Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

NHỮNG ĐÓNG góp của đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI đối với PHÁT TRIỂN KINH tế VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.41 KB, 42 trang )

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG


- Khái quát chung về kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng
-Quá trình hình thành vùng đồng bằng sông Hồng
Vị trí địa lý: Vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) nằm ngay cạnh
phía Nam của đường Bắc chí tuyến, giữa vĩ độ 22°00' và 21°30' Bắc và
kinh độ 105°30' và 107°00'Đông. Diện tích tự nhiên là 23.336 km2, chiếm
7,1% diện tích đất của cả nước và dân số chiếm 22,7% dân số của cả nước.
Mật độ dân số trên 1 km2 là 961 người, cao nhất so với các vùng khác trong
cả nước và có thể là một trong những vùng nông thôn có mật độ dân số cao
nhất thế giới. (Mật độ bình quân của cả nước là 268 người/km 2). Mật độ
dân số của vùng ĐBSH cao gấp 3,58 lần so với cả nước và 1,57 lần so với
vùng có mật độ dân số đứng thứ hai là Đông Nam Bộ. Trong số 8 tỉnh,
thành phố của cả nước có mật độ dân số trên 1.000 người/km 2 thì riêng
Vùng ĐBSH đã có 7 tỉnh, thành phố. Phía Bắc và Tây Bắc giáp trung du và
miền núi, giàu tài nguyên khoáng sản và rừng, phía Đông giáp Vịnh Bắc
Bộ, có nguồn lợi hải sản phong phú và có khả năng có dầu khí, phía Nam
giáp Bắc Trung Bộ, giàu vật liệu xây dựng và kim loại quý.
Theo số liệu thống kê đến hết năm 2014, Vùng ĐBSH có 2 thành
phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội và Hải Phòng; 09 thành phố trực
thuộc tỉnh; 16 quận, 6 thị xã, 96 huyện; 364 phường; 122 thị trấn và 1.965
xã. Khu trung tâm của vùng ĐBSH rất bằng phẳng, phần lớn nằm ở độ cao
từ 0,4 m đến 12 m so với mực nước biển, với 56% có độ cao thấp hơn
2km.Đơn vị hành chínhgồm 11 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Bắc Ninh, Hà
Nam, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Quảng
Ninh, Thái Bình, Vĩnh Phúc.
Về giao thông: ÐBSH giữ vai trò cửa ngõ phía Bắc của Tổ quốc; hệ


thống giao thông hiện có như: Mạng lưới đường bộ, đường sông, đường
biển, đường hàng không, đường sắt, cảng biển Hải Phòng, cảng hàng không
quốc tế sân bay Nội Bài - Hà Nội,... là những đầu mối nối liền giữa ÐBSH


với các vùng kinh tế khác trong nước và mở rộng quan hệ giao lưu với các
nước trong khu vực và thế giới. Ðịa bàn ÐBSH lại "cận kề" với nước bạn
Trung Quốc (thị trường to lớn của cả thế giới) và "cách không xa" các nước
vùng Ðông - Bắc Á.
Về tài nguyên thiên nhiên: Trước hết, ở đây có các vùng sinh thái đa
dạng, có cả đồng bằng, trung du và miền núi; có đồng ruộng màu mỡ với
đồng bằng châu thổ sông Hồng. Những vùng sinh thái phong phú là điều
kiện cơ bản để phát triển nền sản xuất hàng hóa nông - lâm - ngư nghiệp
toàn diện. Nhờ đó, ÐBSH được mệnh danh là vựa lúa; hằng năm, tổng sản
lượng lương thực có hạt, thực phẩm và nhiều loại nông sản khác đứng thứ
hai của cả nước (sau đồng bằng sông Cửu Long); đã góp phần quan trọng
vào việc bảo đảm an ninh lương thực và hàng hóa nông sản xuất khẩu.
Trong vùng có một số tài nguyên khoáng sản với trữ lượng rất lớn như:
than đá chiếm 98%, cao lanh chiếm 40%, đá vôi chiếm 25% so với tổng trữ
lượng của cả nước.
Về con người: Vùng ÐBSH có nguồn nhân lực lớn, trình độ dân trí
cao, tập trung đội ngũ trí thức giỏi, nhân dân có truyền thống lao động cần
cù và sáng tạo. Vùng đã tập trung khoảng 26% số cán bộ có trình độ cao
đẳng và đại học, 72% số cán bộ có trình độ trên đại học, 23,6% lực lượng
lao động kỹ thuật của cả nước. Có gần 100 trường cao đẳng, đại học, 70
trường trung học chuyên nghiệp, 60 trường công nhân kỹ thuật và 40
trường dạy nghề; hàng trăm viện nghiên cứu chuyên ngành, trong đó có
nhiều viện đầu ngành, hơn 20 bệnh viện đầu ngành, là một trong ba trung
tâm y tế chuyên sâu của cả nước; 100% số tỉnh, thành phố đã hoàn thành
phổ cập tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi quy định. Thực tế cho

thấy, vùng ÐBSH dẫn đầu các vùng trong cả nước về số lượng, chất lượng
nguồn nhân lực và khả năng nghiên cứu triển khai khoa học, công nghệ,
giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân.


- Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bằng Sông Hồng
Vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng có vị trí và vai trò đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Trong những
năm qua, vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng đã đạt được những thành tựu
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội như sau:
- Về sản xuất nông nghiệp: Từ nền nông nghiệp lúa nước độc canh,
đến nay cơ cấu kinh tế của vùng đã có những thay đổi đáng kể, nhưng vẫn
mang sắc thái của nền nông nghiệp nhỏ bé, lạc hậu, độc canh. Đất nông
nghiệp chiếm 50,35% diện tích đất tự nhiên. Trong đó:
+ Cây lương thực 1,2 triệu ha (14,0% diện tích đất nông nghiệp cả
nước), sản lượng lương thực đạt 7,20 triệu tấn (16,65% cả nước); đất trồng
lúa là 1,15 triệu ha (15,6% cả nước), sản lượng là 6,77 triệu tấn (17,5% cả
nước). Cây hoa màu chỉ chiếm 5% chủ yếu là ngô (diện tích 91.600 ha, sản
lượng 404,1 ngàn tấn), còn lại là khoai, sắn trên các vùng đất bãi ven sông
hoặc vùng đất cao luân canh với các cây ngắn ngày khác.
+ Cây công nghiệp hàng năm nhiều nhất là đay (55,1%) và cói
(41,28%) cả nước. Ngoài ra còn có đỗ tương, lạc, mía, thuốc lá, dâu
tằm,.v.v.
+ ĐB sông Hồng có những vùng thâm canh, chuyên canh rau quả
xuất khẩu lớn nhất cả nước trong vụ Đông-Xuân (đây là thế mạnh độc đáo
của vùng với 3 tháng mùa đông lạnh), phân bố tập trung ở hầu hết các tỉnh
trong vùng. Diện tích rau đậu các loại khoảng trên 80,0 vạn ha. Về chăn
nuôi, đàn lợn gắn với vùng sản xuất lương thực .
- Về công nghiệp: Là vùng công nghiệp phát triển vào loại sớm nhất
ở nước ta, tập trung nhiều xí nghiệp công nghiệp hàng đầu cả nước. Những

ngành quan trọng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GDP là công nghệ chế
biến lương thực - thực phẩm (20,9%), công nghiệp nhẹ (dệt, may, da)
19,3%, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (17,9%), cơ khí (thiết bị
máy móc, điện tử, điện) 15,6%, hóa chất - phân bón - cao su (8,1%). Sản


phẩm công nghiệp cung cấp cho nhu cầu của vùng, cho các tỉnh phía Bắc
và cả nước. Một số khu, cụm công nghiệp được hình thành có ý nghĩa lớn
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng như Hà Nội, Hải Phòng, Hải
Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc hay khu công nghệ cao Hòa Lạc - Xuân Mai.
Các KCN có quyết định thành lập ở ĐBSH nổi bật như:
- Hà Nội (KCN Đài Tư, KCN Sài Đồng B, KCN Daewoo-Hanel,
KCN Bắc Thăng Long), Hà Tây (KCN Bắc Phù Cát).
- Hải Phòng (KCN Nomura, KCN Đình Vũ, KCN Hải Phòng 96).
- Hải Dương (KCN Đại An và KCN Phúc Điền).
- Hưng Yên (KCN Phố Nối).
- Bắc Ninh (KCN Tiên Sơn, KCN Quế Võ).
- Vĩnh Phúc (KCN Kim Hoa).
- Thái Bình (KCN Phúc Khánh).
- Các ngành dịch vụ, thương mại thực chất mới đang phát triển.
+ Về giao thông vận tải: Vùng có nhiều đầu mối quan trọng nối với
các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Là cửa khẩu quốc tế hàng đầu của cả nước
(sân bay Nội Bài, cảng biển Hải Phòng). Mật độ đường ô tô 1,18 km/km 2
(cả nước là 0,55 km/km2), đường sắt 29 km/100 km 2 (cả nước là 0,8
km/100 km2), đường sông có giá trị vận tải 2.046 km. Hàng hóa vận
chuyển và luân chuyển (33,0 % và 36,01% cả nước); Hành khách vận
chuyển và luân chuyển (32,15% và 17,10 % của cả nước). Là trung tâm
thương mại lớn của cả nước, vùng đảm nhận phân phối hàng hóa cho các
tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung. Tổng mức bán lẻ chiếm 26% cả
nước. Là trung tâm tài chính, ngân hàng, xuất - nhập khẩu, du lịch, thông

tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ lớn của cả nước. Là vùng nổi trội hơn
hẳn các vùng khác về dịch vụ bưu điện và kinh doanh tiền tế (tín dụng,
ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc, xổ số). Về dịch vụ bưu điện, thì trên 70% là
cung cấp cho ngoài vùng.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế của vùng đang có sự
chuyển dịch theo hưởng tăng tỉ trọng của khu vực công nghiệp - xây dựng
và dịch vụ, giảm tỉ trọng của khu vực nông nghiệp và công nghiệp.


- Khái quát chung về FDI ở vùng đồng bằng sông Hồng
- Khái quát chung về FDI tại Việt Nam
- Tình hình thu hút vốn FDI vào Việt Nam
Năm 1977, Việt Nam đã ban hành Điều lệ Đầu tư nước ngoài nhưng
chỉ có Hiệp định về thành lập Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt - Xô giữa
Việt Nam với Liên Xô năm 1981 được thực hiện có kết quả. Đại hội Đảng
lần thứ VI (năm 1986) chủ trương đổi mới theo thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN và mở cửa với bên ngoài. Ngày 29/12/1987, Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua. Kể từ đó cho đến
nay, Việt Nam đã đạt được kết quả khả quan trong thu hút FDI. Tính đến
hết năm 2014, đã có 18.740 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký
(cả cấp mới và tăng thêm) đạt 282,37 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 122,25 tỷ
USD (chiếm 43,3% vốn đăng ký). Trong đó vốn thực hiện của nước ngoài
là 97,62 tỷ USD, vốn thực hiện phía Việt Nam là 24,63 tỷ USD.
Căn cứ biến động nguồn vốn FDI vào Việt Nam, có thể phân chia
quá trình phát triển của FDI thành bốn (04) giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (1988-1997): Tổng vốn đăng ký đạt 35,6 tỷ USD, vốn
thực hiện là 13,37 tỷ USD (chiếm 37,5% vốn đăng ký).Ba năm 1988 –
1990 được coi là thời kỳ khởi động. Từ năm 1991 đã diễn ra làn sóng FDI
thứ nhất với nhịp độ thu hút tăng khá nhanh, bình quân hàng năm vốn đăng
ký tăng khoảng 50%, vốn thực hiện tăng 45%, cao hơn mức tăng trung bình

của tổng vốn đầu tư xã hội (23%). Nguyên nhân là do những lợi thế của
Việt Nam như ổn định chính trị, chi phí lao động thấp, triển vọng phát triển
kinh tế, vị trí địa lý thuận lợi, thị trường tiêu thụ tiềm năng, đặc biệt đây là
thời kỳ mới mở cửa nên Việt Nam thu hút sự chú ý của nhiều nhà đầu tư.
- Giai đoạn 2 (1998-2004): Tổng vốn đăng ký đạt 23,88 tỷ USD, vốn
thực hiện là 17,84 tỷ USD (chiếm 75% vốn đăng ký). Vốn thực hiện bình
quân hàng năm là 2,54 tỷ USD.Đây là thời kỳ suy thoái của FDI do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính Châu Á và không loại trừ ảnh hưởng phụ


của việc sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, trong đó có yêu cầu
nâng tỷ tệ nội địa hoá, điều chỉnh định hướng thu hút FDI hướng về xuất
khẩu thay vì thay thế nhập khẩu, thay đổi ưu đãi thuế...
- Giai đoạn 3 (2005-2008): Diễn ra làn sóng FDI thứ hai nhờ sự tăng
trưởng cao và ổn định của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng, cùng với việc thường xuyên cải thiện môi trường đầu tư và những tác
động tích cực từ việc ký Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp
định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư giữa Việt Nam và Nhật bản và Việt
Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Tổng vốn đăng ký giai đoạn
này đạt 111,918 tỷ USD, vốn thực hiện là 26,934 tỷ USD (chiếm 24% vốn
đăng ký), gấp 4,68 vốn đăng ký và 1,5 lần vốn thực hiện so với giai đoạn
trước.
- Giai đoạn 4 (2009-2014): Do tác động của cuộc suy thoái toàn cầu
và khủng hoảng nợ công tại một số quốc gia và khu vực trên thế giới, cùng
những yếu kém trong nội tại nền kinh tế, một số nguồn lực có tính cạnh
tranh giảm dần (tài nguyên, lao động...) nên dòng FDI đã giảm sút mạnh từ
2009 đến nay. Vốn đăng ký giai đoạn này đạt 97,3 tỷ USD, vốn thực hiện
đạt 53,96 tỷ USD (chiếm 55,5% vốn đăng ký).
Qua hơn 25 năm thu hút, đến nay FDI đã trải rộng khắp cả nước, vốn
FDI đã có tại tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước. Theo số liệu thống

kê, hiện tại Đông Nam Bộ là vùng thu hút được nhiều FDI nhất, tiếp theo
lần lượt là đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung;
Đồng bằng sông Cửu Long. Số liệu thống kê FDI theo từng vùng kinh tế
trên cả nước được minh hoạ trong hình.
Số liệu thống kê cho thấy, khu vực Đông Nam Bộ với điều kiện cơ
sở vật chất và lao động trình độ cao, điều kiện giao thông thuận lợi, tài
nguyên thiên nhiên phong phú đang thu hút được lượng vốn FDI lớn hơn
rất nhiều lần so với các khu vực như khu vực trung du và miền núi phía
Bắc và Tây Nguyên.


-Vai trò của FDI đối với kinh tế Việt Nam
Sau hơn 25 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước
ngoài với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) ngày càng phát huy vai trò quan trọng
và có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam. Việc thu hút, sử dụng ĐTNN thời gian qua cơ bản đã đáp ứng những
mục tiêu đề ra về thu hút vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc
làm, tăng năng suất lao động, tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý
hiện đại. Điều này khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước
trong việc phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, ĐTNN góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước
Đến hết tháng 12 năm 2014, cả nước có 18.740 dự án ĐTNN còn
hiệu lực, tổng vốn đăng ký 282,37 tỷ USD, vốn thực hiện 122,25 tỷ USD
(chiếm 43,3% vốn đăng ký. ĐTNN là khu vực phát triển năng động nhất
với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước: năm 1995 GDP
của khu vực ĐTNN tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; tốc
độ này tương ứng là 11,44% và 6,79% (2000), 13,22% và 8,44% (2005),
8,12% và 6,78% (2014). Tỷ trọng đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP

tăng dần, từ 2% GDP (1992), lên 12,7% (2000), 16,98% (2006) và 19,55%
(2014). So sánh với mức trung bình của thế giới, đóng góp của khu vực
ĐTNN vào GDP của Việt Nam cao hơn 7,7 điểm % cho thấy ảnh hưởng
của ĐTNN đối với nền kinh tế của Việt Nam là khá lớn. Cụ thể:
ĐTNN bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội: vốn ĐTNN thực hiện
tăng nhanh qua các thời kỳ, từ khoảng 20,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng
vốn đầu tư xã hội (1991- 2000) lên 69,47tỷ USD, chiếm 24,75% tổng vốn
đầu tư xã hội (2001- 2014). Tỷ trọng khu vực ĐTNN trong cơ cấu kinh tế
giai đoạn 2000-2014 tăng 5,7%.


Góp phần quan trọng vào xuất khẩu: trước năm 2001, xuất khẩu của
khu vực ĐTNN chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ năm
2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần
trở thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm khoảng 66,8% tổng kim
ngạch xuất khẩu năm 2014.
ĐTNN góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng
giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng
hàng chế tạo1, mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là sang Hoa Kỳ, EU, làm
thay đổi đáng kể cơ cấu xuất khẩu; góp phần ổn định thị trường trong nước,
hạn chế nhập siêu thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản
phẩm chất lượng cao do doanh nghiệp trong nước sản xuất thay vì phải
nhập khẩu như trước đây.
Đóng góp vào nguồn thu ngân sách: đóng góp của ĐTNN vào ngân
sách ngày càng tăng, từ 1,8 tỷ USD (1994-2000) lên 14,2tỷ USD (20012010). Năm 2014, nộp ngân sách của khu vực ĐTNN (không kể dầu thô) là
4,3 tỷ USD, chiếm 12,6% tổng thu ngân sách (19,7% tổng thu nội địa, trừ
dầu thô).
Thứ hai, ĐTNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH
Hiện nay, 58,4% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp xây dựng với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước, tốc

độ tăng trưởng đạt bình quân gần 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng
toàn ngành, tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình
thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông,
khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng...,
góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa

11.Trước năm 2003, dầu thô chiếm tới gần một nửa xuất khẩu của khu vực ĐTNN. Từ năm
2007, tỷ lệ dầu thô trong tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ còn khoảng 7%.


sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số
công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt
tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là
các dự án đầu tư vào phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập
quán canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Khu vực ĐTNN đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất
lượng cao như khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê, ngân hàng, bảo hiểm,
kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, lô-gi-stíc, siêu thị... Các dịch vụ này
cũng góp phần tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu
dùng, kích thích hoạt động thương mại nội địa và góp phần tăng kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa.
Thứ ba, ĐTNN tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
thay đổi cơ cấu lao động
Hiện nay khu vực ĐTNN tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và
khoảng 3 - 4 triệu lao động gián tiếp, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hướng CNH, HĐH. Doanh nghiệp ĐTNN được xem là
tiên phong trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình
độ của công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý, trong đó một bộ phận đã
có năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên
gia nước ngoài. Ngoài ra, ĐTNN đóng vai trò quan trọng trong việc nâng

cao chất lượng lao động thông qua hiệu ứng lan tỏa lao động cho các bên
liên quan.
Thứ tư, ĐTNN là kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần
nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế
Khu vực ĐTNN sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ
tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Từ năm
1993 đến nay, cả nước có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được
phê duyệt/đăng ký, trong đó có 605 hợp đồng của doanh nghiệp ĐTNN,


chiếm 63,6%2. Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực
ĐTNN đã góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt
Nam, nâng cao năng lực công nghệ trong nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ
chuyển giao công nghệ, công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hiệu quả cao
nhất. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một số ngành đã thực hiện tốt
chuyển giao công nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế
tạo, ô tô, xe máy, dệt may và giày dép, trong đó viễn thông, dầu khí được
đánh giá có hiệu quả nhất.
Tác động lan tỏa công nghệ của khu vực ĐTNN được thực hiện
thông qua mối liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp ĐTNN với doanh
nghiệp trong nước, qua đó tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước tiếp
cận hoạt động chuyển giao công nghệ. Nhìn chung, khu vực ĐTNN có tác
động lan tỏa gián tiếp tới khu vực doanh nghiệp sản xuất trong nước cùng
ngành và doanh nghiệp dịch vụ trong nước khác ngành. Bên cạnh đó, thông
qua mối quan hệ với doanh nghiệp ĐTNN, doanh nghiệp trong nước ứng
dụng công nghệ sản xuất tương tự để sản xuất sản phẩm/dịch vụ thay thế và
sản phẩm/dịch vụ khác để tránh cạnh tranh. Đồng thời có tác động tạo ra
các ngành sản xuất, dịch vụ khác trong nước để hỗ trợ cho hoạt động của
các doanh nghiệp ĐTNN.
Thứ năm, ĐTNN có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả

ba cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm
Nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam đủ sức cạnh tranh và có chỗ
đứng vững chắc trên các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Kết quả phân
tích các chỉ tiêu về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị
trường (đầu vào và tiêu thụ sản phẩm) và năng lực tham gia mạng sản xuất
toàn cầu cho thấy năng lực cạnh tranh của khu vực ĐTNN cao hơn so với

2 Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ


khu vực trong nước. Đồng thời, khu vực ĐTNN đã và đang có tác động
thúc đẩy cạnh tranh của khu vực trong nước nói riêng và của nền kinh tế
nói chung thông qua thúc đẩy năng suất, tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện
cán cân thanh toán quốc tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ lao động
và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ sáu, ĐTNN góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị
doanh nghiệp, tạo thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh

Thực tiễn ĐTNN đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về công
tác quản lý kinh tế và doanh nghiệp, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc
đẩy quá trình hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, công
khai, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế; đào tạo được đội ngũ cán bộ
quản lý phù hợp với xu thế hội nhập.
Thứ bảy, ĐTNN đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế
Hoạt động thu hút ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập
ASEAN, ký Hiệp định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ,
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và
Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản và nhiều nước.
- Khái quát chung về FDI ở vùng đồng bằng sông Hồng

-Thực trạng thu hút FDI tại vùng đồng bằng sông Hồng
Đồng bằng sông Hồng là vùng đã có chủ trương thu hút vốn FDI
ngay từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành vào cuối năm 1987.
Ngay trong năm 1988, vùng đã thu hút được 3 dự án với tổng vốn đầu tư là
1,78 tỷ USD. Tính từ năm 1988 đến hết tháng 5/2015, ĐBSH đã thu hút
được 5.536 dự án với tổng vốn đầu tư là 66,078 tỷ USD, tổng vốn thực hiện
là 20,49 tỷ USD.
Trong thời kỳ từ 1988 đến 2007, vùng BĐBSH đã thu hút được 2886
dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 23,1 tỷ USD (chiếm 34,1% số dự án và
28,4% tổng vốn FDI cả nước). Bình quân mỗi năm có 241 dự án được cấp


phép với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD. Trong giai đoạn 2009-2014, số dự
án đầu tư được đăng ký mới vẫn ở mức cao là 1.645 dự án FDI với tổng
vốn đầu tư là 33,02 tỷ USD. Như vậy, trong giai đoạn 2009-2014, bình
quân mỗi năm có 274 dự án được cấp phép. Có thể thấy trong giai đoạn
2009-2014 đã có sự nhảy vọt nhanh chóng cả về số lượng các dự án được
đăng ký mới cũng như tổng số vốn đầu tư khi so sánh với giai đoạn 1988 2007.
Tuy nhiên, nhịp độ đầu tư nước ngoài vào khu vực ĐBSH không
đồng đều qua các năm. Giai đoạn 1996 – 2000 chỉ có 555 dự án tuy nhiên
tổng vốn đăng ký lên tới 7,5 tỷ USD, do giai đoạn này có 1 dự án rất lớn
được cấp phép của Công ty TNHH phát triển khu phố mới Nam Thăng
Long với tổng vốn đầu tư lên tới 2,1 tỷ USD. Giai đoạn 2001-2005 số dự
án được cấp phép đã tăng hơn hai lần so với giai đoạn trước với số dự án là
1209 dự án, tuy nhiên tổng vốn đăng ký giảm hơn với 5,26 tỷ USD. Bắt
đầu sang năm 2006 xu hướng đã thể hiện xu hướng phục hồi khá rõ rệt
trong thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực, trong vòng 2 năm
2006, 2007 đã có 1122 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư 10,4 tỷ
USD (bằng 92,8% số dự án và tăng 97,3% tổng vốn đầu tư đăng ký so với
giai đoạn 2001 – 2005). Trong giai đoạn 2009-2014 chứng kiến bước nhảy

vọt về số lượng các dự án được đăng ký mới với 1450 dự án mới.
* So sánh tình hình thu hút FDI của vùng ĐBSH với các vùng khác
trong cả nước:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo vùng kinh tế

S
TT
1

Vùng

Số dự án

Đồng bằng sông Hồng

5536

Tổng
vốn đầu tư
đăng ký (tỷ
USD)
66,078


2

Trung du và miền núi
phía Bắc

442


7,856

3

Bắc Trung Bộ và duyên
hải miền Trung

972

52,482

4

Tây Nguyên

137

0,785

5

Đông Nam Bộ

8962

102,973

6


Đồng bằng sông Cửu
Long

838

11,136

Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, luỹ kế các dự án
có hiệu lực đến hết năm 2014 thì vùng ĐBSH đứng thứ 2 trong cả nước về
số lượng các dự án FDI với số lượng là 5.536 dự án và tổng vốn đầu tư
đăng ký là 66,078 tỷ USD, xếp sau khu vực Đông Nam Bộ (8962 dự án
FDI, 102, 973 tỷ USD), gấp hơn 10 lần so với vùng trung du và miền núi
phía Bắc (442 dự án, 7,856 tỷ USD) và gấp hơn 33 lần so với khu vực thấp
nhất cả nước là vùng Tây Nguyên (137 dự án, 0,78 tỷ USD). Qua đó, có thể
thấy vùng ĐBSH là vùng có vị trí quan trọng chiến lược trong việc thu hút
vốn đầu tư nước ngoài do vùng này có nhiều lợi thế hơn về vị trí địa lý,
nguồn lao động, cơ sở vật chất... so với nhiều vùng còn khó khăn trên cả
nước như vùng trung du và miền núi phía Bắc hay như vùng Tây Nguyên.
-Cơ cấu của FDI tại vùng đồng bằng sông Hồng
 Cơ cấu FDI theo ngành, lĩnh vực kinh doanh
Đầu tư nước ngoài vào vùng ĐBSH tập trung hầu hết trong lĩnh vực
công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Trong giai đoạn 1996 - 2007, trong đó
lĩnh vực công nghiệp và xây dựng dẫn đầu với 1896 dự án, tổng vốn đầu tư
là 11,48 tỷ USD (chiếm 65,7% số dự án và 49,6% tổng vốn đăng ký). Tiếp
theo là lĩnh vực dịch vụ với 816 dự án, tổng vốn đầu tư là 11,2 tỷ USD
(chiếm 28,3% số dự án và 48,6% tổng vốn đăng ký), vốn đầu tư trong lĩnh


vực này phần lớn tập trung vào các dự án bất động sản, khách sạn – du lịch,
chiếm tới 63,5%. Còn lại là các dự án trong lĩnh vực Nông, lâm nghiệp với

tỷ lệ rất nhỏ, chỉ có 174 dự án, tổng vốn đầu tư 414,9 triệu USD (chiếm 6%
số dự án và 1,8% vốn đầu tư).
Trong giai đoạn 2009 - 2014,lĩnh vực công nghiệp và xây dựng dẫn
đầu với 1183 dự án, tổng vốn đầu tư là 15,264 tỷ USD (chiếm 56,04% số
dự án và 79,3% tổng vốn đăng ký). Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với 923
dự án, tổng vốn đầu tư là 3,96 tỷ USD (chiếm 43.72% số dự án và 20,6%
tổng vốn đăng ký), vốn đầu tư trong lĩnh vực này phần lớn tập trung vào
các dự án bất động sản, khách sạn – du lịch, chiếm tới 63,5%. Còn lại là
các dự án trong lĩnh vực Nông, lâm nghiệp với tỷ lệ rất nhỏ, chỉ có 5 dự án,
tổng vốn đầu tư 12,5 triệu USD (chiếm 0.24% số dự án và 0.06% vốn đầu
tư).
Có thể thấy, trong giai đoạn 2009 - 2014 đã có sự chuyển hướng của
nguồn vốn FDI từ lĩnh vực nông nghiệp sang 2 lĩnh vực còn lại là công
nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, đi ngược lại xu hướng chung hiện nay, tại
vùng ĐBSH đang chứng kiến tốc độ tăng nhanh chóng vốn FDI vào khu
vực công nghiệp - xây dựng, trong khi đó khu vực dịch vụ lại có sự giảm
đầu tư của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khi so sánh với giai đoạn 1996 2007.
- Cơ cấu FDI theo lĩnh vực kinh doanh giai đoạn 2009-2014
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Chuyên ngành

CN chế biến,chế tạo
SX,ppđiện,khí,nước,đ.hòa
Cấp nước;xử lý chất thải
Xây dựng
Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa
KD bất động sản
Thông tin và truyền thông
Dvụ lưu trú và ăn uống
Giáo dục và đào tạo

Số dự án
786
21
11
372
269
36
137
54
30

Tổng vốn đầu
tư (USD)
9669147149
4420143238
1171115770
1147614600
650530611
571564319
537638774

297746727
209630085

Vốn điều lệ
(USD)
2925783458
997412006
262559990
392201588
408054625
207721592
107543554
152041464
44086944


10
11
12
13
14
15
16
17
18

HĐ chuyên môn, KHCN
Y tế và trợ giúp XH
Dịch vụ khác
Vận tải kho bãi

Khai khoáng
Tài chính,n.hàng,bảo hiểm
Nông,lâm nghiệp;thủy sản
Hành chính và dvụ hỗ trợ
Nghệ thuật và giải trí

298
8
30
27
4
6
5
10
7

200389479
180715000
60426389
52260990
27519386
16414474
12510000
10345773
5155000

109687566
42615000
20328510
24832613

15849386
16234474
8260000
4135773
2110000

- Cơ cấu FDI phân chia theo ngành trong giai đoạn 2009-2014
S

Số
dự án

Lĩnh vực

TT

Công nghiệp và xây
dựng
Nông nghiệp, lâm
2
nghiệp
3
Dịch vụ
 Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư
1

118
3

Tổng

vốn đầu tư (tỷ
USD)
15,264

5

0,013

923

3,964

Trong thời kỳ này đã có 59 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào
khu vực ĐBSH, trong đó phần lớn đến từ các nước đến từ Châu Á; còn lại
là các nước khác. 5 nhà đầu tư lớn nhất vào khu vực ĐBSH là Nhật Bản,
Hồng Kông, Hàn Quốc, Hà Lan, Malaysia.
- Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư giai đoạn 2009-2014
T

Đối tác

T
1
2

Nhật Bản
Hồng

7
8

9

Tổng vốn đầu tư
(USD)
5066592867

65

3313236684

Hàn Quốc
Hà Lan
Malaysia
Singapore
Trung

759
19
38
121

3154133226
2236222183
1243075838
913421488

182

648679146


Thái Lan
Síp

30
2

431959453
376050000

Kông

3
4
5
6

Số
dự án
455

Quốc


1
0

Đài Loan
Các quốc
1
gia khác: 49 quốc

1
gia

83

368313278

357

1489183601

 Cơ cấu FDI theo địa phương trong vùng
Trong giai đoạn 2009 - 2014, các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế
xã hội thuận lợi là những địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI vùng
ĐBSH. Trong số 11 địa phương vùng đồng bằng sông Hồng, Hà Nội là địa
phương dẫn đầu trong thu hút ĐTNN với 1319 dự án và tổng vốn đăng ký
là 3,06 tỷ USD (chiếm 62,48% số dự án và 20,1% tổng vốn đầu tư). Tiếp
theo là Bắc Ninh với 287 dự án, tổng vốn đầu tư là 2,02 tỷ USD (chiếm
13,6% số dự án và 10,5% vốn đầu tư). Hải Phòng mặc dù là địa phương
đứng thứ 3 về số lượng các dự án đầu tư (123 dự án, chiếm 5,83% số dự
án) nhưng đây là địa phương xếp thứ 1 về tổng số vốn đầu tư (4,4 tỷ USD,
chiếm 22,87% tổng vốn đầu tư toàn khu vực).
-Cơ cấu FDI theo địa phương trong vùng ĐBSH
T
T

Địa Phương

Số
dự án


124016411
5
144730353
7

16

93668429

48683858

11

51432700

10562897

Hải Phòng

2

Hà Nội

3

Hải Dương

80


4

Quảng Ninh

26

5

Bắc Ninh

287

6

Hưng Yên

126

7

Vĩnh Phúc

47

8

Hà Nam

57


9
1

Ninh Bình

19

Nam Định
Thái Bình

1

Vốn điều
lệ (USD)

44412847
66
39061387
89
33420519
86
29713020
44
20230400
32
10647282
70
56569863
0
45559800

0
32592411
8

1

0

Tổng
vốn đầu tư
(USD)

123
131
9

757701786
800596500
477493838
461976560
207742381
144327000
144906071


1

 Cơ cấu FDI hình thức đầu tư
Đầu tư nước ngoài vào khu vực Đồng bằng sông Hồng theo tất cả
các hình thức đầu tư: 100% vốn nước ngoài, Liên doanh, Hợp doanh, Công

ty cổ phần và Công ty Mẹ Con. Trong đó, tập trung nhiều nhất là theo hình
thức 100% vốn nước ngoài với 1740 dự án với tổng vốn đầu tư là 12,19 tỷ
USD (chiếm 82,42% số dự án và 63,38% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo là
hình thức liên doanh với 355 dự án, tổng vốn đầu tư là 2,28 tỷ USD (chiếm
16,81% số dự án và 11,85% tổng vốn đầu tư).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp trong giai đoạn 2009 2014 tại khu vực ĐBSH phân theo hình thức đầu tư
T

Hình thức đầu


T

100% vốn nước

1

ngoài

2

Hợp đồng
BOT,BT,BTO

3
4
5

Số
Tổng vốn

dự án đầu tư (tr USD)
174
0

Liên doanh
Công ty cổ phần
Hợp đồng hợp tác

Vốn điều lệ
(tr USD)

1.2191

3.817,2

4

4.716

1101,4

355

2.283

798,8

11

51,3


23,6

1

0,205

0,205

KD

- Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh
tế khu vực đồng bằng sông Hồng
- Đóng góp của FDI vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế toàn vùng
Thứ nhất, khuvựccóvốnFDIcótốc độtăngtrưởng giátrịgiatăngkhá
caovàlàkhuvựcpháttriểnnăng

động

nhất.

Tốcđộtănggiátrịgia

tăngcủakhuvựcnàyluôncaohơnmứctrung bình của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng của khu vực vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 2009 - 2014 đạt khoảng
9,2 - 10,4% chậm hơn tốc độ tăng trưởng GDP của toàn Vùng đạt khoảng
11%; đóng góp khoảng 42% vào tăng trưởng chung cho khu vực FDI của
cả nước và 40% vào tăng trưởng chung của toàn vùng đồng bằng sông
Hồng.Tỷ trọng GDP khu vực FDI của vùng chiếm 42,85% (năm 2009);



78,23% (năm 2011), 63,96% (năm 2013) và 70,36% (năm 2014) so với
GDP của toàn vùng. Nguyên nhân chính cho sự tăng trưởng nhanh chóng
đó là do các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng đã vận dụng linh hoạt
các chính sách của Nhà nước về thu hút FDI nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư
phát huy hiệu quả các dự án FDI, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế của
các địa phương trong vùng cũng như toàn vùng. Như vậy, khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, có đóng góp lớn vào tăng trưởng và
phát triển kinh tế của vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng và cả nước nói
chung.
- Tổng GDP khu vực FDI của các tỉnh đồng bằng sông Hồng
Địa phương
Hà Nội
Bắc Ninh
Hà Nam
Hải Dương
Hải Phòng
Hưng Yên
Nam Định
Ninh Bình
Quảng Ninh
Thái Bình
Vĩnh Phúc
Tổng

2009
2330,4
126,8
200

1133,6
671
664,53
82,82
23,23
350
73,26
2493,26
9333,7

2011
5664
492
177
2400
1150
700
12,2
110
630,2
100
4189
25216,4

2013
5713
559,18
607,7
3300
3921,36

800
195,07
176,5
912
527,34
5768
55615,97

2014
12220
26192,18
700,2
3700
3487
813
331
194,52
1010
549
5867,5
55064,4

- Đóng góp của FDI vùng ĐBSH (tính theo giá hiện hành)
Chỉ tiêu
1. Tổng GDP của
vùng ĐBSH (tr đô)
2. Tổng GDP khu
vực FDI vùng ĐBSH (tr
đô)
3. Đóng góp vào

GDP vùng đồng bằng sông

20

201

201

20

09

1

3

14

21.
784,72

32.
234,35

42.
669,79

64.
048,33


9.3
33,7

25.
216,4

27.
290

45.
064,4

42.
85%

78.
23%

63.
96%

70.


Hồng (%)
(Tổng GDP FDI
vùng ĐBSH/Tổng GDP
vùng ĐBSH)

36%


Thứ hai, khu vực FDI đã đóng góp đáng kể vào quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành ở vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng tăng tỷ
trọng giá trị sản xuất ngành công nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành
công nghiệp của khu vực FDI ngày càng tăng và chiếm 40,62% so với giá
trị sản xuất ngành công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng năm 2006. Con
số này lần lượt là 42,69% (năm 2009); 44,24% (năm 2011); 43,36% (năm
2012); 49,11% (năm 2013) và 57,38% (năm 2014). So với giá trị sản xuất
chung của vùng, GTSXCN của khu vực FDI chiếm 23,9% (năm 2003);
28,08% (năm 2008) và đạt tỷ lệ cao nhất là 40,18% (năm 2011). Đồng thời,
FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu thành phần ở vùng đồng bằng sông
Hồng: Cơ cấu GTSXCN ở vùng đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn
2009 - 2014 đã có sự dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng GTSXCN khu
vực FDI. GTSXCN của khu vực FDI luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với
khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân ở vùng.
- Đóng góp của FDI vào thu ngân sách toàn vùng
Cũng giống như khu vực FDI của cả nước, khu vực đầu tư nước
ngoài của vùng đồng bằng sông Hồng đóng góp vào thu ngân sách của các
tỉnh trong vùng vào loại thấp. Tuy thu ngân sách của khu vực FDI vùng
đồng bằng sông Hồng đã tăng nhanh từ 19.918 tỷ đồng (năm 2009) lên
30.568 tỷ đồng (năm 2011), lên 46.767tỷ đồng (năm 2013) và lên 49.317 tỷ
đồng (năm 2014) nhưng tỷ trọng đóng góp vào thu ngân sách của mỗi tỉnh
trong vùng tăng không cao, chỉ từ 11,5% (năm 2009) lên 12,16% (năm
2011), 12,82% (năm 2013) và 12,67% (năm 2014). Nguyên nhân của tình
trạng này là các doanh nghiệp FDI đã tận dụng tối đa những chính sách ưu


tiên về miễn giảm thuế của Chính phủ cũng như của các tỉnh trong vùng từ
khâu đầu vào cho đến khâu đầu ra của sản phẩm.
- Đóng góp vào thu ngân sách (TNS) của FDI vùng ĐBSH

Chỉ tiêu
1.TNS vùng
ĐBSH (tỷ đồng)
2.TNS FDI vùng
ĐBSH (tỷ đồng)
3. Tỷ trọng TNS
FDI so với TNS vùng
(%)

2009
173.0
83,6
19.91

2011
251.3
10,2
30.56

7,87

8,02

11.5

2013
364.7
97,19
46.76


12.16

2014
389.2
42,3
49.31

7
12.82

7
12.67

- Đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu toàn vùng
Mặc dù, khu vực FDI của vùng đồng bằng sông Hồng đóng góp
không lớn vào xuất khẩu của cả nước cả về giá trị và tỷ trọng; nhưng trong
phạm vi kinh tế vùng đồng bằng sông Hồng, ta có thể thấy khu vực FDI
đóng góp rất lớn vào giá trị xuất khẩu của toàn vùng. Năm 2009, giá trị
xuất khẩu của khu vực FDI vùng đồng bằng sông Hồng chỉ chiếm 10,39%
giá trị xuất khẩu của khu vực FDI cả nước nhưng lại chiếm 23,8% giá trị
xuất khẩu của toàn vùng. Năm 2013, giá trị xuất khẩu của khu vực FDI
vùng đồng bằng sông Hồng chiếm khoảng 14,57% giá trị xuất khẩu của
khu vực FDI cả nước và chiếm 29,12% giá trị xuất khẩu của toàn vùng.
Ngược lại trong năm 2014, giá trị xuất khẩu của khu vực FDI vùng ĐBSH
chiếm 9.63% so với giá trị xuất khẩu của khu vực FDI cả nước và chiếm
32.18% so với riêng khu vực ĐBSH.
Tóm lại, mặc dù khu vực FDI chỉ đóng góp không lớn vào giá trị xuất
khẩu của cả nước nói chung và khu vực FDI toàn quốc nói riêng. Nhưng trong
giai đoạn 2009 - 2013, ta có thể thấy tỷ trọng của khu vực FDI trong toàn
vùng đã có sự tăng lên nhanh chóng từ 23,8% (năm 2009) lên 29,12% (năm

2013) và 32.18% (năm 2014).
- Đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu của FDI vùng ĐBSH


TT Chỉ tiêu về xuất khẩu
XK cả nước (tr. USD)
1
2
3
4

5

XK khu vực FDI cả
nước (tr. USD)
XK vùng ĐBSH (tr.
USD)
XK FDI vùng ĐBSH
(tr. USD)
% (tỷ trọng) so với XK
cả nước
% (tỷ trọng) so với XK
FDI cả nước
% (tỷ trọng) so với XK
của cả vùng

2009

2011


2013
132.032,
9

2014
122.598,
3

30.372,3 55.124,3

88.160,2

90.646,9

13.262,4 25.159,8

27458,3

27.127,0
9

3156,32

8030,6

7996,99

8729,5

5,53


8,29

6,06

7.12

10,39

14,57

9,07

9.63

23,80

31,92

29,12

32.18

57.096,3 96.905,7

Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của khu vực FDI thay đổi nhanh chóng.
Trong đó, xuất khẩu thủy sản và nông sản của khu vực FDI đã mất vị trí,
thay vào đó là sự tăng lên rất nhanh về tỷ trọng của hàng công nghiệp công
nghệ caoxuất khẩu. Tương tự, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp,
sử dụng nhiều lao động như may mặc, da giày cũng giảm mạnh tỷ

trọng.FDI còn góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng
giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng chế
tạo (điện tử, máy tính và linh kiện, các sản phẩm từ plastic, dây điện và cáp
điện, xe đạp và phụ tùng, sản phẩm chế biến từ sữa và thực phẩm,..), tạo
điều kiện cho nông sản của Việt Nam gia nhập thị trường thế giới, làm tăng
giá trị của nông thủy sản chế biến. Như vậy, xuất khẩu của các doanh
nghiệp FDI chuyển nhanh từ xuất khẩu hàng hóa sử dụng nhiều lao động
sang ngành công nghiệp nặng, chế tác tập trung vốn. Cần chú ý rằng, mặc
dù khu vực FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao, song giá trị xuất khẩu ròng của
khu vực FDI là không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công
nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây truyền lắp ráp có quy mô nhỏ và sử
dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính.


- Đóng góp vào tạo việc làm cho lao động toàn vùng
Lao động đang làm việc tại khu vực FDI của vùng thời kỳ 20092014 tăng khá nhanh. Năm 2009, lao động khu vực FDI có khoảng 264,8
nghìn người chiếm 2,37% lao động của vùng và bằng 17,37% lao động khu
vực FDI cả nước, năng suất lao động đạt 96 triệu đồng/năm. Năm 2011,lao
động khu vực FDI có khoảng 474,4 nghìn người chiếm 4,11% lao động của
vùng và bằng 27,91% lao động khu vực FDI cả nước, năng suất lao động
đạt 195,4 triệu đồng/năm (cao gấp 5,3 lần so với năng suất lao động chung
của vùng). Năm 2013, lao động khu vực FDI có khoảng 556,4 nghìn người
chiếm 4,64% lao động của vùng và bằng 31,16% lao động khu vực FDI cả
nước, năng suất lao động đạt 253,4 triệu đồng/năm. Trong năm 2014, lao
động khu vực FDI có khoảng 735.223 người chiếm khoảng 5,95% so với
tổng lao động trong toàn bộ vùng ĐBSH. Như vậy theo số liệu tính toán
trong bảng 3.11, khu vực FDI của vùng ĐBSH thu hút rất ít lao động nhưng
đem lại hiệu quả kinh tế cao khi so sánh với mặt bằng năng suất chung của
cả vùng.
- Đóng góp vào tạo việc làm cho lao động của vùng

Chỉ tiêu

20
09

201
1

20

13

14

53
.245,6
1.
785,7
3,

55
.146,8
2.
071,4
3,

1.Tổng lao động cả nước
(1000 người)
2.Tổng lao động khu vực
FDI cả nước (1000 người)

Tỷ trọng so với LĐ cả nước
(%)

49
.322
1.
524,6
3,

3.Tổng LĐ vùng ĐBSH
(1000 người)
4.Tổng Lao động FDI vùng
ĐBSH (người)

11
.147,5
26

11.
536,3
474

11
.984
55

12
.358
73


4,846
2,

,413
4,1

6,465
4,

5,223
5,

64

95

Tỷ trọng so với LĐ vùng (%)

09

1

38
Tỷ trọng so với LĐ FDI cả

51.
389,4
170
0,1
3,3


20

35

1
17

27,

75

3

3


nước (%)

,37

91

1,16

5,49

Trong các khu công nghiệp, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có mức thu nhập tương đối cao so với mặt bằng chung, gây nên tình
trạng chênh lệch về tiền lương và thu nhập giữa lao động trong các doanh

nghiệp này với doanh nghiệp sở hữu tư nhân trong nước. Ví dụ, thu nhập bình
quân ngành điện đạt trung bình 9,2 triệu đồng/người/tháng, ngành đạm đạt
khoảng 7,9 triệu đồng/người/tháng, ngành khí đạt 7,4 triệu đồng/người/tháng.
Trong khi đó, người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước có
mức thu nhập ở mức từ 2,3 đến 3,2 triệu đồng/người/tháng. Nguyên nhân là
do chính sách tiền lương hiện hành chưa có sự bình đẳng giữa các khu vực
kinh tế, trong đó tiền lương tối thiểu áp dụng cho khu vực có vốn nước ngoài
luôn cao hơn so với khu vực nhà nước cho cùng một ngành nghề.
Một số dự án đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp tập trung
vốn, đạt trình độ công nghệ tiên tiến thể hiện qua suất đầu tư/dự án cao,
nhưng lại sử dụng ít lao động. Tuy nhiên, việc các doanh nghiệp FDI mang
công nghệ mới và trình độ quản lý cao vào tỉnh vẫn chưa đảm bảo những
nguồn vốn này tạo ra tác động lan tỏa theo mong muốn của Chính phủ và
chính quyền địa phương, như chuyển giao công nghệ, chuyển giao kỹ năng
và tạo sự liên kết sản xuất với các doanh nghiệp trong nước.
-Thực trạng sử dụng vốn FDI tại vùng đồng bằng sông Hồng và
những hạn chế còn tồn tại
- Tình hình thực hiện các dự án FDI tại vùng đồng bằng sông
Hồng
Theo số liệu thống kê, các dự án ĐTNN trên địa bàn vùng ĐBSH đã
thực hiện khoảng 10,28 tỷ USD. Trong đó Hà Nội có số vốn thực hiện cao
nhất với 5,8 tỷ USD, chiếm 56,5% tổng vốn thực hiện của vùng. Tiếp theo
là Hải Phòng với 1,6 tỷ USD vốn thực hiện, chiếm 16,3%; Hải Dương đạt


841 triệu USD, chiếm 8,18%, Vĩnh Phúc đạt 738, 7 triệu USD, chiếm
7,18% tổng vốn thực hiện của vùng.
Nhìn chung các dự án ĐTNN trên địa bàn vùng đồng bằng sông
Hồng triển khai thực hiện khá tốt, tỷ lệ vốn thực hiện/vốn đăng ký tương
đối cao so với các khu vực khác (đạt 44,4%). Các dự án đang hoạt động

phát huy được khả năng của mình, góp phần đóng góp vào phát triển kinh
tế của vùng ĐBSH.
-Tình hình thực hiện các dự án FDI tại vùng đồng bằng sông Hồng
(tính luỹ kế đến hết tháng 5/2015)
T

Địa

T

Phương
1
2

Hà Nội

5
6
7
8

Phòng
Bắc Ninh

Dương

Phúc

61


26.351
7.776.36

2.786
1.355.26

33

5.610
6.708.86

0.850
1.923.73

11

2.638
5.245.64

6.523
1.578.40

22

4.353
3.381.87

4.486
1.157.99


34

7.885
2.997.44

2.331
1.025.06

9.417
1.095.22

2.653
371.820.

4.492
1.085.69

700
405.120.

1.490
431.270.

165
246.263.

703
349.850.

608

125.448.

6
Hưng

Yên

1
Ninh

39

Bình
Hà Nam

1

Nam
Định

1

47

5
Vĩnh

Thái Bình

lệ (USD)


5.860
3.578.26

1

Ninh

Vốn điều

93.175
11.439.3

1

Quảng

vốn đầu tư

3.1
74

Hải

Tổng
(USD)
25.566.9

6


9

0

dự án

Hải

3
4

Số

12
4
57
42

8.729.38


×