Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

CƠ sở lý LUẬN và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu cơ sở KHOA học về sự TĂNG GIÁ ĐỒNG NHÂN dân tệ và tác ĐỘNG của nó tới XUẤT NHẬP KHẨU của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.57 KB, 46 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA
HỌC VỀ SỰ TĂNG GIÁ ĐỒNG
NHÂN DÂN TỆ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
NÓ TỚI XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
VIỆT NAM

1


Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tăng giá đồng nhân
dân tệ
Khái niệm cơ bản về tỷ giá hối đoái
Khái niệm về tỷ giá hối đoái
TGHĐ (hay gọi tắt là tỷ giá) là một trong những vấn đề
rất được quan tâm trong một nền kinh tế, đặc biệt là trong nền
kinh tế của các nước đang phát triển, đang từng bước hòa
nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao
động quốc tế. Bởi hoạt động thương mại quốc tế của các nước
này ngày càng phát triển và đòi hỏi phải có sự tính toán so
sánh về giá cả, tiền tệ với các nước đối tác. Chính tỷ giá là
một công cụ quan trọng được sử dụng trong tính toán này.
Tỷ giá thể hiện sự tương quan giữa mặt bằng giá trong
nước và giá thế giới. Do sự khác nhau giữa hai loại giá cả
trong nước và giá cả thế giới mà tiền tệ vừa làm thước đo giá
trị quốc gia, vừa làm thước đo giá trị quốc tế. Trong các hoạt
động kinh tế đối ngoại, khi tính đến vấn đề hiệu quả kinh tế
thì phải thường xuyên so sánh, đối chiếu hai hình thức giá cả
với nhau: giá quốc gia và giá quốc tế. Muốn thế phải chuyển

2




từ đồng tiền này sang đồng tiền khác, phải so sánh giá trị
đồng tiền trong nước với ngoại tệ thông qua công cụ tỷ giá.
Tỷ giá dùng để tính toán và thanh toán xuất, nhập khẩu.
Tỷ giá hàng xuất khẩu là lượng tiền trong nước cần thiết để
mua một lượng hàng xuất khẩu tương đương với một đơn vị
ngoại tệ. Tỷ giá hàng nhập khẩu là số lượng tiền trong nước
thu được khi bán một lượng hàng nhập khẩu có giá trị một
đơn vị ngoại tệ.
Tóm lại, TGHĐ là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một
nước được tính bằng tiền tệ của một nước khác, hay là quan
hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của hai nước khác
nhau.
Thông thường, TGHĐ được biểu diễn thông qua tỷ lệ bao
nhiêu đơn vị đồng tiền nước này (nhiều hơn một đơn vị) bằng
một đơn vị đồng tiền nước kia. Ví dụ: TGHĐ giữa đô la Mỹ và
đồng Việt nam là 1 USD = 22.250 VND, nghĩa là 22.250 VND
mua được 1 USD. Hay TGHĐ của nhân dân tệ và đồng Việt
Nam là 1 CNY = 3.298 VND, nghĩa là 3.298 VND mua được 1
nhân dân tệ.
Phân loại tỷ giá hối đoái
3


Trong thực tế, ta gặp rất nhiều loại tỷ giá, ví dụ, xét về
góc độ quản lý ta có tỷ giá thả nổi, tỷ giá thả nổi có quản lý,
tỷ giá cố định, trong kinh doanh ngoại hối ta có tỷ giá mua
vào, tỷ giá bán ra, tỷ giá giao ngay, tỷ giá có kỳ hạn… còn
trong phân tích ảnh hưởng của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập

khẩu thì ta có tỷ giá danh nghĩa, tỷ giá danh nghĩa song
phương, tỷ giá danh nghĩa đa phương, tỷ giá thực song
phương, tỷ giá thực đa phương.
Sau đây, tác giả sẽ nêu ra các loại tỷ giá được sử dụng
trong phân tích ảnh hưởng của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập
khẩu.
TGHĐdanh nghĩa: là tỷ giá được yết và có thể trao đổi
giữa hai đồng tiền mà không đề cập đến tương quan sức mua
giữa chúng.
TGHĐ danh nghĩa song phương (NER - Nominal
Exchange Rate)
TGHĐ danh nghĩa song phương là tỷ lệ trao đổi số tuyệt
đối giữa hai đồng tiền, là loại tỷ giá phổ biến được sử dụng
hàng ngày trong giao dịch trên thị trường ngoại hối. Như vậy,
“tỷ giá danh nghĩa là giá cả của một đồng tiền được biểu thị
4


thông qua đồng tiền khác mà chưa đề cập đến vẫn đề tương
quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng” (Nguyễn Văn
Tiến, 2005, trang 228).
Do đó, khi tỷ giá danh nghĩa thay đổi không nhất thiết
phải tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.
Tỷ giá danh nghĩa đa phương (NEER - Nominal Effective
Exchange Rate)
Tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ gọi là tỷ giá song
phương. Đối với mỗi sự thay đổi của tỷ giá song phương, ta
đều biết chính xác đồng tiền nào lên giá và đồng tiền nào
giảm giá. Do đó, tại một thời điểm nhất định một đồng tiền có
thể lên giá với đồng tiền này nhưng lại giảm giá với đồng tiền

kia. Vì vậy, để biết được một đồng tiền là lên giá hay giảm giá
đối với tất cả các đồng tiền còn lại, người ta sử dụng khái
niệm tỷ giá danh nghĩa đa phương.
NEER phản ánh sự thay đổi giá trị của một đồng tiền với
tất cả các đồng tiền còn lại (hay một rổ các đồng tiền đặc
trưng) và được biểu hiện dưới dạng chỉ số.

5


TGHĐ thực: “TGHĐ thực là tỷ giá được xác định trên
cơ sở tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát
giữa trong nước và ở nước ngoài, do đó, nó là chỉ số phản
ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ” (Nguyễn
Văn Tiến, 2005, trang 228).
Như vậy, TGHĐ thực là một phạm trù kinh tế đặc thù và
việc phân tích TGHĐ thực là vấn đề cần được quan tâm.
TGHĐ thực song phương (RER - Real Exchange Rate):
Tỷ giá thực song phương là tỷ giá danh nghĩa đã được
điều chỉnh theo mức chệnh lệch lạm phát giữa hai nước, nó là
chỉ số thể hiện sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ.
Vì thế có thể xem tỷ giá thực là thước đo sức cạnh tranh trong
mậu dịch quốc tế của một quốc gia so với một quốc gia khác.
Trong thực tế, để theo dõi và phân tích sự biến động của
tỷ giá thực người ta sử dụng công thức tỷ giá thực dạng chỉ số
như sau:
eRi = ei . CPIi* / CPIi
Trong đó:

+ e là chỉ số tỷ giá danh nghĩa


+ eR là chỉ số tỷ giá thực
6


+ CPIi* là chỉ số giá tiêu dùng ở nước ngoài
+ CPIi là chỉ số giá tiêu dùng ở trong nước
+ i là số thứ tự kỳ tính toán
Xét ở trạng thái tĩnh:
° Nếu eR > 1: thì nội tệ được coi là định giá thực quá thấp
và ngoại tệ được coi là định giá thực quá cao. Điều này có
nghĩa là: nếu chuyển đổi mỗi đồng nội tệ ra ngoại tệ ta chỉ
mua được ít hàng hóa hơn ở nước ngoài so với ở trong nước,
và nếu chuyển đổi mỗi đồng ngoại tệ ra nội tệ sẽ mua được
nhiều hàng hóa hơn ở trong nước so với nước ngoài. Do đó,
khi tỷ giá thực lớn hơn 1 đơn vị sẽ giúp cải thiện được cán cân
thương mại.
° Nếu eR < 1: thì nội tệ được coi là định giá thực quá cao
và ngoại tệ được coi là định giá thực quá thấp. Do đó, ngược
lại với trường hợp trên, khi tỷ giá thực nhỏ hơn 1 đơn vị sẽ tác
động làm cho cán cân thương mại trở nên xấu đi.
° Nếu eR = 1: thì đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ
có ngang giá sức mua. Do đó, làm cho cán cân thương mại
ngang bằng.
7


Xét ở trạng thái động:
° Nếu tỷ giá thực tăng, có tác dụng kích thích tăng xuất
khẩu và hạn chế nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân vãng lai.

° Nếu tỷ giá thực giảm, có tác dụng kích thích tăng nhập
khẩu và hạn chế xuất khẩu, làm cho cán cân vãng lai trở nên
xấu hơn.
° Nếu tỷ giá thực không đổi, không có tác động làm thay
đổi trạng thái cán cân vãng lai.
TGHĐ thực đa phương (REER - Real Effective
Exchange Rate):
Vì NEER là số trung bình của các chỉ số tỷ giá danh
nghĩa song phương, cho nên NEER cũng thuộc loại tỷ giá
danh nghĩa, tức chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng
hóa giữa nội tệ với các đồng tiền còn lại, do đó khi NEER
thay đổi không nhất thiết tác động đến cán cân thương mại.
Chính vì vậy, để biết được tương quan sức mua giữa nội tệ
với tất cả các đồng tiền còn lại ta phải dùng khái niệm tỷ giá
thực đa phương REER.

8


Tỷ giá thực đa phương được tính toán để định ra giá trị
thực của đồng nội tệ so với các ngoại tệ (rổ ngoại tệ). Bằng
cách điều chỉnh tỷ giá theo chênh lệch lạm phát quốc nội so
với lạm phát các đối tác thương mại, ta sẽ có tỷ giá thực song
phương với từng đồng ngoại tệ.
Ảnh hưởng của tỷ giá tới nền kinh tế quốc dân
Trong một nền kinh tế mở, có sự giao lưu, thông thương
hàng hóa giữa các nước với nhau thì mỗi sự biến động của
TGHĐ đều có những ảnh hưởng đến các biến số kinh tế cũng
như các quan hệ quốc tế về kinh tế với các nước trên thế giới.
Trong nhiều trường hợp tác động này là rất mạnh mẽ có thể

làm thay đổi vị thế kinh tế của một đất nước, tất nhiên là dưới
tác động của những yếu tố khác. Xét về mặt vĩ mô của nền
kinh tế, tỷ giá có tác động tới rất nhiều yếu tố và được sử
dụng như một công cụ tương đối hữu hiệu để nhà nước ổn
định kinh tế.
Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại
Khi TGHĐ tăng theo nghĩa là đồng nội tệ có giá trị giảm
xuống so với đồng ngoại tệ sẽ có tác động bất lợi cho nhập

9


khẩu nhưng lại có lợi cho xuất khẩu. Khi tỷ giá giảm có tác
động hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu.
Cụ thể, hàng hóa nhập khẩu chịu sự tác động của nhiều
yếu tố như: tình hình kinh tế, chính sách thương mại của một
quốc gia, thói quen tâm lý tiêu dùng, giá cả hàng hóa. Trong
các nhân tố cơ bản trên, giá cả là nhân tố mà TGHĐ có thể tác
động tới. Các yếu tố khác tác động tới giá không thay đổi thì
khi tỷ giá tăng lên tức là đồng nội tệ bị giảm giá, nếu giá bán
hàng xuất khẩu bằng ngoại tệ vẫn giữ nguyên thì thu nhập
bằng nội tệ sẽ tăng lên. Trong trường hợp này nhà xuất khẩu
có thể giảm giá hàng hóa tính bằng ngoại tệ nhằm kích thích
cầu hàng hóa xuất khẩu mà vẫn không làm giảm lợi nhuận
tính bằng nội tệ, tạo điều kiện cạnh tranh cao hơn trên thị
trường nước ngoài. Ngược lại, TGHĐ giảm làm cho hàng
xuất khẩu tính bằng ngoại tệ tăng lên, làm giảm nhu cầu của
hàng xuất khẩu dẫn tới giảm khối lượng hàng xuất khẩu trên
thị trường thế giới.
Những mặt hàng khác nhau thì tác động của tỷ giá tới

cầu hàng hóa là khác nhau. Mức độ ảnh hưởng của tỷ giá phụ
thuộc vào độ co giãn của cầu hàng hóa đó với giá. Thêm vào
đó, tác động nêu trên của TGHĐ mới chị xét tới mặt khối
10


lượng mà chưa xét tới tổng giá trị. Ví dụ trong trường hợp tỷ
giá tăng, khối lượng hàng hóa xuất khẩu gian tăng mà giá
hàng hóa xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm khiến cho chiều
hướng biến đổi của tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu tính bằng
ngoại tệ có thể tăng, giảm hoặc không đổi.
Tỷ giá hối đoái và mức giá cả hàng hóa
Với điều kiện không có lạm phát, các yếu tố về giá trị
thực của hàng hóa được đảm bảo như ban đầu. Tỷ giá giảm
làm cho giá hàng hóa nhập khẩu bằng nội tệ giảm. Giá hàng
hóa nhập khẩu giảm làm cho mặt bằng giá cả chung của nền
kinh tế giảm, tạo áp lực giảm lạm phát. Ngược lại, khi tỷ giá
tăng, giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng, tạo áp lực
tăng lạm phát. Các tác động này được thể hiện qua công thức
sau:
P = a.PD + (1 – a). E. P*M
Trong đó: + a: là tỷ trọng hàng hóa sản xuất trong nước
+ (1 – a): là tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu
+ PD: là mức giá hàng hóa sản xuất trong nước tính bằng
nội tệ
11


+ P*M: là mức giá cả hàng hóa nhập khẩu tính bằng ngoại
tệ

+ E: là tỷ giá
+ P: là mức giá cả hàng hóa chung của nền kinh tế
Trong trường hợp này TGHĐ được sử dụng như một
công cụ hiệu quả nhằm điều chỉnh mức lạm phát trong nền
kinh tế, cân bằng giá cả. Với điều kiện các yếu tố khác không
đổi, nếu muốn kiềm chế làm phát, ngân hàng Trung ương
(NHTW) có thể sử dụng chính sách nâng giá nội tệ; muốn
kích thích lạm phát gia tăng, NHTW sử dụng chính sách phá
giá nội tệ; muốn duy trì giá cả ổn định, NHTW phải sử dụng
chính sách tỷ giá ổn địng và cân bằng.
Tỷ giá hối đoái và tăng trưởng kinh tế, công ăn việc
làm
Từ công thức tính thu nhập quốc dân: Y = C + I + G + X
–M
Trong trường hợp các yếu tố chi tiêu cho tiêu dùng C,
đầu tư I, chi tiêu của chính phủ G không thay đổi, phá giá nội
tệ làm cho xuất khẩu X tăng lên và nhập khẩu M giảm xuống,
12


tác dụng trực tiếp làm cho thu nhập quốc dân Y tăng lên. Tỷ
giá cũng làm cho các ngành sản xuất các mặt hàng xuất khẩu
tăng lên do lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng như
thị trường nội địa được nâng cao, từ đó mở rộng việc sản
xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Ngược lại, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi,
nâng giá nội tệ sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế và gia tăng
thất nghiệp.
Như vậy, chính sách tỷ giá có thể được sử dụng như
công cụ làm tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Áp dụng

chính sách phá giá nội tệ sẽ làm tăng trưởng kinh tế và tạo
việc làm. Nếu muốn giảm sức nóng của nền kinh tế thì nên sử
dụng chính sách nâng giá nội tệ.
Tỷ giá hối đoái và việc thu hút đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư nước ngoài đối với một quốc gia là hết sức
cần thiết cho sự vận động của nguồn vốn trong nước. Đầu tư
nước ngoài chịu sự tác động của nhiều yếu tố trong đó TGHĐ
cũng góp phần không nhỏ vào sự thay đổi của hoạt động này.

13


Chính sách định giá thấp nội tệ sẽ thu hút được nhiều đầu
tư nước ngoài. Do đó mỗi đồng ngoại tệ sẽ đổi được nhiều nội
tệ hơn mang lại tính hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Ngược lại,
khi định giá nội tệ cao sẽ hạn chế nhà đầu tư nước ngoài bởi vì
mỗi đồng ngoại tệ sẽ đổi được ít đồng nội tệ hơn. Hơn thế nữa,
khi nội tệ được định giá cao sẽ tiềm ẩn một cuộc phá giá nội tệ
khiến cho các nhà đầu cơ có thể ồ ạt rút vốn để bảo toàn giá trị
đồng tiền của họ.
Tỷ giá hối đoái và nợ nước ngoài
Nợ nước ngoài của một nước chịu ảnh hưởng rất lớn từ
TGHĐ. Nợ nước ngoài gồm toàn bộ khoản tiền gốc và lãi
phải trả cho nước ngoài khi đến hạn. Giá trị nợ khi qui đổi
sang nội tệ sẽ chịu biến động của TGHĐ. Nếu nội tệ giảm giá
thì khoản nợ nước ngoài qui đổi ra nội tệ sẽ tăng lên gây áp
lực trả nợ cho đất nước. Ngược lại, khi nội tệ tăng giá, thì giá
trị phải trả bằng nội tệ giảm. Một yêu cầu được đặt ra đó là
phải sử dụng một cách có hiệu quả các khoản nợ nước ngoài
này nếu không muốn tạo áp lực trả nợ thậm chí là khủng

hoảng nợ như một số nước đang phát triển hiện nay.

14


Chính sách điều hành tiền tệ của quốc gia
Trên thế giới hiện đang tồn tại nhiều chính sách điều
hành tỷ giá khác nhau, do trạng thái kinh tế và mục tiêu điều
hành kinh tế mỗi quốc gia có khác nhau theo mỗi thời điểm.
Nói chung, có 3 dạng phổ biến như sau:
Chính sách thả nổi tỷ giá (Free Floating)
Còn gọi là tỷ giá tự do, là việc cho phép tỷ giá được dao
động hoàn toàn theo cung - cầu trên thị trường ngoại hối thế
giới. Thông thường chính phủ hoặc ngân hàng trung ương chỉ
can thiệp gián tiếp thông qua điều chỉnh lãi suất để tác động
lên tỷ giá theo mong muốn của mình. Đa số các nước phát
triển, có nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu, tài chính vững
mạnh áp dụng theo chính sách này như Mỹ, Úc, Canada, Nhật
Bản, Anh, Đức, Pháp, Newzealand…
Chế độ tỷ giá này được đánh giá là giúp cho chính sách
tiền tệ quốc gia được độc lập, ít chịu ảnh hưởng của những
biến động từ bên ngoài và cán cân thanh toán quốc tế được tự
động điều chỉnh để cân bằng. Chính sách này ngày càng thể
hiệu ưu điểm trong xu thế hội nhập toàn cầu, giúp cho tỷ giá
theo sát với biến chuyển nền kinh tế của các quốc gia một
15


cách tự động theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, nếu việc điều
hành tài chính quốc gia yếu kém, mất cân đối ngân sách, gây

ra lạm phát thì chính sách này sẽ mau chóng tác động xấu
thêm cho nền kinh tế của quốc gia.
Chính sách cố định tỷ giá hay neo cứng tỷ giá
(Currency board)
Là việc duy trì một tỷ giá cố định trong một khoảng thời
gian tương đối dài mà không phụ thuộc vào sự biến động của
các ngoại tệ mạnh trên thị trường ngoại hối thế giới. Hiện nay
chỉ có vài nước với nền kinh tế do nhà nước quản lý chặt theo
kế hoạch áp dụng như Triều Tiên, Cu Ba… Tuy nhiên, trên
thực tế chính sách này ngày càng tỏ ra thiếu hiệu quả trong
mục tiêu giúp phát triển kinh tế.
Chính sách neo tỷ giá có điều chỉnh (Stabilized
arrangement)
Đây là sự lai ghép giữa hai chính sách trên. Theo đó,
chính phủ đưa ra mức tỷ giá, đồng thời cho phép tỷ giá dao
động hàng ngày trong một biên độ nhất định. Chính sách này
đang được áp dụng ở các nước đang trong giai đoạn phát triển

16


kinh tế thị trường và có sự quản lý kinh tế khá mạnh của Nhà
nước như Trung Quốc, Việt Nam, Singapore, Malaysia…
Chế độ tỷ giá này cho phép đồng tiền neo theo một đồng
tiền mạnh khác có thể điều chỉnh phù hợp đối với các dao
động của thị trường và là biện pháp ổn định tỷ giá để phòng
ngừa các sự trồi sụt bất ngờ của thị trường ngoại hối. Tuy
nhiên, chính sách tỷ giá này chưa phản ánh hết cung cầu vốn
trên thị trường. Trong một vài trường hợp, chính sách tỷ giá
này sẽ gây áp lực lên cán cân thanh toán, tạo cơ hội cho hoạt

động đầu cơ ngoại tệ bùng phát, hay sẽ tạo một cú sốc lớn khi
phải điều chỉnh tỷ giá với biên độ lớn. Điều đó đã xảy ra với
đồng Ringgit của Maylasia bị đầu cơ rất mạnh trong cơn bão
tài chính châu Á năm 1997, khi các nhà đầu cơ phát hiệu nền
kinh tế của Maylaisia đã suy yếu, nhưng chính phủ vẫn cố giữ
đồng Ringgit mạnh qua việc neo giữ tỷ giá của cặp đồng
MYR/USD.
Xét về tổng thể, chính sách tỷ giá thả nổi là phù hợp với
xu thế hiện đại, bởi tỷ giá thay đổi thường xuyên theo cơ chế
thị trường toàn cầu. Điều này giúp cho mọi hoạt động đầu tư,
thương mại quốc tế thuận lợi và ít bị rủi ro dồn tích. Bên cạnh
đó, nền kinh tế sẽ không gặp phải cú sốc lớn nếu gặp phải sự
17


điều hành tài chính chủ quan và yếu kém của chính phủ. Tuy
nhiên, nến nền tài chính quốc gia chưa được chuẩn bị kỹ càng,
hoạt động theo cơ chế thị trường chưa thật sự vững mạnh, thì
việc áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có thể gây xáo trộn sự
ổn định đồng tiền quốc gia và gây những thiệt hại kinh tế xã
hội khó có thể lường.
Sự tăng giá đồng tiền
Khái niệm tăng giá đồng tiền
Do chịu sự tác động của nhiều yếu tố nên TGHĐ thường
xuyên biến động. Sự biến động này xảy ra khi có sự tăng giá
hoặc giảm giá các đồng tiền. TGHĐ tăng tức là đồng tiền
trong nước giảm so với đồng tiền nước khác. Ngược lại,
TGHĐ giảm tức là đồng tiền trong nước tăng so với đồng tiền
của nước khác.
Tăng giá tiền tệ là việc tăng giá trị đồng nội tệ so với các

ngoại tệ khác so với mức mà chính phủ đã cam kết trong chế
độ TGHĐ cố định. Việc đồng Việt Nam tăng giá tức là tăng
giá trị so với các ngoại tệ khác như USD, EUR, CNY…

18


Một số nước thị trường tự do hoàn toàn để tỷ giá tự điều
chỉnh theo cung - cầu tiền tệ. Một số nước có sử dụng biện
pháp can thiệp vào thị trường tiền tệ khi cần. Ví dụ, khi cần
điều chỉnh tăng giá tiền nội tệ thì tung dự trữ ngoại tệ ra mua
về đồng nội tệ làm cho đồng nội tệ tăng tính khan hiếm tương
đối và đồng ngoại tệ tăng tính dồi dào. Khi muốn đồng nội tệ
giảm giá thì ngược lại, dùng tiền nội tệ mua về ngoại tệ hoặc
mua trái phiếu do nước ngoài nắm giữ.
Về Trung Quốc: từ trước tới nay, Trung Quốc vẫn ấn
định tỷ giá đồng nhân dân tệ và đô la Mỹ, quản lý rất chặt chẽ
lĩnh vực ngoại tệ. Đồng thời trong nhiều năm, Trung Quốc
tăng cường năng lực sản xuất với chủ trương tối cao phục vụ
cho xuất khẩu với khẩu hiệu hàng giá rẻ và chất lượng vừa
phải. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong nhiều năm luôn ở
mức cao và cán cân thương mại luôn thặng dư. Từ đó, nguồn
ngoại tệ chảy vào Trung Quốc nhiều và luôn được Chính Phủ
ôm về nhằm tăng dự trữ ngoại tệ và phục vụ cho mục đích
quản lý tỷ giá ấn định.
Một điểm chú ý là giá cả của đồng tiền không phải là
biểu hiện của sức mạnh đồng tiền đó. Sức mạnh của đồng tiền

19



thể hiện ở qui mô giá trị của nền kinh tế đó và mức độ quốc tế
hóa của đồng tiền đó.
Các nhân tố tác động làm tăng giá đồng tiền
Sự hình thành TGHĐ là quá trình tác động của nhiều yếu
tố chủ quan và khách quan. Những yếu tố này trực tiếp hoặc
gián tiếp làm cho TGHĐ thay đổi. Tỷ giá có thể tăng hoặc
giảm theo từng thời kỳ hoặc do chính sách tỷ giá của nhà
nước đưa ra.
Tình hình cán cân thanh toán quốc tế: Cán cân thanh
toán của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba trạng thái
sau: cân bằng, thâm hụt hay thặng dư. Điều này ảnh hưởng
trực tiếp hay nhạy bén đến tỷ giá. Do vậy, nếu cán cân thanh
toán quốc tế âm thì TGHĐ có xu hướng tăng và ngược lại cán
cân thanh toán quốc tế dương thì TGHĐ có chiều hướng giảm
hoặc giữ vững.
Mức độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế: Mức
độ tăng, giảm GDP thực tế của một nước so với nước khác,
trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, sẽ làm tăng
hay giảm về nhu cầu hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ
làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu sẽ
20


tăng lên hay giảm xuống. Do đó tác động đến cung - cầu về
ngoại tệ, từ đó làm cho TGHĐ của đồng tiền trong nước so với
đồng tiền nước ngoài tăng lên hoặc giảm đi.
Sự chênh lệch lạm phát của đồng tiền quốc gia: Khi tỷ lệ
lạm phát ở một quốc gia tăng lên hay giảm xuống sẽ làm giá trị
của đồng tiền nước đó thay đổi, dẫn tới TGHĐ của đồng tiền

nước đó so với nước ngoài bị biến động. Nếu mức lạm phát
của nước này cao hơn mức lạm phát của nước khác thì sức
mua nội tệ sẽ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát cao càng kéo dài,
đồng tiền càng mất giá, sức mua của nó càng giảm nhanh, sức
mua của đồng tiền trong nước giảm thì sức mua đối ngoại của
nó cũng giảm làm cho TGHĐ tăng lên.
Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước: Ở thị trường nào
có mức lãi suất ngắn hạn cao hơn thì những luồng vốn ngắn
hạn có xu hướng đổ về thị trường đó, làm cho cung về ngoại
tệ tăng lên, cầu về ngoại tệ giảm. Do đó, TGHĐ có xu hướng
giảm. Và ngược lại, nếu thị trường có mức lãi suất ngắn hạn
thấp thì xu hướng cung về ngoại tệ giảm, cầu về ngoại tệ tăng,
do đó TGHĐ có xu hướng tăng.

21


Các nhân tố có khả năng tác động cung - cầu ngoại tệ
như yếu tố chính trị, kinh tế xã hội, thiên tai, chiến tranh… và
hoạt động đầu cơ: Ví dụ, nếu có sự đình công, biểu tình thì
các nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn làm cho ngoại tệ trở nên
khan hiếm, làm cho cung ngoại tệ giảm do vậy tỷ giá giảm.
Hoạt động của những người đầu cơ ngoại tệ có tác động mạnh
đến TGHĐ. Khi nhà đầu cơ dự đoán giá của một loại ngoại tệ
nào đó tăng lên, họ sẽ dùng nội tệ để mua một số lượng lớn
ngoại tệ, làm cho ngoại tệ này ở trên thị trường trở nên khan
hiếm, cung nhỏ hơn cầu về ngoại tệ đó dẫn đến giá của loại
ngoại tệ đó tăng, do đó TGHĐ tăng lên.
Trên thực tế, TGHĐ bị chi phối đồng thời bởi tất cả các
yếu tố trên với mực độ mạnh yếu khách nhau của từng nhân

tố, tùy vào thời gian và hoàn cảnh nhất định. Việc tách rời và
lượng hóa ảnh hưởng của từng nhân tố là việc làm không thể.
Các nhân tố trên không tách rời mà tác động tổng hợp, có thể
tăng cường hay át chế lẫn nhau, làm cho TGHĐ luôn biến
động không ngừng. Sự biến động của tỷ giá cũng tác động
ngược lại các yếu tố trên và một số yếu tố khác trong nền kinh
tế vĩ mô. Những ảnh hưởng qua lại này làm cho các yếu tố
khác trong nền kinh tế cũng thay đổi: tăng lên hoặc bị kìm
22


hãm. Việc nghiên cứu các tác động của tỷ giá đối với nền kinh
tế cũng rất cần thiết và quan trọng.
Quá trình tăng giá của đồng Nhân dân tệ (CNY)
Nguyên nhân đồng CNY tăng giá
Sức ép từ phía Mỹ
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Trung Quốc phát
triển rất nhanh, hàng hóa xuất khẩu Trung Quốc tràn ngập trên
thị trường quốc tế với ưu thế giá rẻ. Điều này khiến cho sức
ép buộc Trung Quốc tăng giá đồng CNY là rất lớn, đặc biệt là
Mỹ - thị trường tiêu thụ sản phẩm Trung Quốc lớn nhất hiện
nay. Việc Mỹ liên tục tăng sức ép lên Trung Quốc về việc
nâng giá đồng CNY xuất phát từ cả nguyên nhân về kinh tế
lẫn chính trị.
Trước hết là về kinh tế, Mỹ cho rằng Trung Quốc luôn
cố tình định giá đồng CNY thấp hơn so với giá trị thực của nó
để hưởng lợi trong xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. Các nhà sản
xuất Mỹ cho rằng đồng nội tệ Trung Quốc đang bị ghìm thấp
hơn 40% so với giá trị thực của nó và đây cũng là lý do chính
khiến thâm hụt ngân sách Mỹ đối với Trung Quốc ngày càng


23


lớn, lên tới 273 tỉ USD trong năm 2010 và trở thành mức
thâm hụt ngân sách lớn nhất giữa Mỹ và các nước trên thế
giới. Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường Mỹ khiến
cho doanh nghiệp Mỹ gặp nhiều bất lợi, thị trường trong và
ngoài nước bị mất đi khiến cho các doanh nghiệp Mỹ buộc
phải thực hiện chính sách cắt giảm nhân công, dẫn đến tình
trạng thất nghiệp ở Mỹ gia tăng. Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ hiện
nay là 9,7% và đang có xu hướng tiếp tục tăng.
Hiện nay, Trung Quốc đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ
với lợi thế nắm giữ hơn 1000 tỷ trái phiếu của Bộ Tài chính
Mỹ. Nhiều nhà phân tích Mỹ lo ngại khả năng từ chỗ lệ thuộc
vào chủ nợ Trung Quốc, Mỹ sẽ lệ thuộc vào nhiều vấn đề
khác kể cả an ninh. Nếu sức ép buộc Trung Quốc phải tăng
giá đồng CNY của Mỹ thành công thì cùng với sự tăng giá
đồng CNY, khoản nợ của Mỹ cũng theo đó giảm đi. Có nhiều
nỗ lực của Mỹ trong suốt giai đoạn 2000 - 2006 không làm
Trung Quốc nhượng bộ và đồng CNY chỉ được thả lỏng một
phần và cho lên giá từ từ so với đồng USD từ năm 2006 trở
lại đây. Tuy nhiên, dù đồng CNY đã bắt đầu tăng giá nhưng
thặng dư mậu dịch Trung Quốc - Mỹ vẫn tiếp tục tăng.

24


Về nguyên nhân chính trị, nền kinh tế Trung Quốc giờ
đây đang nằm trong danh sách 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Thực lực và tham vọng về kinh tế, chính trị, quân sự của
Trung Quốc luôn là một nguy cơ đối với Mỹ và là điểm nóng
trong mối quan hệ giữa hai nước. Mỹ rất lo ngại về sự lớn
mạnh dường như không gì cưỡng nổi của Trung Quốc đã làm
thay đổi cán cân quyền lực và ảnh hưởng không chỉ trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương mà còn trên phạm vi toàn thế
giới. Vì vậy, Mỹ gây sức ép buộc đồng CNY tăng giá kết hợp
với một loạt chính sách ngoại giao khác để tăng cường ảnh
hưởng đến khu vực Đông Nam Á, kiềm chế Trung Quốc.
Nước Mỹ muốn đẩy mạnh xây dựng một khu vực tự do mậu
dịch khu vực Thái Bình Dương để cạnh tranh, ảnh hưởng với
Hiệp định mậu dịch tự do giữa Trung Quốc và ASEAN.
Sức ép của Châu Âu và các tổ chức quốc tế
Cũng tương tự Mỹ, các nước châu Âu cũng đang gặp
phải rất nhiều vấn đề lo ngại trước chính sách neo tỷ giá thấp
hơn giá trị thật của Trung Quốc.
Xét về tỷ trọng, mức độ thâm hụt của khối này với Trung
Quốc cũng chiếm tới hơn 50% tổng kim ngạch thương mại.

25


×