm giúp học sinh:
a. Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép
đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, về độ dài và đo độ dài trong phạm
vi 20, về tuần lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số
hình học (hình vuông, hình tam giác, hình tròn, điểm, đoạn thẳng); về bài toán
có lời văn.
b. Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh
các số trong phạm vi 100; cộng và trừ không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước
lượng độ dài đoạn thẳng (với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20 cm).
Nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ điểm,
đoạn thẳng). Giải một số dạng bài toán đơn về cộng trừ bước đầu biết biểu đạt
bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành,
tập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi
của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh.


c. Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học
toán.
Là một người giáo viên trực tiếp dạy lớp 1 và đặc biệt là dạy môn toán,
Thực hiện chương trình đổi mới giáo dục toán học lớp 1 nói riêng ở tiểu học
nói chung. Tôi rất trăn trở và suy nghĩ nhiều để học sinh làm sao làm tốt được

các phép tính cộng, trừ (không nhớ) trong phạm vi 100 để học sinh dễ hiểu và
nắm chắc được kĩ năng tính nhẩm nên tôi lựa chọn sáng kiến kinh
nghiệm:“Rèn kĩ năng tính nhẩm cho học sinh lớp 1.”
II. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy tính nhẩm ở toán lớp1.
- Tìm hiểu vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện phép cộng, phép trừ trong
quá trình học môn toán ở tiểu học.
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học tính nhẩm của giáo viên và học
sinh lớp 1.
- Những kinh nghiệm từ dạy học và biện pháp khắc phục khi dạy tính
nhẩm cộng, trừ cho học sinh lớp1.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Là những bài tập thuộc mạch kiến thức “tính cộng, trừ (không nhớ)
trong phạm vi 100” trong chương trình lớp 1 ở Tiểu học.
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 1A3 trưòng Tiểu học Chu Văn
An.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu về lí luận dạy học môn
toán, SGK Toán lớp1, SGV Toán lớp1, tập san, sách báo.
- Phương pháp điều tra, quan sát: -Thông qua dự giờ, trao đổi phỏng vấn
học sinh và giáo viên
- Phương pháp thực nghiệm: Dạy thực nghiệm toán lớp 1 để kiểm
chứng tính khả thi và những đề xuất nhằm nâng cao tính hiệu quả trong việc
rèn kỹ năng làm tính cộng, trừ cho học sinh lớp1.


Phần II: Mô tả sáng kiến.
I. Cơ sở lí luận và thực tế :
a/ Một vài đặc điểm của học sinh :
- Phần lớn các em chưa làm quen với hoạt động học tập, chưa có vốn kiến

thức gì về toán học. Một số học sinh được cha mẹ dạy đếm từ 0 – 10, biết một
số hình đơn giản như : hình vuông, hình tròn, hình tam giác …
- Đây là lần đầu tiên trẻ làm quen với môi trường học tập, vì vậy các em
cũng ham chơi. Ngoài giờ lên lớp, về đến nhà thì gần như các em không xem
lại sách vở, đôi khi cũng làm việc phụ giúp gia đình và các em không có bài tập
về nhà đối với lớp 1. Những gì được học ở trường nếu không được rèn luyện
thêm ở nhà thì các em sẽ nhanh chóng quên. Bởi vậy, sự quan tâm của các bậc
phụ huynh sẽ gúp phần khôg nhỏ vào kết quả học tập của con em mình. Song,
sự quan tâm ấy chỉ với một số ít phụ huynh. Cũng lại, đa số phụ huynh giao
phó cho nhà trường, đôi khi đồ dùng của con em cũng thiếu thốn cũng không
biết.
b/ Vai trò, vị trí của việc dạy toán lớp Một :
Môn toán có một hệ thống kiến thức cơ bản cần thiết cho đời sống sinh
hoạt và lao động. Những kiến thức, kỹ năng toán học đặc biệt là cộng, trừ
không nhớ trong vòng 100 là những công cụ cần thiết để học tiếp các môn
khác và là cơ sở nền tảng để giúp các em dễ dàng học lên các lớp trên. Tiếp cận
và vận dụng phương pháp đổi mới để hình thành cho học sinh kỹ năng tính
toán năng động, phát huy tính sáng tạo trong học tập. Học sinh sẽ khắc sâu
được những kiến thức lâu bền, có hệ thống chặt chẽ và sâu xa hơn. Đó còn là
nền tảng để học sinh làm tốt dạng bài tính nhanh ở lớp trên. Nó cũng giúp cho
học sinh suy nghĩ làm việc gúp phần giáo dục những phẩm chất, đức tính tốt
đẹp của người lao động.
c/ Kỹ năng :


Môn toán trang bị cho học sinh một số hệ thống kiến thức và kỹ năng cơ
bản cần thiết cho việc tiếp tục học tập hoặc đi vào thực tế cuộc sống lao động.
Từng bước hoàn thiện, rèn luyện phương pháp và tác phong làm việc khoa học,
phát triển hợp lí phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Bước đầu hình thành và phát triển
năng lực tư duy, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập môn toán,

khả năng suy luận và cách tính đúng, suy luận đơn giản.
Muốn đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình,
tích cực quan tâm đến từng học sinh, thường xuyên kiểm tra – đánh giá, khen
thưởng kịp thời đúng lúc đối với những học sinh yếu. Từ đó các em sẽ học tập
tốt hơn, có một số kiến thức vững vàng hơn để giúp các em có đủ năng lực và
trình độ học tiếp các lớp cao hơn. Có như vậy thì mới có khả năng đem lại một
hiệu quả thiết thực theo mong muốn của mình cũng như của người làm công
tác giáo dục.
II. Thực trạng vấn đề :
Chương trình toán lớp Một nói về phần số học các em được học phép
cộng, phép trừ trong phạm vi 10, cộng trừ (không nhớ) trong phạm vi 100.
Trong đó tính nhẩm và tính viết, tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép
tính cộng, trừ (các trường hợp đơn giản) hoặc tính nhẩm kết quả hai vế để so
sánh các số hoặc điền số. Yêu cầu này bắt buộc học sinh phải thực hiện kĩ năng
qua tính nhẩm. Qua giảng dạy, bản thân tôi đã áp dụng hướng dẫn kĩ thuật tính
này bằng cách thuận tiện nhất (theo hướng dẫn của SGK) đó là:
Ví dụ: 16+ 2 =
Cách 1: Có thể nhẩm ngay

16 + 2 = 18

Cách 2: Có thể nhẩm ngay theo hai bước:
Bước 1:

6+2 =8

Bước 2:

10 + 8= 18


Cách 3: Có thể nhẩm theo cách đếm thêm 1 liên tiếp: 16 thêm 1 được 17, 17
thêm 1 được 18


Nhưng trong thực tế đối với những em nhanh hiểu thì các em dễ dàng
nhẩm ngay được kết quả. Còn những em ở mức độ trung bình thì thực hiện còn
chậm hay sai và dễ nhầm lẫn (có em cho kết quả là 36)
Từ việc nghiên cứu các tài liệu, ghi nhận những sai sót của học sinh lúc
học toán tôi đã tìm ra những nguyên ngân cơ bản mà học sinh còn mắc phải.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến HS nhẩm sai đó là:
* Học sinh không thuộc bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 10.
* Học sinh chưa hiểu cách cộng, trừ nhẩm dẫn đến đoán kết quả sai, làm sai.
Do lần đầu tiên các em mới làm quen với trường, lớp; làm quen với hoạt
động học tập; bắt đầu vào khuôn khổ học tập, làm việc có giờ giấc nên các em
phải tập dần cho thích nghi, lại làm quen với các chữ và số, điều đó làm cho
các em hay quên. Với lại, thời gian ở lớp rất ít, thời gian còn lại các em ở nhà,
nhưng về nhà các em không có bài tập mà đa số phụ huynh không quan tâm,
các em không xem lại bài học ở lớp nên các em học trước quên sau, học sau
quên trước.
- Dạy phép cộng, phép trừ trong phạm vi từ 3 đến 10, học sinh thường
lẫn lộn giữa cộng với trừ. Giáo viên dạy “cộng là thêm”, “trừ là bớt”. Nhưng
khi thực hành làm toán có em lại làm “cộng là bớt”, “trừ là thêm”, dẫn đến kết
quả bài toán luôn ngược lại với phép tính.
Ví dụ : Tính : 8 – 2 = 10

8+2=6

* Dạy cộng, trừ số có hai chữ số với số có một chữ số :
- Đặt tính: học sinh thường hay mắc phải trường hợp đặt tính sai dẫn đến
kết quả bài toán sai.

Ví dụ : Dạy bài phép cộng dạng 14 + 3, cho học sinh luyện tập đặt tính
rồi tính bài 12 + 3 ( trang 109 ).
Học sinh đặt :

12
+3
42

( đặt số 3 sai vị trí nên kết quả sai )


- Tính nhẩm : học sinh lấy cả số chục và số đơn vị tính với số kia.
Ví dụ : Học sinh thực hành luyện tập tính nhẩm 15 + 1 = … ( trang 109 )
Học sinh tính : 15 + 1 = 26, vì các em thực hiện :
5 + 1 = 6 viết 6.
1 + 1 = 2 viết 2 trước số 6.
Tính như vậy là sai.
* Dạy tính nhẩm về cộng, trừ trong phạm vi 100, học sinh không phân biệt
được số đứng trước, số đứng sau. Nên các em thực hiện tính lộn xộn.
Ví dụ : Bài luyện tập thực hiện tính nhẩm.
Học sinh tính : 53 – 30 = 50 vì các em thực hiện :
3 – 3 = 0 viết 0.
5 – 0 = 5 viết 5 trước số 0.
Kết quả sai.
* Với các dạng bài toán có hai phép tính, học sinh thường quên thực hiện với
số thứ ba.
Ví dụ : tính :

2 + 1 + 2 = …..


Học sinh tính :

2 + 1 + 2 = 3, vì các em thực hiện 2 + 1 = 3,

viết 3 mà quên thực hiện thêm một lần 3 + 2 = 5, viết 5 sau dấu “=”
* Khi dạy phép cộng, trừ số có hai chữ số với số có hai chữ số theo hàng
ngang, có một vài học sinh thường ghi sai kết quả của phép tính.
Ví dụ : 15 + 23 = 83
Học sinh thực hiện làm tính thì đúng nhưng khi ghi kết quả thì
các em lại ghi đảo ngược vị trí của số hàng đơn vị và số hàng chục, do
đó dẫn đến kết quả phép tính sai.
Và đây là kết quả điều tra của lớp 1A3 mà hiện nay tôi đang giảng dạy:


Tổng số

Số học sinh biết tính

Số học sinh biết tính

Số học sinh chưa

học sinh

nhẩm nhanh đúng

nhẩm đúng (chậm)

biết tính nhẩm.


35

SL
11

TL
31,4%

SL
14

TL
40%

SL
10

TL
28,6%

III. Biện pháp thực hiện
Từ những nguyên nhân đã tìm hiểu nói trên để khắc phục những sai sót
mà học sinh còn mắc phải tôi đã thực hiện như sau:
1. Cho học sinh hình thành và học thuộc bảng cộng, trừ trong phạm vi 10
Làm thế nào để tất cả học sinh phải học thuộc bảng cộng, trừ trong
phạm vi 10?
a. Cho học sinh biết được bản chất của phép cộng là thêm vào, gộp vào.
Ví dụ: Khi dạy phép cộng trong phạm vi 3 GV lấy ví dụ: Có 2 chiếc ô
tô, thêm 1 chiếc ô tô. Có tất cả 3 chiếc ô tô. Ta có phép tính: 2 + 1 = 3
Hay ví dụ khác: Có một hình vuông màu đỏ, gộp với 2 hình vuông màu

xanh, được 3 hình vuông. Ta có phép tính: 1 + 2 = 3
- 2 gộp 1 là 3
- 1 gộp 2 là 3
2+1=3 : 2 thêm 1 là 3
Ví dụ: Phép tính 3+ 4= 7 phải cho học sinh thực hiện 2 công việc sau:
- Đếm lấy 3 que tính (tức là vừa đếm vừa lấy từng que 1, 2, 3). Đếm lấy
4que tính. Gộp hai nhóm que tính này thành một nhóm. Đếm số que tính của
nhóm này 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7. Viết 7 (Công việc này gọi là thao tác gộp, giúp học
sinh hiểu phép cộng một cách khái quát nhất).
- Đếm lấy 3 que tính rồi đếm lấy 4 que tính, không tách riêng mà gộp
luôn vào số đã lấy. Đếm số que tính thu được 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7. Viết 7 (công
việc này gọi là thao tác thêm. Về mặt toán học thêm không khác gì thao tác
gộp. Điểm khác nhau ở đây là thao tác gộp hai nhóm đã được tiến hành cùng
một lúc với thao tác đếm lấy 5 que tính.


* Từ đó HS hiểu được phép cộng là ghi lại kết quả của phép thêm, gộp
hoặc tăng.
b. Cho HS biết được bản chất của phép trừ là tách ra, bớt đi.
Ví dụ: Có 7 que tính, bớt đi 3 que tính. Còn lại 4 que tính. Ta có phép
trừ: 7 - 3 = 4 hoặc 7 - 4 = 3
Ví dụ: 8 - 5 = 3 phải cho học sinh thực hiện công việc sau (thao tác bớt)
- Đếm lấy 8 que tính . Từ số 8 que tính này đếm để lấy bớt 5 que tính,
còn lại 1, 2, 3. Viết 3.
* Khi HS hiểu được bản chất của phép cộng, phép trừ thì HS sẽ dễ dàng
thực hiện thao tác trên đồ dùng để hình thành kiến thức mới.
c. Cho học sinh thực hiện thêm các thao tác nghe, nhìn, đọc, viết để thuộc từng
kết quả phép tính.
- Thuộc thông qua nghe: Nghe giáo viên đọc phép tính, thuộc phép tính
đó như nhớ một bài hát sau khi nghe.

- Thuộc lòng qua nhìn: Quan sát học sinh viết phép tính, thuộc phép tính
giống như nhớ hình ảnh một bức tranh sau khi xem.
- Thuộc bằng cách đọc: Đọc xuôi, đọc ngược, đọc liền các phép tính, đọc
theo dãy, che xoá phép tính (kết quả, thành phần), đọc nhiều lần phép tính mà
giáo viên viết trên bảng.
- Thuộc bằng cách viết: Viết phép tính vào bảng con mà giáo viên đọc.
Song hai quá trình “ Hiểu” và “thuộc” đôi khi đối lập nhau. Có thể thuộc
mà không hiểu thì sẻ chóng quên và không giúp ích gì cho việc giải toán trước
mắt và cho việc tư duy phát triển toán học sau này. Nếu mà hiểu không thuộc
thì khó vận dụng có hiệu quảvào cuộc sống, sau này rất khó tiếp thu những
kiến thức ở lớp trên.
2. Cho học sinh luyện tập để luyện thêm kết quả phép tính khi vòng số
được mở dần.


Phép cộng, trừ trong phạm vi 10 được giới thiệu từng phần theo nguyên
tắc mở rộng vòng số trong suốt năm học.
Như vậy đầu tiên cần dạy cho học sinh thuộc bảng cộng, trừ trong phạm
vi 2. (chỉ đối với các số khác 0)
Bảng cộng
1 + 1 =2

Bảng trừ
2-1=1

Tiếp theo cần dạy cho học sinh bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 3.
Bảng cộng
1+1=2

1+2=3


Bảng trừ
2+1=3

2-1=1

3-2=1

3-1=2

Mỗi bảng này có 3 phép tính, nhưng học sinh chỉ cần phải học thêm 2
phép tính mới đấy là các phép tính cộng mà có kết quả bằng 3 và các phép trừ
dạng 3 trừ đi một số, vì phép tính còn lại đã có trong bảng cộng, bảng trừ trong
phạm vi 2.
Để học sinh ghi nhớ các phép tính mới này, cách tốt nhất là cho các em
thực hiện thao tác tách: Tách 3 que tính thành 2 phần.
Đến bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 4 thì học sinh chỉ cần học thêm
3 phép tính mới và cứ như thế tiếp tục cho đến bảng cộng và bảng trừ trong
phạm vi 10.
Sự lặp lại mở rộng vòng số tự nhiên như trên củng góp phần nâng cao
năng lực tư duy của học sinh , rèn luyện thói quen tìm hiểu vấn đề một cách có
hệ thống.
3. Cho học sinh luyện tập để thuộc kết quả của phép tính xuất hiện bất kì.
Trong bảng cộng và bảng trừ các phép tính được liệt kê theo một trật tự
lô gíc nhưng phải vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, phải nói ngay được một


kết quả bất kì, xuất hiện ngẫu nhiên. Vì thế cần luyện tập cho học sinh thuộc
phép tính đến mức cao này.
Cách đơn giản và hiệu quả nhất là mỗi buổi học dành 5-10 phút để luyện

tập tính nhẩm đồng nghĩa với học sinh học thuộc lòng. Cách tổ chức luyện tập
tính nhẩm có nhiều hình thức phong phú.
- Giáo viên đọc phép tính bất kì, học sinh nói nhanh kết quả.
- Một học sinh đọc phép tính học sinh khác đọc kết quả.
- Tổ chức các trò chơi, trong đó cần cộng, trừ nhanh.
Ngoài tất cả những cách để giúp cho học sinh thuộc bảng cộng và bảng
trừ nói trên, nên treo một bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10 dưới dạng
thu gọn để GV luôn nhắc nhở HS 100% học sinh phải thuộc hai bảng đó còn
học sinh ngày nào cũng thấy và ghi vào trong trí nhớ một cách bền vững.
Từ thực tế từng bài dạy ở lớp, áp dụng cơ sở khoa học của cách đặt tính
mà cho học sinh tính nhẩm.
Ví dụ: Dạy các bài: Phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10. Giáo viên
phải dạy cho học sinh của mình luôn luôn nhớ câu “ công là thêm, trừ là bớt”
như câu thần chú nằm trong lòng các em. Vào học tiết tóan nào giáo viên cũng
hỏi : “cộng là làm gì? trừ là làm gì ?” cho lần lượt cá nhân trả lời.
Khi làm bài tập giáo viên cũng cho học sinh xác định :
+ Dấu gì ? ( + ), cộng là làm gì?
+ Dấu gì ? ( - ), trừ là làm gì?
Đối với những em học giỏi có thể nhẩm và tìm ra kết quả nhanh chóng.
Còn những em trung bình và yếu giáo viên yêu cầu học sinh luôn mang theo
que tính để thực hành. Các em làm bài dựa trên que tính rất chính xác.
Áp dụng như vậy, giáo viên dạy các bài phép cộng, phép trừ trong phạm
vi 3 đến 10 các em làm rất có hiệu quả. Tuy những học sinh trung bình, yếu
làm tính còn chậm nhưng rất chính xác.


* Cộng, trừ số có hai chữ số với số có một chữ số cũng dựa trên bảng
chục, đơn vị để các em hiểu: đơn vị xếp với đơn vị, chục xếp với chục, không
xếp lẫn lộn sẽ làm sai và phải xếp thẳng cột từ phải sang trái.
+ Ví dụ: Khi đặt tính 12 + 3 cho học sinh tự xác định chữ số hàng chục

và chữ số hàng đơn vị, có thể dùng bút chì gạch chân dưới chữ số hàng đơn vị:
3 là 3 đơn vị nên phải viết 3 dưới 2 đơn vị và đặt tính :
12
+

3
15

Rồi tính, cũng tính từ phải sang trái :
+ 2 + 3 = 5, viết 5.
+ Hạ 1, viết 1.
Vậy 12 + 3 = 15.
Giáo viên luôn cho học sinh nêu cách tính để các em nhớ và có thể tự
thực hành.
- Tính nhẩm thì giáo viên cho học sinh dùng vật che số chục thực hiện
số đơn vị với số đơn vị, rồi cứ viết số chục ra trước.
+Ví dụ:

15 + 1 = …

Che 1 chục, tính : 5 + 1 = 6, viết 6, sau đó viết 1 chục trước 6 là
được 15 + 1 = 16
Dần dần học sinh tự nhẩm không cần phải che cũng không cần phải lấy
nhiều que tính mà chỉ áp dụng các phép cộng, trừ trong phạm vi 10 đó học.
* Học sinh học đặt tính các số trong phạm vi 100: vì cả hai số đều có đủ
chục và đơn vị nên các em đặt tính dễ dàng.
Còn tính nhẩm thì sao ? Giáo viên cũng hướng dẫn thao tác che bớt số
đứng trước, thực hiện : “ số đứng sau tính với số đứng sau”. Che số đứng sau,
thực hiện : “ số đứng trước tính với số đứng trước”, ghi kết quả phía trước.
Ví dụ: Tính nhẩm : 53 – 30 = …



Che số đứng trước, thực hiện : 3 – 0 = 3, viết 3.
53 – 30 = …
Che số đứng sau, thực hiện : 5 – 3 = 2, viết 2 ra trước số 3.
Vậy 53 – 30 = 23
Dần dần học sinh tự nhẩm không cần phải che mà các em cũng tính được.
* Dạy các dạng toán có hai phép tính: bước đầu giáo viên cho học sinh dùng
“bút chì gạch chân” để thực hiện phép tính thứ nhất, rồi lấy kết quả thực hiện
với phép tính thứ hai.
Ví dụ : 2 + 1 + 2 = …
Học sinh nêu: 2 + 1 = 3; viết 3 xuống dưới, rối tính tiếp3 + 2 = 5, viết 5.
Vậy :

2+1+2=5

Các bài đầu giáo viên bắt buộc học sinh phải thực hiện như vậy để biết
cách làm, những bài sau cho các em tự nhẩm nhưng phải nêu được cách làm.
Ví dụ: 30 + 10 + 20 = ….
Học sinh nhẩm ngay : 30 + 10 + 20 = 60 và nêu cách làm: 3 chục
cộng 1 chục bằng 4 chục, 4 chục cộng 2 chục bằng 6 chục.
Vậy 3 chục cộng 1 chục cộng 2 chục bằng 6 chục.
* Để cho học sinh ghi đúng kết quả khi làm cộng, trừ số có hai chữ số với
số có hai chữ số theo hàng ngang, ta làm như sau :
- Cho học sinh xác định số đơn vị (số đứng sau ) và số chục (số đứng
trước ), sau đó gạch chân số đơn vị để cho học sinh dễ tính và không bị lẫn lộn.
- Tiến hành cộng, trừ các số gạch chân với nhau, trong khi thực hiện
giáo viên cần nhắc nhở học sinh: số đơn vị là số đứng sau, nên khi cộng trừ
xong thì ghi nó đứng ở phía sau và gạch chân để nhớ là số đơn vị.
- Sau đó thực hiện cộng, trừ các số không gạch chân với nhau, trong khi

thực hiện giáo viên cũng nhắc học sinh: số chục là số đứng trước số đơn vị, nên
khi thực hiện cộng trừ xong ta ghi nó ở phía trước số đơn vị.


Giáo viên cần thường xuyên nhắc nhở học sinh trong các lần làm tính,
có như vậy thì học sinh sẽ nhanh chóng khắc phục được sai sót của mình.
Ví dụ:

15 + 23 = 38
Lấy 5 cộng 3 bằng 8, ghi 8 ở phía sau.
Tiếp theo lấy 1 cộng 2 bằng 3, ghi 3 ở phía trước 8.
Như vậy 15 + 23 = 38.

* Khi dạy toán, một điều không thể thiếu là luôn giáo dục học sinh tính cẩn
thận và chính xác để làm bài đạt kết quả cao.
Giáo viên cần chú trọng kết hợp nhiều hình thức luyện tập nhưng chủ
yếu là làm việc cá nhân để phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh như :
cài bảng (cá nhân), viết bảng con (cá nhân), làm vở (cá nhân) … và luôn luôn
giáo dục, nhắc nhở những em còn nhìn bài bạn. Vì với môn toán, học sinh
không hiểu bài, chép bài bạn vẫn có thể làm được. Điều này, nếu giáo viên
không quan tâm sẽ gây cho các em tính ỷ lại, không cố gắng học.
Với những em không chú ý, không cố gắng học thì giáo viên cần gặp
riêng các em đó để nhắc nhở và tìm ra nguyên nhân.
Còn những em học giỏi thì sao ? Giáo viên phải luôn biết tuyên dương
các em trước cho các bạn học theo, vì những em nhỏ nếu được khen sẽ cố gắng
làm tốt hơn.
Môn tiếng việt rèn cho học sinh vở sạch, đẹp … Môn toán cũng vậy,
giáo viên cũng rèn cho học sinh cách đặt vở, trình bày vở …Vì qua vở viết có
thể đánh giá, giáo dục học sinh tính cẩn thận, sạch sẽ, thể hiện nết người.
Để gây cho các em có hứng thú trong học tập, tránh cảm giác đơn điệu,

buồn chán. Giáo viên nên tổ chức trò chơi học tập trong giờ củng cố hay những
bài luyện tập, và trũ chơi phải có kiến thức của bài học.
Ví dụ: -Trò chơi “tiếp sức”

3
0
0
0
0

+ 20

- 40

+ 60

- 20


0
0

Mỗi tổ cử 4 bạn thi điền số. Tổ nào làm đúng, nhanh sẽ được khen.
- Trò chơi “chuyền điện” có thể dạy trong các bài phép cộng, phép trừ
trong phạm vi 3 đến 10.
Cho 1 em nêu phép tính, chỉ định 1 bạn trả lời. Nếu đúng thì được đố
bạn khác, nếu sai thì bị điện giật và không chuyền nữa.
Tổ chức trò chơi phải có đánh giá, khen thưởng, tuyên dương kịp thời.
* Trong lớp, có em học yếu, có em học giỏi. Muốn giúp các em học yếu
được tiến bộ hơn, giáo viên cho các em ngồi theo cặp, một em học giỏi ngồi

cùng một em học yếu. Giáo viên phân đều cho cả lớp làm thành những đôi bạn
cùng tiến.
IV. Kết quả do sáng kiến mang lại:
Sau khi nghiên cứu và áp dụng thực hiện tại lớp tôi chủ nhiệm thì kết
quả khả quan so với cách dạy thông thường và đây là kết quả thu được sau khi
áp dụng phương pháp dạy học sinh cách cộng, trừ nhẩm.
Tổng số

Số học sinh biết tính

Số học sinh biết tính

Số học sinh chưa

học sinh

nhẩm nhanh đúng

nhẩm đúng( chậm)

biết tính nhẩm.

35

SL
18

TL
51,4%


SL
12

TL
34,3%

SL
5

TL
14,3%

Nhìn vào bảng kết quả cho thấy tính nhẩm này giúp học sinh thực hiện
rất nhanh kết quả đúng. Với 5 em còn lại do chưa thuộc bảng cộng, trừ trong
phạm vi 10, nên còn phải thực hiện bằng que tính, ngón tay nên kết quả có lúc
còn chưa đúng.
V. Bài học kinh nghiệm.
Trong dạy học toán, học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp Một
nói riêng cộng, trừ nhẩm là một trong những vấn đề quan trọng tạo tiền đề cho
học sinh phát triển kĩ năng, kiến thức cho việc học toán sau này.


Ở lứa tuổi học sinh lớp Một các em tư duy chưa cao (nhất là những em
có học lực trung bình) thì người giáo viên cần có phương pháp giảng dạy, trình
bày làm sao để các em dễ hiểu nhất, tìm được kết quả với con đường ngắn
nhất, cải tiến góp phần cho lớp học có chất lượng đồng đều, giảm hẳn lượng
học sinh trung bình hoặc yếu.
Mặc dù kết quả chưa thật mỹ mãn, nhưng tôi nghĩ : để có được thành quả
này tôi đó không ngừng học tập của đồng nghiệp, cố gắng rèn luyện khắc phục
mọi khó khăn yếu kém của mình cùng học sinh nỗ lực phấn đấu.

Việc giúp các em nắm vững kiến thức toán học lớp Một, làm nền tảng
học các lớp trên. Giúp ích cho các em có được những kiến thức vững chắc áp
dụng vào thực tế cuộc sống. Từ đó, tôi rút ra được một số kinh nghiệm cho bản
thân :
- Luôn trau dồi trình độ chuyên môn, tích cực rèn luyện để có vốn kiến
thức giảng dạy.
- Phân loại từng đối tượng để có biện pháp giúp đỡ từng em cụ thể, tránh
giảng dạy chung chung.
- Động viên, khuyến khích học sinh phát huy tính tích cực, khen ngợi kịp
thời trước mỗi thành công của học sinh.
- Kết hợp chặt chẽ mối quan hệ gia đình – nhà trường để nâng cao chất
lượng học tập của các em.
- Giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao,
năng nổ với công tác giảng dạy.


Phần III : Một số đề xuất để áp dụng sáng kiến.
- Đối với giáo viên Tiểu học: Phải kiên trì thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học. Cần nắm bắt rõ năng lực học tập của từng đối tượng học sinh để
giảng dạy có hiệu quả. Tự học và tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ
của bản thân góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
- Đối với học sinh: Các em học sinh phải thực hiện tốt bốn nhiệm vụ của
học sinh, tích cực học tập và rèn luyện.
- Vì thời gian nghiên cứu xen kẽ quá trình dạy chính khoá nên việc
nghiên cứu còn giới hạn trong phạm vi một lớp do tôi phụ trách .
- Học sinh về nhà ít thời gian nghiên cứu thêm nên phần lớn chỉ phụ
thuộc vào bài tập được giao trên lớp.
- Tài liệu tham khảo ít nên phạm vi nghiên cứu có phần hạn chế.
- Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm ra biện pháp tối ưu nhất giúp các em
giải toán có lời văn một cách dễ dàng hơn và hiệu quả cao nhất.

- Quá trình nghiên cứu và cách tính nhẩm (không nhớ) trong phạm vi
100 theo chương trình sách giáo khoa tôi nhận thấy về cơ bản nội dung sách
giáo khoa và chương trình khá phù hợp.Tất nhiên để có dược kinh nghiệm dạy
tính nhẩm (không nhớ) trong phạm vi 100 cho HS lớp 1, người giáo viên phải
dày công nghiên cứu tài liệu và theo dõi HS qua nhiều năm, nắm bất được
điểm yếu của HS để tập trung khắc phục. Có như vậy việc giảng dạy và giáo
dục mới thành công như mong muốn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đúc rút được qua
quá trình giảng dạy. Tuy nhiên do thời gian và năng lực có hạn chắc hẳn sẽ có
những thiếu sót.
Rất mong sự góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp, BGH nhà trường và
của các cấp quản lý để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn và
có hiệu quả thiết thực hơn trong công tác giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Nam Định, ngày 26 tháng 5 năm 2015
Người viết sáng kiến

Vũ Thị Liên
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG:
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
.............................................................................................................................




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×