Tải bản đầy đủ (.doc) (478 trang)

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẨM PHÁN PHẦN KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 478 trang )

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG CÁN BỘ TÒA ÁN

CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO THẨM PHÁN
PHẦN KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Tập bài giảng cho Khóa 1)

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN - 2014


TẬP THỂ TÁC GIẢ
1. PGS.TS. Trần Văn Độ
- Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh
án Tòa án Quân sự trung ương

Bài 3, Bài 14, Bài 17

2. TS. Nguyễn Trí Tuệ
- Trưởng khoa Khoa Thẩm phán Trường Cán
bộ Tòa án - Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh

Bài 1, Bài 4, Bài 5

3. TS. Phạm Minh Tuyên
- Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh

Bài 2, Bài 6, Bài 8,


Bài 15, Bài 16,
Bài 18, Bài 19

4. Ths. Nguyễn Thanh Mận
- Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Tòa án

Bài 10, Bài 20

5. Nguyễn Xuân Khôi
- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Bài 11, Bài 13

6. Vũ Thế Đoàn
- Phó Chánh tòa Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội

Bài 12

7. Hoàng Doãn Đức
- Phó Chánh tòa Tòa Hình sự Tòa án nhân
dân tối cao

Bài 21

8. Đặng Bảo Vĩnh
- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Bài 7, Bài 9


2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

1

Bộ luật Hình sự

BLHS

2

Bộ luật Tố tụng hình sự

BLTTHS

3

Bộ luật Dân sự

BLDS

4


Tòa án nhân dân

TAND

5

Tòa án nhân dân tối cao

TAND tối cao

6

Văn bản quy phạm pháp luật

VBQPPL

7

Ủy ban nhân dân

UBND

8

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

9


Trách nhiệm hình sự

TNHS

3


PHẦN I: KỸ NĂNG CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
---------------BÀI 1:
KỸ NĂNG THỤ LÝ VÀ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Để giải quyết một vụ án hình sự thì tùy từng giai đoạn tố tụng, cán bộ
Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng ở các Tòa án đều phải thực hiện
nhiều công việc như: nhận và thụ lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ, các công việc
cần làm trong thời hạn chuẩn bị, chuẩn bị các công việc để mở phiên tòa hình
sự sơ thẩm, các công việc cần làm sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm… Ở
mỗi giai đoạn tố tụng đều có những quy định, đặc điểm và tầm quan trọng
riêng. Cụ thể như trong giai đoạn nhận và thụ lý hồ sơ vụ án hình sự có vai
trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bởi lẽ quá trình
nhận và thụ lý vụ án hình sự được đầy đủ, chính xác, đảm bảo tuân thủ các
điều kiện mà pháp luật quy định sẽ là tiền đề để thực hiện tốt các hoạt động
tố tụng ở giai đoạn tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bên
cạnh đó, một yếu tố tác động không nhỏ vào kết quả xét xử được chính xác,
thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật đó là việc nghiên cứu hồ sơ của
Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa và các vị Hội thẩm nhân dân. Bởi vì chỉ thông
qua việc nghiên cứu hồ sơ mới biết được hồ sơ vụ án đã đầy đủ các tài liệu
hay chưa, nếu phạm tội thì phạm tội gì được quy định trong Bộ luật hình sự,
bản án hoặc quyết định của Tòa án các cấp có đúng pháp luật hay không,

trên cơ sở nghiên cứu mới có căn cứ để có quyết định đưa vụ án ra xét xử
hay không, trả lời đơn khiếu nại, tố cáo để hướng dẫn Tòa án cấp dưới áp
dụng pháp luật, để kháng nghị hoặc trình Ủy ban Thẩm phán hoặc Hội đồng
Thẩm phán về kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm…
I. THỤ LÝ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1. Nhận hồ sơ vụ án
VBQPPL:
- BLTTHS (khoản 1 và 3 Điều 166)
- Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP (tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I)
- Khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án, Thư ký cần kiểm
tra số bút lục có trong hồ sơ vụ án, đối chiếu bản kê tài liệu so với các tài liệu
có trong hồ sơ xem đã đầy đủ hay chưa. Nếu chưa đầy đủ thì không nhận hồ
sơ vụ án.
- Kiểm tra bản cáo trạng đã được giao cho bị can theo đúng quy định
tại đoạn 3 khoản 1 Điều 166 của BLTTHS hay chưa. Nếu bản cáo trạng chưa
được giao cho bị can thì không nhận hồ sơ vụ án.

4


- Trường hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đầy đủ so với bản kê tài
liệu và bản cáo trạng đã được giao cho bị can thì căn cứ vào hướng dẫn tại
điểm A tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP quy định:
“1.1. Nhận hồ sơ vụ án và thụ lý vụ án.
Khi nhận hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến, người nhận hồ sơ
phải đối chiếu bản kê tài liệu và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xem đã đầy
đủ hay chưa; kiểm tra bản cáo trạng đã được giao cho bị can theo đúng quy
định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 166 BLTTHS hay chưa và xử lý như sau:
A. Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chưa đầy đủ so với bản kê tài
liệu hoặc bản cáo trạng chưa được giao cho bị can, thì không nhận hồ sơ vụ

án vì chưa đúng quy định của BLTTHS”.
Theo đó, Thư ký tiến hành nhận hồ sơ vụ án, lập biên bản giao nhận
hồ sơ vụ án và lưu vào hồ sơ. Biên bản giao nhận hồ sơ vụ án cần có các nội
dung chính sau: Thời gian giao nhận hồ sơ, địa điểm giao nhận, những người
tiến hành giao nhận, thực hiện việc tiến hành giao nhận hồ sơ vụ án: tên bị
can - loại hồ sơ vụ án (nếu có đồng phạm thì ghi thêm “và đồng phạm” sau
tên của bị can đầu vụ), số bút lục có trong hồ sơ, lý do giao nhận hồ sơ, ngày
giờ kết thúc việc giao nhận...
Lưu ý, khi kiểm tra các tài liệu có trong hồ sơ, Thư ký cần chú ý trong
bản kê tài liệu thể hiện có các bản tài liệu gốc hay chỉ là các bản sao tài liệu
để khi lập biên bản giao nhận hồ sơ vụ án cần ghi chú bản gốc cho chính xác.
Ví dụ: Trong hồ sơ vụ án tai nạn giao thông thường có bản chính giấy
phép lái xe của bị can hoặc có khi chỉ là bản sao chụp giấy phép lái xe, thư ký
cần lưu ý kiểm tra nếu là bản chính thì phải ghi rõ trong biên bản giao nhận
hồ sơ vụ án là bản chính giấy phép lái xe của bị can.
Sau khi nhận được hồ sơ vụ án hình sự từ Viện kiểm sát chuyển sang, thì
bộ phận nhận hồ sơ và thụ lý vụ án cấp huyện và cấp tỉnh là thư ký thường trực
Tòa hình sự, cần kiểm tra danh mục tài liệu có trong hồ sơ, đối chiếu với các tài
liệu có trong hồ sơ, xem có đầy đủ các bút lục như đã được liệt kê hay không.
Các lệnh tạm giam có còn hay đã hết thời hạn tạm giam, các thủ tục tố tụng như
biên bản giao nhận Kết luận điều tra, biên bản giao nhận Cáo trạng đã có hay
chưa? Có biên bản giao nhận vật chứng hay không?
2. Thụ lý vụ án hình sự
VBQPPL:
- BLTTHS (khoản 1 Điều 38)
- Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP (tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I)
Tại điểm B tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 04/2004/NQHĐTP quy định:
“ 1.1. Nhận hồ sơ vụ án và thụ lý vụ án.
Khi nhận hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến, người nhận hồ sơ
phải đối chiếu bản kê tài liệu và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xem đã đầy

đủ hay chưa; kiểm tra bản cáo trạng đã được giao cho bị can theo đúng quy
định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 166 BLTTHS hay chưa và xử lý như sau:


5


B. Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ so với bản kê tài liệu
và bản cáo trạng đã được giao cho bị can, thì nhận và vào ngay sổ thụ lý hồ
sơ vụ án. Sau khi hồ sơ vụ án đã được thụ lý, Chánh án Tòa án phân công
ngay Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa”.
- Theo đó, ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thư ký phải ghi vào sổ thụ
lý hồ sơ gồm số thụ lý, ngày, tháng, năm thụ lý... theo mẫu sổ thụ lý hồ sơ do
Tòa án nhân dân tối cao ban hành.
Tiến hành lập bìa hồ sơ theo mẫu quy định sau đó chuyển hồ sơ cho
Chánh án hoặc Phó Chánh án được Chánh án ủy quyền phân công Thẩm
phán làm chủ tọa phiên tòa.
Nếu các thủ tục này đã được thực hiện đầy đủ thì vào sổ thụ lý, ghi đầy
đủ số thụ lý, ngày thụ lý, tên các bị cáo, số ký hiệu, ngày của Cáo trạng truy
tố. Sau khi đã thụ lý hồ sơ thì báo cáo chuyển hồ sơ cho Chánh án hoặc Phó
chánh án được Chánh án ủy quyền để phân công Thẩm phán làm chủ tọa
phiên tòa1.
3. Giải quyết những tình huống phát sinh khi thụ lý hồ sơ vụ án
hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS thì trong thời hạn ba ngày
kể từ ngày ban hành Cáo trạng, Viện kiểm sát phải thông báo và giao cho bị
can, người bào chữa bản Cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án... do vậy,
khi hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển sang, nếu chưa có biên bản
giao nhận Cáo trạng thì không nhận hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, thực tế hiện nay
có rất nhiều trường hợp khi hồ sơ vụ án chuyển sang cho Tòa án nhưng

chưa có biên bản giao nhận Cáo trạng, biên bản giao nhận vật chứng. Trong
trường hợp này, Tòa án vẫn nhận hồ sơ vụ án nhưng chưa vào sổ thụ lý mà
chỉ vào sổ để theo dõi và cần thông báo cho Viện kiểm sát biết trong thời hạn
bao nhiêu ngày thì Viện kiểm sát phải hoàn thành việc giao bản Cáo trạng
cho bị can, nếu hết thời hạn đã định mà Viện kiểm sát vẫn chưa chuyển biên
bản giao nhận Cáo trạng thì trả lại hồ sơ 2. Nếu khi chuyển hồ sơ sang Tòa án
mà lệnh tạm giam của Viện kiểm sát đã hết và biên bản giao nhận Cáo trạng
chưa có thì kiên quyết không nhận mà yêu cầu Viện kiểm sát phải ra lệnh tạm
giam tiếp theo.
Đối với việc giao nhận vật chứng hiện cũng chưa có hướng dẫn cụ thể,
tại điểm đ khoản 2 Điều 75 BLTTHS cũng chỉ quy định “... Đối với vật chứng
đưa về cơ quan tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an có trách
nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan Thi hành
án có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án”.
Tuy nhiên, thực tế khi hồ sơ vụ án hình sự được chuyển sang Tòa án
thì thường chưa có biên bản giao, nhận vật chứng. Bởi lẽ, tại điểm a mục 3

Xem thêm tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP
ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2
Xem thêm hướng dẫn tại các điểm 1 và 2 Thông tư liên ngành số
07/TTLN ngày 15/9/1990 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; mục 8 Phần II Công văn số 81/2002/TANDTC ngày
10/06/2002 của Tòa án nhân dân tối cao.
1

6


Thông tư số 06/2003/TT-BCA ngày 12/3/2003 của Bộ trưởng Bộ Công an

hướng dẫn là: “Sau khi vụ án có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì vật chứng,
đồ vật, tài liệu khác của vụ án đang được bảo quản tại kho vật chứng của cơ
quan Công an phải được chuyển sang kho vật chứng của cơ quan Thi hành
án...”. Do vậy, chỉ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án thì cơ
quan Công an mới chuyển vật chứng của vụ án sang cơ quan Thi hành án
theo như quy định của BLTTHS. Hướng dẫn như vậy là không hợp lý vì
Thông tư 06/2003/TT-BCA chỉ có giá trị trong ngành Công an chứ không thể
buộc Viện kiểm sát và Tòa án phải tuân thủ theo, song hiện cũng chưa có
hướng dẫn nào khác. Đây là tình trạng chung của Tòa án các tỉnh trong cả
nước về vấn đề giao nhận vật chứng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hiện
nay mà chưa có cách giải quyết thống nhất. Ví dụ như tại tỉnh Bắc Ninh đã có
sự thống nhất tạm thời giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tỉnh Bắc
Ninh là: khi có quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử thì Viện kiểm sát sẽ có
Công văn yêu cầu cơ quan Điều tra chuyển vật chứng sang cơ quan Thi hành
án và sẽ giao lại cho Tòa án biên bản giao, nhận vật chứng. Tuy nhiên, đây
chỉ là biện pháp xử lý tạm thời, về nguyên tắc phải kiên quyết yêu cầu Viện
kiểm sát khi chuyển hồ sơ phải có đầy đủ cả biên bản giao, nhận vật chứng.
Vì thực tế quá trình nghiên cứu hồ sơ có những trường hợp phải xem xét cả
vật chứng mà không có biên bản giao, nhận thì không thể xem xét được,
không bảo đảm quy định khi phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bởi lẽ, nếu
đợi có quyết định đưa vụ án ra xét xử mới chuyển biên bản giao, nhận vật
chứng, thì lại phải khai mạc phiên tòa rồi làm thủ tục hoãn phiên tòa, trả hồ
sơ để điều tra bổ sung, như vậy rất mất thời gian và không đúng trình tự tố
tụng.
Nếu khi nhận hồ sơ vụ án mà trong hồ sơ thiếu một hoặc nhiều bút lục
hoặc bút lục đánh số nhảy cóc mà trong bản thống kê tài liệu lưu trong hồ sơ
vụ án không thể hiện điều này, thì cần phải thông báo cho Viện kiểm sát biết
để Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan Điều tra làm công văn giải trình về việc
thiếu bút lục hoặc bút lục đánh nhảy cóc.
II. KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1. Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
1.1. Mục đích, yêu cầu, nội dung nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
- Mục đích: Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nhằm giúp cho Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa nắm vững được nội dung vụ án, để từ đó có hướng
giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn và chính xác nhất, trong đó
người Thẩm phán phải xác định được:
+ Vụ án đã đủ điều kiện để đưa ra xét xử hay chưa;
+ Có đúng thẩm quyền xét xử không;
+ Có cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;
+ Có căn cứ để áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn hay không;
+ Có căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án hay không?
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự cũng là cơ sở để Thẩm phán lên
kế hoạch xét hỏi một cách chủ động nhất, chủ động giải quyết các tình huống

7


có thể xảy ra tại phiên tòa, định hình được nội dung của bản án cũng như làm
các công việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.
- Yêu cầu: Trong hoạt động tố tụng hình sự thì các tình tiết trong vụ án
luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để nắm được nội dung vụ án
một cách chắc chắn cũng như chủ động trong quá trình xét xử đòi hỏi người
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có hệ
thống và khoa học nhất toàn bộ các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong
quá trình điều tra đã có trong hồ sơ. Trước hết, Thẩm phán cần nghiên cứu
từng tài liệu riêng lẻ kết hợp so sánh chúng với các tài liệu, chứng cứ khác để
tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Từ đó, tổng hợp lại để phát hiện sự hợp lý
hoặc những điểm mâu thuẫn giữa các tài liệu, chứng cứ nhằm đánh giá sự tin
cậy của các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập. Đây chính là cơ sở để Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa có thể ra một trong các quyết định được quy định tại

Điều 176 BLTTHS như: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Nội dung nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự: Việc nghiên cứu hồ sơ
vụ án hình sự phải làm sáng tỏ những vấn đề sau:
+ Vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp mình xét xử hay không?
+ Các thủ tục trong điều tra, truy tố đã đảm bảo đúng và đầy đủ theo
quy định của pháp luật hay không?
+ Có cần thiết áp dụng, thay đổi, hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối
với bị cáo (các bị cáo) hay không?
+ Hành vi của bị cáo (các bị cáo) có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm
không; tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố có phù hợp không?
+ Có cần xử lý vật chứng hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm việc bồi
thường thiệt hại trước khi xét xử không?
+ Có căn cứ để đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án không?
1.2. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
Có nhiều phương pháp để nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự. Việc lựa
chọn phương pháp nghiên cứu nào phụ thuộc vào từng vụ án cụ thể và kinh
nghiệm thực tiễn của từng Thẩm phán. Thông thường hiện có hai phương
pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phổ biến nhất đó là:
Phương pháp thứ nhất: Nghiên cứu hồ sơ vụ án theo trình tự tố tụng
tức là bắt đầu nghiên cứu từ các tài liệu tố tụng gồm:
+ Quyết định khởi tố vụ án;
+ Quyết định khởi tố bị can;
+ Các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát;
+ Các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn;
+ Kết luận điều tra;
+ Bản Cáo trạng...
Nghiên cứu theo phương pháp này có ưu điểm là Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa có thái độ khách quan hơn, không bị chi phối và phụ thuộc vào


8


quan điểm của cơ quan Điều tra và Cáo trạng của Viện kiểm sát, song lại có
nhược điểm mất nhiều thời gian mới nắm vững được các tình tiết của vụ án
cũng như quan điểm của cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát.
Phương pháp thứ hai: Là nghiên cứu hồ sơ không theo trình tự tố
tụng, bắt đầu từ bản Cáo trạng rồi đến các tài liệu khác đã được thu thập có
trong hồ sơ vụ án theo trình tự ngược lại về mặt thời gian để kiểm tra tính xác
thực và đúng đắn của quyết định truy tố. Phương pháp này có ưu điểm về
mặt thời gian song cũng có nhược điểm là nếu không cẩn thận Thẩm phán dễ
bị ảnh hưởng bởi quan điểm của cơ quan Điều tra cũng như quan điểm truy
tố của Viện kiểm sát dẫn đến có định kiến và hay áp đặt ý thức chủ quan vào
việc giải quyết vụ án, kể cả việc định tội danh và quyết định hình phạt.
2. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự
Sau khi nhận hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công xét xử
vụ án hình sự và các Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử cần phải
kiểm tra xem hồ sơ đã đảm bảo về thủ tục tố tụng và đủ số lượng bút lục theo
danh mục thống kê tài liệu có trong hồ sơ không, nếu phát hiện thiếu tài liệu
nào thì phải kiểm tra để giải quyết ngay.
Khi nghiên cứu bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có trong hồ sơ cũng phải
kiểm tra để đánh giá về tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của
chúng. Việc đánh giá tổng hợp các chứng cứ về vụ án chỉ được tiến hành sau
khi đã nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Thông
thường khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự theo phương pháp nghiên cứu
thứ hai cần tiến hành theo trình tự các nhóm tài liệu sau:
2.1. Nghiên cứu Cáo trạng
Như chúng ta đã biết Cáo trạng là cơ sở pháp lý để Tòa án xét xử vụ
án. Vì vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm nhân dân cần

nghiên cứu kỹ bản Cáo trạng để nắm vững nội dung vụ án và xác định rõ giới
hạn xét xử cụ thể là:
+ Các hành vi phạm tội cụ thể của từng bị cáo mà Viện kiểm sát đã xác
định trong Cáo trạng (kể cả hành vi không truy tố).
+ Các chứng cứ mà Viện kiểm sát dùng làm căn cứ xác định tội phạm
và người phạm tội.
+ Tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố các bị can.
+ Những tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
trách nhiệm hình sự đối với bị can.
+ Mức độ thiệt hại và yêu cầu cụ thể về bồi thường thiệt hại (nếu có).
2.2. Nghiên cứu kết luận điều tra
Sau khi nghiên cứu cáo trạng, cần nghiên cứu kết luận điều tra. Việc
nghiên cứu kết luận điều tra và đối chiếu, so sánh với Cáo trạng giúp Thẩm
phán nắm được diễn biến của hành vi phạm tội, các chứng cứ mà Cơ quan
điều tra sử dụng để chứng minh tội phạm và người phạm tội, kết luận và đề
nghị của cơ quan điều tra về hướng giải quyết vụ án. Cần so sánh những
điểm khác nhau giữa Kết luận điều tra và bản Cáo trạng (về các hành vi
phạm tội, diện truy tố, các tội danh, điều khoản áp dụng của Bộ luật hình sự,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị áp dụng đối với

9


từng bị can và lý do của sự khác nhau đó trong các vụ án có đồng phạm) để
có hướng giải quyết các mâu thuẫn khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu
khác.
2.3. Nghiên cứu các tài liệu về lời khai của những người tham gia
tố tụng
Sau khi nghiên cứu Cáo trạng và Kết luận điều tra, chúng ta nghiên cứu
đến các tài liệu về lời khai của những người tham gia tố tụng như: Biên bản ghi

lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người đại diện
hợp pháp của bị can, người bị hại (nếu có), biên bản đối chất và các tài liệu khác.
Lưu ý, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự đối với các chứng cứ để
chứng minh hành vi phạm tội của một người nào đó, chúng ta cần phải chứng
minh rõ những vấn đề quy định tại Điều 63 BLTTHS đó là:
Một là: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và
những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
Hai là: Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi,
do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động
cơ phạm tội;
Ba là: Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
Bốn là: Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Theo quy định tại Điều 64 BLTTHS thì: chứng cứ là những gì có thật,
được thu thập theo một trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà cơ quan
Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Chứng cứ được xác định
bằng vật chứng; lời khai của những người làm chứng, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người bị bắt, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều
tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Chính vì vậy khi nghiên cứu các chứng cứ này chúng ta cần phải nghiên
cứu hết sức cẩn thận, theo một trình tự nhất định như sau:
Cần xác định lời khai của bị can là một trong những chứng cứ trực tiếp
để xác định sự thật về vụ án. Việc nghiên cứu lời khai, bản tường trình của
các bị can cần tiến hành theo trình tự thời gian lấy lời khai và cần xác định rõ
những hành vi phạm tội nào nêu trong Cáo trạng mà bị can thừa nhận, hành
vi nào mà bị can không thừa nhận và lý do của việc thừa nhận hay không

thừa nhận hoặc thay đổi lời khai là gì; động cơ, mục đích thực hiện hành vi
phạm tội; mức độ ăn năn hối hận và thái độ khai báo của bị can trong quá
trình điều tra. Các lý lẽ, chứng cứ mà bị can đưa ra để bào chữa cho mình
cũng như những điểm mâu thuẫn trong các lời khai của bị can.
2.4. Về giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can

10


Trong quá trình nghiên cứu lời khai của bị can, cần kiểm tra việc tuân
thủ tố tụng của cơ quan điều tra khi lấy lời khai để bảo đảm tính hợp pháp
của chứng cứ như: Bị can có được giải thích đầy đủ về quyền và nghĩa vụ
theo quy định tại Điều 49 BLTTHS hay không (đặc biệt là quyền bào chữa của
bị can trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội hoặc người phạm
tội bị truy tố theo khung hình phạt cao nhất là tử hình theo quy định tại khoản
2 Điều 57 BLTTHS)? Việc ký xác nhận của bị can có đúng quy định không?
Việc sửa chữa, tẩy xóa biên bản hỏi cung bị can có chữ ký xác nhận của bị
can hay không?
Ví dụ: Nghiên cứu và tham khảo luật của Mỹ thì thấy theo quy định tại
Tu chính án thứ 5 trong Hiến pháp Mỹ đã khẳng định: Không người nào bị bắt
buộc phải làm nhân chứng chống lại chính mình trong bất cứ vụ án hình sự
nào. Người ta gọi nội dung trên là quy tắc Miranda. Theo quy tắc này thì
trước khi thẩm vấn, nhân viên điều tra “Cảnh sát” phải đọc và giải thích cho bị
can biết quyền lợi của họ bằng những câu sau:
1. Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời. Anh có hiểu không?
2. Bất cứ những gì anh nói đều có thể được sử dụng để chống lại anh
trước tòa. Anh có hiểu không?
3. Anh có quyền trao đổi với Luật sư trước khi trả lời cho cảnh sát và
có quyền có Luật sư hiện diện trong quá trình thẩm vấn ngay từ bây giờ và
sau này. Anh có hiểu không?

4. Nếu anh không có khả năng thuê Luật sư thì anh sẽ được quyền yêu
cầu tòa chỉ định Luật sư cho mình trước khi thẩm vấn. Anh có hiểu không?
5. Nếu anh quyết định trả lời bây giờ mà không cần có Luật sư hiện
diện thì anh có quyền ngừng trả lời vào bất cứ lúc nào cho tới lúc anh được
nói chuyện với Luật sư. Anh có hiểu không?
6. Bây giờ anh đã biết và hiểu được quyền lợi của anh như tôi đã giải
thích cho anh, anh có sẵn sàng trả lời câu hỏi của tôi mà không có Luật sư
hiện diện không?
Nếu Điều tra viên không đặt ra những câu hỏi nêu trên và không có
biên bản ghi lại có chữ ký của người bị xét hỏi, là vi phạm và những lời khai
của bị can cho dù đó là lời khai tự nguyện cũng bị Tòa án bác bỏ.
So sánh với quyền của bị can, bị cáo được quy định tại Điều 49, 50
BLTTHS thì thấy:
Qua thực tiễn xét xử nhận thấy, trong các biên bản ghi lời khai, có ghi
việc giải thích quyền cho bị can biết theo Điều 49, nhưng thực chất việc giải
thích của Điều tra viên như thế nào, có đầy đủ, để cho bị can hiểu và thực
hiện quyền của mình hay không thì không thấy có văn bản nào thể hiện. Vậy
việc ghi vài dòng tại biên bản ghi lời khai như vậy có bảo đảm tính khách
quan hay không? Do đó, để bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, BLTTHS cần phải có quy định rằng việc giải thích quyền và nghĩa vụ của
họ phải được lập thành biên bản và nêu đầy đủ nội dung quyền và nghĩa vụ.
2.5. Nghiên cứu lời khai của người làm chứng
Cần tiến hành nghiên cứu theo trình tự thời gian để xác định:

11


- Độ tin cậy, tính chính xác trong lời khai của người làm chứng và cần
xác định họ khai về những tình tiết cụ thể nào trong vụ án và tại sao họ biết;
- Họ trực tiếp chứng kiến sự việc hay gián tiếp biết về vụ việc thông

qua nguồn tin nào khác;
- Mối quan hệ giữa người làm chứng với người phạm tội và người bị
hại;
- Điều kiện khách quan (không gian, thời gian, địa điểm) và điều kiện
chủ quan (tinh thần, tuổi tác, nghề nghiệp, khả năng tiếp thu thông tin và nhận
thức...) của người làm chứng khi tiếp nhận thông tin. Các điểm mâu thuẫn
giữa các lời khai trước và lời khai sau của người làm chứng (để đối chiếu với
các chứng cứ khác có trong vụ án). Nếu cần thiết, phải cho đối chất giữa
người làm chứng và bị can, bị cáo hoặc thực nghiệm điều tra.
Ví dụ: Trong thực tiễn có nhiều vụ tai nạn giao thông, khi khám nghiệm
hiện trường chữ ký trong biên bản không phải là của người có mặt từ đầu khi
xảy ra tai nạn mà chỉ là những người ra sau, nhìn thấy hiện trường như vậy
chứ không phải là người chứng kiến việc va chạm dẫn đến tai nạn, do vậy
việc trình bày của họ với cơ quan Điều tra chỉ là theo cảm tính.
2.6. Nghiên cứu biên bản đối chất
Biên bản đối chất giữa các bị can với nhau, giữa bị can và người bị hại,
giữa bị can và người làm chứng, giữa người bị hại và người làm chứng cũng hết
sức quan trọng, giúp cho Thẩm phán có thêm cơ sở để đánh giá độ tin cậy trong
các lời khai còn mâu thuẫn để từ đó xác định được chứng cứ nào là khách quan,
chứng cứ nào là không khách quan. Trên cơ sở đó rút ra được những điểm đã
thống nhất giữa những người đối chất và những điểm còn mâu thuẫn cần tiếp
tục khắc phục bằng các chứng cứ tài liệu khác.
2.7. Nghiên cứu lời khai của người bị hại
Trong các vụ án hình sự, đa số người bị hại là người trực tiếp chứng
kiến hành vi phạm tội. Do vậy, việc nghiên cứu lời khai của họ sẽ giúp cho
Thẩm phán nắm vững được diễn biến của vụ án cũng như các hành vi phạm
tội mà bị can đã thực hiện, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và yêu
cầu bồi thường của họ. Khi nghiên cứu lời khai của người bị hại, Thẩm phán
cần nghiên cứu theo trình tự thời gian mà họ trình bày, xem có sự mâu thuẫn
hay không, thái độ tâm lý, mối quan hệ của họ đối với người phạm tội như thế

nào để có hướng giải quyết đúng đắn vụ án, tránh để lọt tội phạm hoặc gây
oan sai.
2.8. Nghiên cứu lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp của bị
can, bị hại.
Việc nghiên cứu lời khai của những người tham gia tố tụng này cũng
tương tự như nghiên cứu lời khai của người bị hại, song Thẩm phán cần xác
định rõ quyền lợi và trách nhiệm của họ trong vụ án, các chứng cứ để xác
định đúng tư cách tham gia tố tụng của họ, để có cơ sở giải quyết các vấn đề
liên quan đến việc bồi thường trách nhiệm dân sự trong vụ án.
2.9. Nghiên cứu về tài liệu về nhân thân bị can
- Lý lịch bị can;

12


- Thông báo kết quả tra cứu (tàng thư);
- Các tài liệu về tiền án, tiền sự, giấy ra trại (nếu có);
- Bản sao giấy khai sinh hoặc tài liệu xác minh độ tuổi nếu bị can là
người chưa thành niên;
- Giấy khai sinh của đứa trẻ hoặc giấy chứng nhận tình trạng thai
nghén do cơ quan y tế cấp (nếu bị can là phụ nữ đang trong thời kỳ có thai
hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi).
Nhân thân của bị can, người bị hại là một trong những căn cứ để xác
định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Do vậy, trong từng vụ án cụ
thể, nếu trong hồ sơ không có đủ các tài liệu này hoặc không có tài liệu phản
ánh kết quả xác minh của cơ quan điều tra về những đặc điểm nhân thân của
bị can, bị hại thì cần yêu cầu cơ quan điều tra làm rõ.
Ví dụ 1: Bị can là người chưa thành niên, Luật hình sự nước nào cũng
đều có quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải nước

nào cũng giống nhau mà phải tùy thuộc vào sự phát triển về sinh học của con
người ở mỗi quốc gia khác nhau như ở Anh Quốc là 08 tuổi, Hoa Kỳ là 07
tuổi, Thụy Điển là 15 tuổi, Nga là 14 tuổi, Cộng hòa Pháp 13 tuổi,... Ở Việt
Nam là từ đủ 14 tuổi (Điều 12 BLHS). Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là
hết sức quan trọng vì liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự, do vậy
khi tính tuổi phải tính theo tuổi tròn.
Ví dụ 2: Một người sinh ngày 1/1/1990 thì tới ngày 1/1/2004 mới đủ 14
tuổi và tới 1/1/2006 mới đủ 16 tuổi. Trong trường hợp, không có đủ điều kiện
xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của
tháng sinh. Ví dụ chỉ biết sinh tháng 5/1990 mà không biết ngày thì lấy ngày
31/5/1990. Nếu không xác định được chính xác tháng sinh thì lấy ngày cuối
cùng của tháng cuối cùng làm ngày, tháng, năm sinh. Ví dụ chỉ biết sinh năm
1990 thì lấy ngày 31/12/1990.
2.10. Nghiên cứu các tài liệu về nhân thân người bị hại
- Giấy khai sinh hoặc tài liệu chứng minh về độ tuổi của người bị hại
chưa thành niên;
- Giấy chứng nhận của cơ quan y tế về tình trạng thai nghén nếu người
bị hại là phụ nữ có thai.
Ví dụ: Xác định độ tuổi người bị hại trong vụ án hiếp dâm, cũng phải
tính tròn như cách tính tuổi của bị cáo, nếu trường hợp không xác định được
chính xác ngày sinh của họ thì phải lấy ngày đầu tiên của tháng để tính. Nếu
xác định tháng 2/1990 thì lấy ngày 1/2/1990 để tính, nếu không xác định
được cả tháng sinh mà chỉ xác định được năm sinh thì lấy ngày đầu tiên của
tháng đầu tiên của năm. Ví dụ chỉ xác định được năm 1990 thì lấy ngày
1/1/1990 để tính tuổi.
2.11. Nghiên cứu các tài liệu về khởi tố vụ án, khởi tố bị can
- Tài liệu nguồn tin về tội phạm (tố giác của công dân, tin báo của cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội). Biên bản tự thú của người có hành vi phạm tội, các
biên bản xác minh của cơ quan điều tra;


13


- Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can;
- Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can (nếu có) các
quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát;
- Quyết định tách, nhập vụ án (nếu có).
2.12. Nghiên cứu các văn bản về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn như:
Biên bản bắt người phạm tội quả tang; lệnh tạm giữ, gia hạn tạm giữ,
lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam, các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm
sát, quyết định truy nã, quyết định đình nã, công văn đề nghị hủy bỏ biện
pháp tạm giam,...
2.13. Nghiên cứu các tài liệu về kết quả điều tra như
- Lệnh khám xét; các biên bản khám xét, thu giữ vật chứng, bản giao
vật chứng, khám nghiệm hiện trường, nhận dạng, thực nghiệm điều tra;
- Sơ đồ hiện trường;
- Lệnh kê biên và các biên bản kê biên tài sản, niêm phong và mở niêm
phong lấy mẫu giám định;
- Biên bản bàn giao mẫu giám định, quyết định trưng cầu giám định;
- Kết luận giám định;
- Quyết định trả lại tài sản;
- Biên bản giao nhận tài sản;
- Bản ảnh hiện trường;
- Sơ đồ hiện trường.
Đối với các tài liệu này, trước hết cần phải kiểm tra việc tuân thủ các
quy định của BLTTHS về trình tự, thủ tục lập biên bản và tiến hành các hoạt
động tố tụng này của cơ quan điều tra như: thời gian, địa điểm, thành phần
tham gia, việc ký xác nhận vào biên bản.
Ví dụ 1: Khám nghiệm hiện trường vụ án tai nạn giao thông thì những

người chứng kiến ký vào biên bản có phải là những người có mặt chứng kiến
từ đầu vụ tai nạn hay không? Những người, ảnh hoặc đồ vật được đưa ra
nhận dạng, bị thu giữ, niêm phong.... Đối với các vật chứng được thu giữ thì
cần chú ý nơi và cách thức tìm ra vật chứng (do khám xét, khám nghiệm hiện
trường, bị can khai ra nơi cất giữ hay do người nào mang đến nộp). Các đặc
điểm riêng của vật chứng: cần so sánh vật chứng với các chứng cứ khác để
xác định sự thật của vụ án.
Ví dụ 2: Tại hiện trường thu được một chiếc gậy bằng gỗ lim và theo
kết luận của cơ quan điều tra thì bị can đã dùng chiếc gậy này đập nhiều nhát
vào mặt nạn nhân, nhưng dấu vết trên mặt nạn nhận theo kết luận giám định
thì chỉ là sây sát ở mặt do va chạm nhẹ, răng vẫn còn nguyên vẹn... và như
vậy rõ ràng chiếc gậy không thể là hung khí để gây án như kết luận của cơ
quan điều tra được.
2.14. Nghiên cứu kết luận giám định

14


- Trước hết cần kiểm tra các tài liệu, đồ vật (số lượng, chất lượng các
đồ vật, tài liệu Cơ quan điều tra gửi đi) mà cơ quan giám định đã xem xét để
đưa ra kết luận giám định;
- Thẩm quyền của tổ chức (Hội đồng) giám định và tính hợp pháp của
kết luận giám định. Cần so sánh kết luận giám định với các nội dung yêu cầu
giám định và chứng cứ, tài liệu khác của vụ án để xác định độ chính xác,
khách quan của kết luận giám định. Trong trường hợp cần thiết phải quyết
định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Trong các vụ án gây thương tích thì phải xem chứng thương của bệnh
viện mô tả thương tích của người bị hại khi vào viện như thế nào để xác định
được cơ chế hình thành vết thương có phù hợp với hung khí gây án không?
Kết luận giám định đã giám định đầy đủ các vết thương trên người nạn nhân

chưa.
Bên cạnh việc nghiên cứu những tài liệu chính liên quan đến việc giải
quyết vụ án hình sự, Thẩm phán cũng cần phải nghiên cứu một cách nghiêm
túc các nhóm tài liệu khác như:
+ Các tài liệu về đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra;
+ Quyết định trưng cầu giám định pháp y, pháp y tâm thần;
+ Quyết định truy nã;
+ Tài liệu về việc điều trị của bị can;
+ Quyết định tạm đình chỉ vụ án (trường hợp bị can trốn hoặc bị bắt
buộc chữa bệnh);
+ Quyết định tách vụ án (trường hợp bị can bỏ trốn trong quá trình điều
tra);
+ Quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án (đối với bị can trong
vụ án có đồng phạm);
+ Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
+ Quyết định phục hồi điều tra (trong trường hợp hủy bỏ quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra).
Cùng các tài liệu kết thúc điều tra như:
+ Kết luận điều tra vụ án;
+ Biên bản giao nhận kết luận điều tra cho bị can;
+ Thông báo kết quả điều tra cho đương sự; thống kê tài liệu có trong
hồ sơ và biên bản giao nhận hồ sơ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.
Các tài liệu về truy tố như:
+ Các tài liệu bổ sung của Viện kiểm sát (các biên bản phúc cung...);
+ Quyết định thay đổi, bổ sung khởi tố vụ án, khởi tố bị can (nếu có);
+ Cáo trạng, biên bản giao nhận Cáo trạng;
+ Biên bản giao nhận hồ sơ giữa Viện kiểm sát và Tòa án.
Ngoài ra, trong trường hợp Tòa án cấp trên hủy bản án để điều tra lại
hoặc xét xử lại thì hồ sơ vụ án bao gồm toàn bộ hồ sơ vụ án đã xét xử lần 1;


15


các tài liệu phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm (như kháng cáo, kháng nghị,
khiếu nại, bản án, biên bản phiên tòa của cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm).
3. Những tình huống thường gặp khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình
sự
3.1. Về thẩm quyền giải quyết
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán - chủ tọa
phiên tòa được giao nhiệm vụ xét xử vụ án đó xét thấy vụ án không thuộc
thẩm quyền xét xử thì phải báo cáo Chánh án để chuyển vụ án cho Tòa án có
thẩm quyền xét xử theo quy định tại Điều 174 BLTTHS:
“Khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển
vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài
phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu
do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định. Chỉ
được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong
trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ
án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã
được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong
trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định. Trong thời
hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo
cho Viện kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan
trong vụ án”.
Còn lại các trường hợp xác định thẩm quyền khác đều phải căn cứ vào
quy định tại các Điều từ 170 đến 173 của BLTTHS.
3.2. Về vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung
Thực tế hiện nay có rất nhiều trường hợp Viện kiểm sát không hề
muốn Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung kể cả trường hợp Tòa án trả hồ
sơ là hoàn toàn đúng và có căn cứ. Để khắc phục vấn đề này, theo quan

điểm của tôi khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Thẩm phán cần tuân thủ các
trường hợp quy định tại Điều 179 BLTTHS để trả hồ sơ, tránh trường hợp
chuyển hồ sơ đi, chuyển hồ sơ lại mà kết quả là không điều tra thêm được gì,
thậm chí còn gây căng thẳng trong mối quan hệ giữa hai cơ quan tiến hành tố
tụng. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp khi phát hiện ra những vi phạm theo
Điều 179 BLTTHS quy định thì nhất thiết phải trả hồ sơ và nêu rõ những nội
dung cần điều tra bổ sung, nếu Viện kiểm sát không làm theo những nội dung
mà Tòa án yêu cầu thì chúng ta vẫn đưa ra xét xử. Trong trường hợp này nếu
cấp phúc thẩm có hủy án yêu cầu điều tra lại thì cũng không phải là lỗi của
Thẩm phán, nếu vì lý do khác mà chúng ta không trả hồ sơ yêu cầu điều tra
bổ sung mà bản án bị hủy thì đó là lỗi chủ quan của Thẩm phán. Do giới hạn
của việc xét xử theo quy định tại Điều 196 BLTTHS có những trường hợp
Thẩm phán vẫn phải xử theo Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, rồi sau đó
lại phải kiến nghị ngay trong bản án đề nghị cấp phúc thẩm hủy chính bản án
của mình. Đây chính là những bất cập, đang có nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi
Điều 196 BLTTHS.
3.3. Trích tiểu hồ sơ và lập kế hoạch xét hỏi
Lập kế hoạch xét hỏi là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với những vụ án
đồng phạm lớn, có nhiều bị cáo hoặc những vụ án kinh tế lớn phải xét xử

16


nhiều ngày. Việc Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa và các vị Hội thẩm nhân dân
có chủ động được trong việc điều hành phiên tòa và giải quyết tốt các tình
huống phát sinh tại phiên tòa hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc nghiên
cứu hồ sơ, trích tiểu hồ sơ và lập kế hoạch xét hỏi. Do vậy, sau khi nghiên
cứu hồ sơ xong, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa cũng như các vị Hội thẩm
nhân dân cần trích một tiểu hồ sơ phục vụ cho công tác thẩm vấn tại phiên
tòa. Trong tiểu hồ sơ cần thể hiện rõ:

- Tóm tắt nội dung vụ án, tội danh và điều luật mà Cáo trạng đã truy tố,
những mâu thuẫn trong lời khai với cáo trạng của Viện kiểm sát.
- Tóm tắt lời khai của từng bị cáo phù hợp với nội dung của Cáo trạng và
diễn biến của vụ án, được sử dụng như là những chứng cứ buộc tội có các bút
lục cụ thể, dùng để đấu tranh kịp thời với bị cáo tại phiên tòa, có thể dùng ngay
lời khai của bị cáo này để đấu tranh với các bị cáo khác, nếu vì lý do nào đó mà
bị cáo lại chối bỏ lời khai của mình như đã trình bày tại cơ quan điều tra.
- Tóm tắt các bút lục chứa đựng các chứng cứ buộc tội như biên bản
giám định, giấy chứng thương, sổ sách, chứng từ…
- Tóm tắt các bút lục ghi lời khai của người bị hại, nhân chứng, người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bao gồm cả chứng cứ buộc tội và chứng
cứ gỡ tội.
Khi lập kế hoạch xét hỏi, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa và các vị Hội
thẩm nhân dân thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ, phải phân loại các bị
cáo và cần lưu ý các tình huống có thể xảy ra, kể cả trong trường hợp hồ sơ
thể hiện các bị cáo khai rất thành khẩn, cần xác định các tình huống như:
- Các bị cáo có thể sẽ phản cung, tại cơ quan điều tra các bị cáo đã
khai báo thành khẩn nhưng ra tới phiên tòa khi nhìn thấy tên cầm đầu của
bọn chúng lại chối bỏ lời khai của mình nên các bị cáo khác cũng theo đó mà
chối bỏ lời khai của mình.
- Cần phân loại và đánh giá xem bị cáo nào khi ra Tòa sẽ khai thành
khẩn thì hỏi trước, đôi khi không nên hỏi bị cáo đầu vụ mà có kế hoạch hỏi tất
cả các bị cáo có vai trò thứ yếu trước rồi mới có kế hoạch xét hỏi bị cáo đầu
vụ sau.
- Cần phải có những câu hỏi trọng tâm, gợi mở để bị cáo tự khai ra
những hành vi phạm tội của mình.
- Khi đặt câu hỏi cũng cần có kế hoạch đưa ra các tài liệu, chứng cứ ra
để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nếu bị cáo cố tình ngoan cố
không chịu khai báo thành khẩn.
Tóm lại để hoàn thiện hơn các kỹ năng trong việc nhận, thụ lý, nghiên

cứu hồ sơ vụ án hình sự thì đòi hỏi mỗi cán bộ Tòa án, Thẩm phán một mặt
phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn để áp
dụng triệt để vào công việc và nhiệm vụ được giao như nhận, thụ lý, nghiên
cứu và tiến tới nhằm mục đích xét xử, giải quyết vụ án được chính xác và
tuân thủ theo quy định của pháp luật. Mặt khác yêu cầu mỗi cán bộ Tòa án,
Thẩm phán phải luôn luôn cải tiến phong cách làm việc, không nhừng học tập
kinh nghiệm của những người đi trước cùng với việc nắm rõ nội dung quy

17


định của các văn bản quy phạm pháp luật, các Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao.
Bên cạnh đó các Tòa án cần thường xuyên tổ chức những buổi trao
đổi kinh nghiệm về việc nhận, thụ lý, nghiên cứu vụ án hình sự; để tránh việc
hiểu và áp dụng khác nhau của mỗi địa phương, của Tòa án các cấp trong
tỉnh nên cần kiến nghị lên Tòa án nhân dân tối cao mở những lớp tuận huấn
nâng cao nghiệp vụ về nội dung này để tạo nên sự thống nhất trên phạm vi
toàn quốc về kỹ năng nhận, thụ lý và nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự được
đúng đắn, chính xác, đảm bảo tuân theo những quy định của pháp luật hiện
hành, tiến tới đáp ứng với tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra trong giai đoạn hiện
nay.

18


BÀI 2:
KỸ NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Trong lộ trình của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số
08/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị, thì Tòa án được xác định là trung tâm của cải cách tư pháp, hoạt
động xét xử là trọng tâm. Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
hình sự thì cần “bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Hoạt động
của Tòa án tại phiên tòa là để xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật,
xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án. Xét xử là một
dạng đặc biệt của hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Tòa án, mà
cụ thể là Hội đồng xét xử tiến hành công khai.
Chính vì vậy, một phiên tòa hình sự có bảo đảm tính chất tranh tụng
hay không phụ thuộc nhiều vào yếu tố, trong đó vai trò của chủ tọa phiên tòa
có thể nói là quan trọng nhất. Kết quả của phiên tòa như thế nào hoàn toàn
phụ thuộc vào vai trò của chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử
hiện nay, một số Thẩm phán vẫn chưa thực hiện đúng tinh thần của Nghị
quyết số 08, nên đã có không ít phiên tòa chưa thể hiện tinh thần tranh
tụng, phán quyết của Tòa án chưa căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
tại phiên tòa.
Việc vẫn còn những tình trạng này cũng có nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân thuộc về các Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa chưa nắm vững các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và tinh thần của
Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành, thì Chủ tọa phiên tòa vừa là người tiến hành tố tụng, vừa là người
điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Chính vì vậy, để việc tổ
chức và điều khiển tốt phiên tòa theo đúng tinh thần của cải cách tư pháp và
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì chủ tọa phải thực hiện nhiều việc
ngoài những công việc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa cần chú ý, thực hiện tốt những công việc cụ thể như:

1. Những công việc chuẩn bị để Hội đồng xét xử vào phòng xử án
- Đối với các vụ án phức tạp, đông bị cáo Thẩm phán chủ toạ cần có
sự trao đổi thống nhất nội dung thẩm vấn với Hội thẩm về kế hoạch thẩm vấn.
Thẩm phán có thể phân công từng Hội thẩm phụ trách một phần thẩm vấn cụ
thể hoặc người tham gia tố tụng cụ thể để tránh việc câu hỏi lặp đi lặp lại,
không đúng trọng tâm giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm
nhân dân.
- Yêu cầu Thư ký kiểm tra sự có mặt của Kiểm sát viên, bị cáo, những
người tham gia tố tụng được triệu tập, phổ biến nội quy phiên toà rồi mời Hội
đồng xét xử vào phòng xử án.
2. Thủ tục bắt đầu đầu phiên toà
2.1. Khai mạc phiên toà

19


- Khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, Thư ký yêu cầu tất cả mọi
người có mặt trong phòng xử án đứng dậy. Lưu ý, về tác phong Thẩm phán
chủ tọa phiên toà nên có động tác quan sát toàn bộ phòng xử án rồi mới khai
mạc phiên tòa, sau đó mời mọi người ngồi xuống. Tránh trường hợp Thẩm
phán chủ tọa vào chưa nhìn ai cả đã khai mạc rồi mời mọi người ngồi xuống,
như vậy mất đi tính uy nghiêm của phiên toà.
- Thay mặt Hội đồng xét xử Thẩm phán chủ tọa phiên tòa công bố
Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử. Khi đọc quyết định đưa vụ án hình
sự ra xét xử Chủ toạ nên đọc to, dõng dạc, chậm rãi để tăng tính trang
nghiêm của phiên toà.
Lưu ý, khi công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử Chủ tọa phiên toà
nên yêu cầu bị cáo đứng vào vành móng ngựa và những người tham gia tố
tụng có giấy triệu tập của Toà án phải đứng dậy để nghe quyết định đưa vụ
án hình sự ra xét xử, không nên để như hiện nay nhiều phiên tòa khi công bố

quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử Chủ tọa vẫn để tất cả mọi người ngồi
nghe là không bảo đảm tính uy nghiêm của phiên tòa.
Sau khi công bố quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử, Chủ tọa phiên
tòa yêu cầu Thư ký phiên tòa báo cáo sự có mặt, vắng mặt của những người
tham gia tố tụng được triệu tập đến phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa cần căn cứ
vào đề cương điều khiển phiên tòa để thực hiện các thủ tục cần thiết. Cần lưu
ý, phần mở đầu phiên tòa là rất quan trọng, nếu diễn ra suôn sẻ thì các phần
sau sẽ rất thuận lợi và giúp cho Thẩm phán chủ tạo phiên tòa tự tin và chủ
động hơn trong việc điều khiển phiên tòa.
2.2. Kiểm tra căn cước những người được triệu tập đến phiên toà
a. Đối với bị cáo
Chủ tọa phiên tòa cần hỏi kỹ về tên, tuổi, thành phần xã hội, nghề
nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú, nơi làm việc, trình độ học vấn, họ tên cha, mẹ,
hoàn cảnh gia đình. Kiểm tra nhân thân của bị cáo đã bị kết án lần nào chưa?
Nếu có thì bị kết án về tội gì, Tòa án nào xử, thời gian xử, tù giam hay án
treo, đã chấp hành hình phạt xong chưa, trong vụ án này có bị tạm giam, tạm
giữ không, thời gian bao lâu hoặc có bị xử lý hành chính không, nếu có thì bị
xử lý về hành vi gì, thời gian xử lý? Để có cơ sở xác định về tiền án, tiền sự
làm cơ sở cho việc định tội, định khung hình phạt hoặc tổng hợp hình phạt.
Khi hỏi, Chủ tọa cần đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xem có
giống nhau không, nếu khác nhau thì phải làm rõ vì sao khác nhau.
Lưu ý, nếu trước đó bị cáo được hưởng án treo, thì cần hỏi xem tại
bản án trước đó bị cáo có bị tạm giam, tạm giữ ngày nào không và thời gian
bao lâu để trừ cho bị cáo nếu vụ án phải tổng hợp hình phạt của hai bản án.
Đây là trường hợp rất dễ quên và nhầm lẫn.
Hỏi bị cáo đã nhận được bản Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét
xử chưa. Nếu bị cáo chưa nhận được hoặc đã nhận được nhưng dưới 10
ngày và yêu cầu hoãn xử thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà, trừ trường
hợp bị cáo đồng ý xét xử thì mới được xét xử và cần phải có biên bản ghi lại
sự tự nguyện đó.


20


b. Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án
Chủ toạ chỉ cần hỏi về tên tuổi, nghề nghiệp và nơi ở của họ.
Lưu ý, đối với người đại diện hợp pháp của người bị hại, khi nghiên
cứu hồ sơ thấy, đối với người bị hại bị chết mà có thể có nhiều người có tư
cách để là người đại diện hợp pháp, như đã phân tích ở phần trên, thì tại
phiên tòa chủ tọa cần hỏi xem họ có được những người khác uỷ quyền hay
không? Nếu không, mà tại phiên toà những người khác có đến thì cần hỏi
luôn tại phiên toà xem họ có đồng ý để người đó làm người đại diện hợp
pháp hay không? Đặc biệt là các vụ án người bị hại chết thì thường có sự
tranh chấp về tư cách tham gia tố tụng có thể là cha, mẹ, vợ, anh chị em
ruột…
2.3. Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác
Về vấn đề này, hiện cũng có những quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng khi phổ biến quyền và nghĩa vụ thì Chủ
tọa phải phổ biến quyền và nghĩa vụ cho từng người tham gia tố tụng một.
Quan điểm thứ hai cho rằng nên phổ biến gộp theo nhóm những người
tham gia tố tụng có chung quyền và nghĩa vụ khi tham gia phiên toà.
Hiện tại, vấn đề này đã có quy định của Bộ luật tố tụng hình sự do vậy, khi
phổ biến quyền và nghĩa vụ thì nên căn cứ vào quy định tại các Điều 50, 51, 52,
53, 54, 55, 58, 59, 60, 61 để phổ biến đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng. Song để việc điều hành phiên tòa được khoa học, ngắn
gọn, dễ hiểu, Thẩm phán nên phổ biến theo nhóm quyền hoặc nghĩa vụ mà
những người tham gia tố tụng được hưởng hoặc phải chấp hành.

Ví dụ: Ngoài những quyền và nghĩa vụ riêng thì những người tham gia
tố tụng có những quyền chung như quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu bao
gồm bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người đại diện
hợp pháp của bị cáo, bị hại; người bào chữa; người có quyền liên quan.
Quyền thay đổi người tiến hành tố tụng thì chỉ có người có quyền, nghĩa vụ
liên quan, người làm chứng, người giám định, phiên dịch là không có quyền
này, còn lại đều có quyền xin thay đổi người tiến hành tố tụng…
Khi phổ biến, phải giải thích các quyền và nghĩa vụ cho những người
tham gia tố tụng hiểu. Đối với một số quyền, khi phổ biến có thể hỏi ngay việc
thực hiện quyền đó. Ví dụ: Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa, nếu bị cáo đã nhờ người bào chữa thì phải hỏi xem tại phiên toà bị
cáo có đồng ý để Luật sư bị cáo mời bào chữa cho mình không, nếu bị cáo
không mời người bào chữa thì giải thích cho bị cáo quyền tự bào chữa, hoặc
nếu Toà án chỉ định người bào chữa trong những trường hợp bắt buộc thì
cũng hỏi xem bị cáo có đồng ý không…
2.4. Giải quyết việc đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm
sát viên, người giám định, người phiên dịch, Thư ký Tòa án

21


Đây là tình huống hay xảy ra, đòi hỏi Chủ toạ phiên tòa phải hết sức
bình tĩnh để xử lý. Cụ thể, sau khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa công bố các
thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký, nếu có người giám
định, phiên dịch thì chủ tọa cũng cần giới thiệu tên, chức vụ của những người
đó và phải hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có quyền xin
thay đổi người tiến hành tố tụng, xem có ai xin thay đổi người tiến hành tố
tụng hay không? Nếu có người xin thay đổi thì yêu cầu họ nói rõ lý do họ xin
thay đổi. Sau khi nghe họ nêu lý do xin thay đổi, có thể là họ xin thay đổi
chính chủ tọa phiên tòa vì cho rằng chủ tọa phiên tòa sẽ không khách quan,

vô tư khi xét xử, nhưng không đưa ra được lý do, thì cũng không vì thế mà
chủ tọa phiên tòa nổi nóng, có những lời lẽ gay gắt, hay lời lẽ mang tính giáo
dục, răn đe mà phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, phân tích những căn cứ của việc
xin thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa. Trong mọi trường hợp nếu
có người tham gia tố tụng xin thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa thì
Hội đồng xét xử cũng phải tuyên bố tạm dừng phiên toà để vào phòng nghị
án để thảo luận. Giải quyết vấn đề này, có thể xảy ra hai trường hợp đó là:
- Trường hợp thứ nhất, sau khi người bị yêu cầu thay đổi là thành viên
của Hội đồng xét xử trình bày ý kiến về việc bị xin thay đổi, sau đó Hội đồng
xét xử biểu quyết và quyết định theo đa số. Nếu quyết định không chấp nhận
đề nghị thay đổi thì Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử và tuyên bố không có
căn cứ để chấp nhận yêu cầu xin thay đổi thành phần Hội đồng xét xử của
người tham gia tố tụng.
- Trường hợp thứ hai: Nếu quyết định chấp nhận đề nghị thay đổi thành
viên của Hội đồng xét xử theo yêu cầu của người tham gia tố tụng, thì phải
xem xét xem có người thay thế không. Nếu không có người thay thế thì phải
hoãn phiên tòa.
Lưu ý: Nếu người bị thay đổi là Chủ tọa, Hội thẩm, Kiểm sát viên mà
không có người thay thế thì phải hoãn, nếu có Chủ tọa, Hội thẩm, Kiểm sát
viên dự khuyết thì những người này phải được nghiên cứu hồ sơ vụ án rồi và
có mặt từ đầu tại phiên tòa thì mới được thay thế. Nếu là Thư ký Tòa án thì
Chánh án hoặc Phó chánh án Tòa án sẽ cử người khác thay thế và phiên tòa
sẽ xét xử bình thường. Nếu người bị yêu cầu thay thế là người giám định,
phiên dịch thì ngoài việc yêu cầu người đề nghị thay thế phải trình bày lý do
xin thay thế và người bị đề nghị thay đổi phải trình bày ý kiến của mình về
việc bị xin thay đổi, sau đó Hội đồng xét xử sẽ vào phòng nghị án để thảo
luận và quyết định.
2.5. Giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên
toà khi có người vắng mặt
Tại phiên tòa sau khi giải thích quyền và nghĩa vụ cho những người

tham gia tố tụng xong, Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những
người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng,
đưa thêm tài liệu, vật chứng ra xem xét tại phiên tòa hay không?
Nếu có người yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm vật
chứng ra xem xét thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định tại phòng xử án.
Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử chủ động hoặc

22


theo yêu cầu của Kiểm sát viên và yêu cầu của những người tham gia tố tụng
quyết định có hoãn phiên tòa hay không. Tuỳ theo trường hợp Hội đồng xét
xử xem xét và quyết định như sau:
- Nếu vắng mặt bị cáo mà có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa,
nếu bị cáo vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 187 Bộ luật tố tụng hình
sự đó là:
Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả;
Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên toà;
Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã
được giao giấy triệu tập hợp lệ.
Lưu ý: Trong trường hợp thứ nhất cần áp dụng đúng theo thông tư liên
ngành số 03/TT/BNV (C11) ngày 11/4/1997 của Bộ Nội vụ “hướng dẫn việc
truy nã người bị phạt tù và bị cáo đang được tại ngoại bỏ trốn”. Đó là nếu bị
cáo trốn tránh Tòa án hoặc Hội đồng xét xử phải ra quyết định bắt tạm giam
gửi cho Cơ quan Công an và yêu cầu phải báo lại cho Tòa án kết quả bắt tạm
giam. Nếu không bắt được bị cáo thì Tòa án phải làm Công văn yêu cầu Cơ
quan Công an ra lệnh truy nã đối với bị cáo đồng thời tạm đình chỉ nếu thời
hạn chuẩn bị xét xử đã hết. Sau một tháng, kể từ khi có lệnh truy nã mà vẫn
chưa bắt được, cơ quan Công an phải báo cáo lại và Tòa án sẽ xét xử vắng
mặt bị cáo.

Trường hợp vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị cáo trong
trường hợp bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất,
tâm thần thì phải hoãn phiên tòa. Nếu người chưa thành niên không khai báo
về địa chỉ, Cơ quan điều tra đã xác minh làm hết trách nhiệm, nhưng bị cáo
cố tình giấu địa chỉ, không xác minh được người đại diện hợp pháp hoặc các
tổ chức tham gia phiên tòa thì không cần phải có người đại diện hợp pháp
theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 03 ngày 20/06/1992 của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công
an).
- Vắng mặt người bào chữa: Trong những trường hợp bắt buộc phải có
người bào chữa theo khoản 2 Điều 57 thì phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên,
trong trường hợp bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo không nhờ
người bào chữa và đều từ chối việc Đoàn luật sư cử người bào chữa thì vẫn
xét xử. Cần chú ý thực hiện theo đúng hướng dẫn tại điều 2 mục II Nghị
quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
nhất “Những quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” đó
là:
“a. Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất thì họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ đều có
quyền được lựa chọn người bào chữa;
b. Đối với bị can, bị cáo là người từ đủ 18 tuổi trở lên không có nhược
điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì chỉ họ mới có quyền lựa chọn người bào
chữa; do đó, trong trường hợp người thân thích của họ hoặc người khác lựa
chọn (mời) người bào chữa cho họ thì cần phân biệt như sau:

23


b1. Nếu việc lựa chọn (mời) người bào chữa đã có sự đồng ý (hoặc có

sự ủy quyền của bị can, bị cáo thì Tòa án cấp giấy chứng nhận bào chữa để
họ thực hiện bào chữa;
b2. Nếu việc lựa chọn (mời) người bào chữa chưa có sự đồng ý (hoặc
chưa có sự ủy quyền) của bị can, bị cáo thì Tòa án yêu cầu người thân thích
của bị can, bị cáo hoặc người khác thực hiện việc lựa chọn người bào chữa
phải hỏi ý kiến của bị can, bị cáo đang bị tạm giam biết việc người thân thích
của họ hoặc người khác đã lựa chọn (nhờ) người bào chữa cho họ và hỏi họ
có đồng ý hay không. Nếu họ đồng ý thì cấp giấy chứng nhận cho người bào
chữa để người bào chữa thực hiện việc bào chữa”.
Tại Điều 3 có quy định như sau:
a.“…Trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người chưa thành
niên, nhưng khi khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc
trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự.”
d2. Trường hợp yêu cầu từ chối người bào chữa (kể cả trường hợp đã
có yêu cầu từ chối người bào chữa trước khi mở phiên tòa), thì Hội đồng xét
xử cần phải giải thích cho họ biết người bào chữa sẽ giúp cho bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo và chi phí cho người
bào chữa do Tòa án thanh toán.
Trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần và thể chất mà cả bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị
cáo vẫn giữ nguyên ý kiến từ chối người bào chữa thì cần phải ghi vào biên
bản phiên tòa và tiến hành xét xử theo thủ tục chung mà không có sự tham
gia của người bào chữa đã được cử. Nếu chỉ có bị cáo từ chối người bào
chữa, còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không từ chối người bào chữa
hoặc chỉ có người đại diện hợp pháp của bị cáo từ chối người bào chữa còn
bị cáo không từ chối người bào chữa, thì tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục
chung, có sự tham gia của người bào chữa đã được cử”.
Còn nếu vắng mặt người bào chữa trong các trường hợp khác thì tuỳ
trường hợp cụ thể Tòa án có thể vẫn xét xử hoặc hoãn phiên tòa, tuy nhiên
các Thẩm phán cần nghiên cứu và nắm chắc các quy định tại các Điều 56,

57, 58 và 190 Bộ luật tố tụng hình sự. Đặc biệt, cần lưu ý quy định bổ sung tại
Điều 190 Bộ luật Tố tụng hình sự về việc nếu người bào chữa vắng mặt thì
Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử, trừ trường hợp bắt buộc phải có người bào
chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự. Thông
thường trong các trường hợp vụ án nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp;
hồ sơ vụ án có những điểm chưa thật rõ ràng; việc buộc tội bị cáo có những ý
kiến khác nhau… và bị cáo yêu cầu mà người bào chữa vắng mặt có lý do
chính đáng thì Toà án hoãn phiên toà.
Lưu ý, việc bào chữa của luật sư do bị cáo hoặc người đại diện hợp
pháp của bị can, bị cáo mời thì nghĩa vụ của luật sư phải có mặt tại phiên tòa,
song Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng cần chú ý tới việc gửi quyết định
đưa vụ án ra xét xử cho người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi
mở phiên tòa theo đúng quy định tại Điều 182 Bộ luật tố tụng hình sự, tránh
trường hợp người bào chữa lấy lý do không nhận được quyết định đưa vụ án
ra xét xử để xin hoãn phiên tòa.

24


- Trường hợp vắng mặt người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại
diện hợp pháp của họ.
Trong trường hợp, cần phải có lời khai của những người này tại phiên
toà mới giải quyết đúng đắn vụ án hình sự thì Hội đồng xét xử cần phải hoãn
phiên toà.
Nếu người bị hại, nguyên đơn đân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ đã có
lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ của vụ án đã rõ ràng, đầy đủ,
sự vắng mặt của họ không trở ngại gì cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử vẫn
tiến hành xét xử.

Nếu thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử
có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự (khoản
2 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự).
- Trường hợp vắng mặt người làm chứng:
Trong những vụ án mang tính điều tra truy xét mà cần phải có những
lời khai của người làm chứng tại phiên tòa, mới làm sáng tỏ được những tình
tiết quan trọng của vụ án mà người làm chứng vắng mặt thì phải hoãn phiên
tòa.
Lưu ý, những trường hợp muốn áp dụng biện pháp dẫn giải người làm
chứng theo quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự thì cần phải có các
căn cứ sau:
+ Người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ có giấy giao giấy triệu tập
lưu trong hồ sơ;
+ Trong giấy triệu tập đã thông báo rõ là nếu cố ý không có mặt theo giấy
triệu tập mà không có lý do chính đáng thì có thể bị dẫn giải, mà họ vẫn cố tình
không đến phiên toà theo giấy triệu tập;
+ Phải thuộc trường hợp nếu vắng mặt người làm chứng sẽ gây trở
ngại cho việc xét xử hoặc phải hoãn phiên toà.
- Trường hợp vắng mặt người giám định: Nếu trong trường hợp kết
luận giám định đã rõ ràng, không có mâu thuẫn với các chứng cứ khác thì Hội
đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người giám định.
Nếu vụ án có tính chất phức tạp, kết luận giám định còn có những điểm
chưa rõ, cần phải hỏi thêm người giám định tại phiên toà thì phải hoãn phiên
toà.
3. Xét hỏi tại phiên toà hình sự sơ thẩm
Xét hỏi tại phiên tòa, hay như nhiều người thường gọi là “thẩm vấn”,
chính là một phần của quá trình xét xử, trong đó Hội đồng xét xử, Kiểm sát
viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải kiểm tra
các chứng cứ, kết luận điều tra, bản Cáo trạng một cách công khai về những

tình tiết của vụ án, cũng như phải trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, người làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét các

25


×