Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

quyền và nghĩa vụ của thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.24 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA: 2009-2013
Đề tài:

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA THẨM PHÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Mạc Giáng Châu
Bộ môn Luật Tư Pháp

Sinh viên thực hiện:
Huỳnh Trinh
MSSV: 5095389
Lớp: Luật Tư Pháp 2-K35

Cần Thơ, 11/2012


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền


tiến bộ, văn minh, dân chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thật sự của
nhân dân, do dân và vì dân là một trong những chủ trương lớn và nhiệm vụ cấp
bách của Đảng và Nhà nước ta. Trong giai đoạn cải cách hiện nay quyền tư pháp là
một bộ phận của quyền lực Nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và
quyền hành pháp trong tổng thể Nhà nước thống nhất và giữ một vai trò quan trọng.
Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của cơ quan tư pháp, trong đó
Tòa án được xác định là khâu trung tâm và nâng cao chất lượng đổi mới về tổ chức
trong chất lượng đổi mới, về tổ chức trong hoạt động xét xử của Tòa án được coi là
khâu đột phá trong quá trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong giai đoạn hiện nay.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị xác định rõ nhiệm vụ
cải cách tư pháp đến năm 2002 là nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tư
pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân,
xác định rõ quyền hạn của người tiến hành tố tụng theo hướng đảm bảo tính công
khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tố tụng.
Gắn liền với hoạt động của Tòa án là Thẩm phán. Thẩm phán là một trong số
những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt trong quá trình cải cách tư pháp
nói chung, đặc biệt là việc thực hiện các mục tiêu mà Nghị quyết đã đề ra.
Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự là một nội dung rất quan
trọng, một mắt xích không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Do
vậy, việc nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của thẩm phán trong tố tụng hình sự là
một việc làm cần thiết góp phần thực hiện thành công cuộc cải cách tư pháp ở nước
ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc xác định quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự có ý
nghĩa quan trọng, xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Bởi điều đó không những
góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp nói chung
và tổ chức, hoạt động của các chức danh tư pháp nói riêng mà còn góp phần xây
dựng các văn bản pháp luật về Tòa án, về Thẩm phán cũng như việc hướng dẫn, chỉ
đạo hoạt động nghiệp vụ của ngành Tòa án. Trong tố tụng hình sự, quyền và nghĩa

vụ của Thẩm phán không chỉ liên quan và ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của
Tòa án mà còn liên quan đến những chế định quan trọng khác. Vì thế, có thể nói
GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

rằng hiệu quả của thủ tục tố tụng hình sự phụ thuộc một phần không nhỏ vào việc
xác định đúng đắn quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự. Chính
vì những lý do trên người viết chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán
trọng việc giải quyết vụ án hình sự” để làm luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật của
mình để giúp người đọc thấy được quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong phiên
tòa xét xử vụ án hình sự. Đồng thời trong luận văn này người viết cũng đề cập đến
một số thực tiễn và phương hướng hoàn thiện quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán để
làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của Thẩm
phán dưới các góc độ khác nhau. Nhưng chủ yếu là xem xét quyền và nghĩa vụ của
Thẩm phán trong tố tụng hình sự. Trong đề tài nghiên cứu luận văn này người viết
tiếp cận, nghiên cứu vị trí, vai trò, tầm quan trọng, mối quan hệ giữa Thẩm phán với
những người tiến hành tố tụng và các nguyên tắc cơ bản về hoạt động xét xử của
Thẩm phán. Từ đó, phân tích những quy định của pháp luật trong tố tụng hình sự về
quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu nghiên cứu đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc
giải quyết vụ án hình sự” giúp người đọc thấy được vị trí, vai trò cũng như tầm
quan trọng của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ đó rút ra
được những tồn tại của luật, những tồn tại về thực tiễn để đề xuất cũng như những
giải pháp phù hợp góp phần cho việc hoàn thiện quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán
một cách có hiệu quả nhất theo Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở nghiên cứu luận văn là việc xác định quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự, những quy định của pháp luật về vị trí, trách nhiệm, quyền
hạn và vai trò của Thẩm phán trong vụ án hình sự. Người viết sử dụng các phương
pháp so sánh, phân tích, tổng hợp để thực hiện việc nghiên cứu.
5. Cấu trúc của đề tài
Đề tài được trình bày gồm những nội dung chính sau đây:
Mục lục
Lời nói đầu
Chương 1: Khái quát chung về Thẩm phán trong Tố tụng hình sự
Chương 2: Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án
hình sự

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp


Chương 3: Thực tiễn xét xử của Thẩm phán, một số tồn tại và giải pháp
hoàn thiện quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự
Kết luận
Do thời gian nghiên cứu có hạn, việc tìm hiểu tài liệu còn hạn chế, đây cũng là
lần đầu tiên người viết nghiên cứu một đề tài luận văn tốt nghiệp mang tính khoa
học. Do đó, người viết không tránh khỏi những thiếu sót về phân tích, tổng hợp các
quy định của luật cũng như những bất cập tồn tại trên thực tiễn xét xử của Thẩm
phán. Kính mong quý Thầy Cô trong Hội đồng thông cảm và có những ý kiến quý
báu về những thiếu sót để bài luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

3

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Khi nghiên cứu một đề tài khoa học nào thì vấn đề cần tìm hiểu là những cơ sở
lý luận để thấy được những vấn đề chung nhất, khái quát nhất nhằm giúp cho người
đọc nắm bắt được những phần cơ bản đầu tiên trong đề tài của mình. Trong đề tài
nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết những vụ án
hình sự cũng vậy, vấn đề đầu tiên đề cập đến chính là khái quát chung về Thẩm
phán để tìm hiểu vị trí, vai trò của Thẩm phán. Từ đó, đi đến cơ sở lý luận của chế

định này để tìm hiểu về tầm quan trọng cũng như mối quan hệ giữa Thẩm phán với
những người tiến hành tố tụng. Trên cơ sở đó, tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của
Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam.
1.1. Khái quát về Thẩm phán
1.1.1. Khái niệm về Thẩm phán
Thẩm phán là người chuyên làm công tác xét xử các vụ án. Theo đó, khái
niệm Thẩm phán gắn liền với nhiệm vụ xét xử của Tòa án. Mục đích của việc xét xử
là đem đến sự công bằng cho xã hội, đảm bảo cho sự ổn định, phát triển và mang ý
nghĩa thật sự to lớn. Thẩm phán nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết và khi
bản án có hiệu lực pháp luật thì tất cả mọi cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi
công dân đều phải chấp hành. Chính vì lẽ đó, mà nghề Thẩm phán lúc nào cũng
được mọi người tôn vinh. Bởi lẽ, nghề Thẩm phán là nghề đại diện cho quyền lực tư
pháp, quyền lực Nhà nước, là tượng trưng cho khát vọng của mọi tầng lớp, giai cấp
trong xã hội về chân, thiện, mỹ về một hệ thống tiêu chí đạo đức sống làm người. Ở
nước ta, trong tất cả các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, sửa
đổi bổ sung 2001 đều có các điều luật quy định Tòa án là cơ quan xét xử. Bên cạnh
sự phát triển chung của xã hội, hệ thống Tòa án ở nước ta ngày càng được củng cố,
hoàn thiện. Cho đến nay Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Theo
Điều 127 Hiến pháp định 1992 sửa đổi bổ sung 2001 quy định “ Tòa án nhân dân
tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác
do luật quy định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội Việt Nam”.
Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án trước đây đều quy định “ Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân là người được giao nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của
Tòa án”. Như vậy, Thẩm phán là người có vị trí vô cùng quan trọng trong cơ quan
Tòa án vì họ chính là người trực tiếp xét xử vụ án tại phiên tòa nhân danh công lý,
GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Huỳnh Trinh



Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

thay mặt Nhà nước đưa ra phán quyết có tính chất bắt buộc đối với bất kỳ cá nhân,
cơ quan tổ chức có liên quan.
Theo Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm Phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002
sửa đổi bổ sung 2011 quy định “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định
của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án”, theo đó Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo
quy định của pháp luật và xét xử các vụ án, giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của Tòa án.
Như vậy, việc xét xử không phải là nhiệm vụ duy nhất của Thẩm phán mà
Thẩm phán còn giải quyết những công việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án như:
ra quyết định thi hành án, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, ra quyết định xóa án
tích… Mặt khác, những vụ việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì Thẩm phán
không được quyền xét xử.
Tóm lại, Thẩm phán là lực lượng chủ yếu của Tòa án thực hiện chức năng xét
xử, quyết định đến số phận pháp lý của mọi công dân trong xã hội. Thẩm phán là
người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử nhằm
bảo vệ pháp chế, pháp luật đảm bảo sự ổn định, phát triển và công bằng cho xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của tƣ cách Thẩm phán
Thẩm phán là người bảo vệ công lý, phán quyết của Thẩm phán chỉ thật sự là
hiện thân của công lý khi nó đảm bảo được tính khách quan, công bằng và được số
đông thừa nhận. Đồng thời, phán quyết của Thẩm phán có ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và lợi ích của công dân, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và sự lãnh đạo
của Đảng, ảnh hưởng đến việc thực thi dân chủ. Do đó, khi xét xử, Thẩm phán trên
cơ sở nghiên cứu vụ án để xác định chứng cứ. quy phạm pháp luật cần áp dụng để

có quyết định cụ thể cho phù hợp, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ
cá nhân, cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nào Để đáp ứng được nhu cầu trên
Thẩm phán phải ý thức được rằng mình là người phải chịu trách nhiệm về nội dung
về tính công minh của bản án. Chính vì thế, Thẩm phán phải có bản lĩnh và phải
đúng vững trước những tác động từ các yếu tố bên ngoài. Trên nguyên tắc: “Khi xét
xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không cho
phép bất cứ ai, cơ quan Nhà nước nào can thiệp vào việc xét xử của Tòa án dưới bất
cứ lý do nào. Mặc khác, muốn đưa ra phán quyết đúng đắn, giải quyết các tranh
chấp đúng pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, được
quần chúng nhân dân ủng hộ thì hiển nhiên đòi hỏi Thẩm phán phải có đạo đức
trong sáng, có bản lĩnh, năng lực và trình độ chuyên môn vững vàng.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

1.1.3. Vị trí của Thẩm phán
Nói tới tư pháp là nói tới công tác xét xử và những hoạt động phục vụ hoặc
liên quan tới hoạt động xét xử. Với ý nghĩa đó, tư pháp xuất hiện từ rất sớm như là
nhu cầu tất yếu của cuộc sống cộng đồng con người. Bởi lẽ, trong quá trình hoạt
động, sản xuất, trao đổi, sinh hoạt cùng nhau, con người vốn dĩ không thể tránh khỏi
những tranh chấp cần được phán xử, giải quyết công bằng giữa các bên, mà hiện tại
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phán xử là Tòa án. Hiệu lực và hiệu quả của việc

xét xử của Tòa án được đảm bảo bằng nhiều yếu tố, tuy nhiên yếu tố quyết định
nhất là con người. Mà ở đó, Thẩm phán chính là người trực tiếp xét xử vụ án tại
phiên tòa, nhân danh công lý, thay mặt Nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng,
quyết định đến số phận của một công dân trong xã hội. Những phán quyết đúng sai
của Hội đồng xét xử phần nhiều thuộc về trách nhiệm của Thẩm phán, người chịu
trách nhiệm chính trong quá trình giải quyết vụ án.
Đối với Hội Thẩm nhân dân: Hội thẩm là những người đại diện cho nhân dân
tham gia vào hoạt động xét xử với mục đích đảm bảo tính dân chủ. Hội thẩm là
những người được bầu và chịu sự phân công của Chánh án. Họ không phải cán bộ
Toà án. Công tác Hội thẩm là công tác kiêm nhiệm. Hội thẩm cũng có trách nhiệm
nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử. Khi xét xử vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm
phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Mặt khác, khi giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử cũng như khi quyết định bản án,
Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, để cùng với Thẩm phán đưa ra một bản án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mặc dù vậy nhưng trong hoạt động xét xử vị
trí của Thẩm phán vẫn là trung tâm. Điều này thể hiện trong toàn bộ quá trình xét
xử, Thẩm phán luôn giữ vai trò chủ đạo điều khiển phiên tòa. Tại phần xét hỏi,
Thẩm phán - Chủ tọa hỏi trước, các Hội thẩm hỏi bổ sung. Bên cạnh đó, phần nghị
án, Hội đồng xét xử cùng thảo luận và biểu quyết theo đa số, Thẩm phán biểu quyết
sau cùng (quy định tại Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự 2003).
Đối với Kiểm sát viên: Kiểm sát viên là người đại diện cho Viện kiểm sát,
thay mặc cho Nhà nước thực hiện hai chức năng chính là thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Bản cáo trạng mà kiểm sát viên trình bày tại
phiên tòa là quan điểm xử lý vụ án hay những ý kiến của Kiểm sát viên chỉ là đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án, nó chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với Hội
đồng xét xử. Vì vậy Hội đồng xét xử cũng phải độc lập với lời luận tội của Kiểm sát
viên thì mới đảm bảo được tính khách quan tại phiên tòa. Tại phiên tòa sau khi xét

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu


6

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận
về tội nhẹ hơn, nhưng Hội đồng xét xử vần phải xét xử toàn bộ vụ án (quy định tại
Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự 2003). Theo đó, mặc dù Kiểm sát viên rút quyết
định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn phải xem xét toàn bộ vụ án. Nếu thấy việc rút
truy tố của Kiểm sát viên không có căn cứ thì Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ
vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên xem xét việc rút quyết định truy tố
của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Theo Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ định hướng: “Chủ thể của hoạt động xét
xử vụ án hình sự là Thẩm phán và đóng vai trò quyết định mọi phiên tòa”. Như vậy
có thể thấy rằng, chức năng xét xử của Tòa án có vai trò quan trọng trong sự vận
hành quyền tư pháp.
Tóm lại, Thẩm phán là một lực lượng nòng cốt của Tòa án nhân dân. Thẩm
phán hoặc Thẩm phán cùng với Hội đồng xét xử thực hiện chức năng xét xử của
Tòa án. Thông qua việc xét xử Thẩm phán đã đóng góp một phần công sức của
mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh và phòng chống tội
phạm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh các quan hệ pháp luật.
1.1.4. Vai trò của Thẩm phán
Thẩm phán là chủ thể trung tâm của Tòa án, là người trực tiếp thực hành
quyền xét xử. Vì vậy, Thẩm phán đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng

hình sự, trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, xã hội và
công dân. Cũng chính vì vị trí quan trọng của mình, ở mức độ chung nhất, Thẩm
phán có một vai trò chủ yếu trong việc thực hiện chức năng xét xử. Chức năng này
thuộc về thẩm quyền riêng của cơ quan Tòa án, bởi lẽ Tòa án là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền xét xử. Đoạn 1 Điều 127 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 quy
định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân
sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Có thể thấy rằng, phần lớn các hoạt động tố tụng của Tòa
án chính là hoạt động của Thẩm phán. Theo Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân năm 2002 sửa đổi bổ sung 2011: “Thẩm phán là người được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử và giải quyết những việc
khác thuộc thẩm quyền của Tòa án”, điều này cho thấy chức năng hoạt động của
Thẩm phán có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng xét xử của Tòa án.
Chính những hoạt động đó, đã góp phần quan trọng phục vụ sự nghiệp xây dựng và

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, củng cố chính quyền nhân dân và
bảo đảm công bằng xã hội.
Bên cạnh đó, trong tố tụng hình sự, chức năng xét xử có vai trò đảm bảo cho
tố tụng hình sự đúng pháp luật đó chính là yếu tố bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân, bảo vệ pháp luật. Nếu chức năng xét xử được xem là chức năng trọng
tâm giữ vai trò quyết định cả tiến trình tố tụng hình sự thì Thẩm phán là nhân tố hạt
nhân trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Như chúng ta đã biết, Thẩm phán nhân danh Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực
hiện chức năng xét xử điều này có sự phân biệt rõ ràng đối với Trọng tài thương
mại. Điều này cho thấy, chỉ có Tòa án là cơ quan quyền lực duy nhất được giao
nhiệm vụ thực hiện chức năng xét xử, hoạt động xét xử là một dạng hoạt động thực
hiện quyền lực Nhà nước do Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện theo
trình tự tố tụng do luật điều chỉnh. Mặt khác, trong xã hội hiện nay, tội phạm là
hành vi rất nguy hiểm, xâm phạm đến những loại khách thể được Luật hình sự bảo
vệ. Trong những loại khách thể đó, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được
pháp luật bảo vệ như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, tài sản, danh dự…cũng bị kẻ phạm tội xâm hại. Chính
vì thế, đòi hỏi phải có một thiết chế không thể thiếu trong bộ máy Nhà nước là Tòa
án. Mà người chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện nhiệm vụ xét xử của Tòa
án không ai khác hơn là các Thẩm phán. Do đó, thông qua việc Thẩm phán thực
hiện tốt chức năng xét xử, hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm sẽ bị xử lý
kịp thời, quyền và lợi ích công dân bị xâm phạm được bảo vệ.
Mỗi một phán quyết của Thẩm phán có thể dẫn tới chỗ công dân, pháp nhân
được hưởng quyền và lợi ích hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ nhất định. Những
phán quyết của Thẩm phán dựa trên những chứng cứ đã thu thập trong quá trình
điều tra và đã được thẩm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa để đưa ra một bản án
tâm phục khẩu phục. Điều này sẽ tạo cho quần chúng nhân dân một tâm lý tin vào
Tòa án, tin vào pháp luật, tuân vào công lý mà Thẩm phán đã nhân danh Nhà nước
để thực thi. Từ đó, họ có thái độ tôn trọng pháp luật và thực hiện những yêu cầu
pháp luật đặt ra. Đồng thời răn đe phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm xảy ra trong
tương lai.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu


8

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

1.2. Cơ sở lý luận của chế định Thẩm phán
1.2.1. Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động xét xử của Thẩm phán trong tố
tụng hình sự
1.2.1.1. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (quy định
tại Điều 131 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và Điều 17 Bộ luật tố tụng hình
sự 2003)
Nhằm đảm bảo thực hiện việc xét xử một cách thận trọng, khách quan và
chống độc đoán Điều 131 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Điều 17 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định: “Tòa án xét xử tập thể và
quyết định theo đa số”. Theo quy định của Hiến Pháp thì nguyên tắc này bắt nguồn
từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của công dân, lợi ích của
Nhà nước cho nên việc đưa ra phán quyết phải được tiến hành cẩn trọng. Chính vì
thế, phán quyết của Tòa án phải là sản phẩm của trí tuệ tập thể chứ không phải là
riêng của một cá nhân Thẩm phán.
Khi phải đối mặt với quan toà, với công đường người dân chờ đợi sự công
minh, sáng suốt. Toà án là người đại diện của công lý, phán quyết của Tòa án chỉ
thực sự là hiện thân của công lý khi nó đảm bảo được tính khách quan, công bằng
và được số đông thừa nhận. Vậy để đưa ra một phán quyết khách quan, đúng đắn thì
đòi hỏi phải có một Hội đồng xét xử mà trong đó các thành viên cùng trao đổi, bàn
bạc, cọ xát ý kiến với nhau, trên cơ sở đó những tình tiết của vụ án được xem xét

dưới các hình thức khác nhau. Có như vậy, vụ việc mới được làm sáng tỏ, quyết
định mới được chính xác.
Mă ̣c khác , với mô ̣t tâ ̣p thể xét xử như vâ ̣y , thì trách nhiệm công việc không
thuô ̣c về mô ̣t cá nhân nào mà đươ ̣c san sẻ cho tấ t cả các thành viên trong Hô ̣i đồ ng
xét xử. Mô ̣t mă ̣t, tâ ̣p thể sẽ không cho phép mô ̣t cá nhân nào áp đă ̣t ý chí thiên vi ̣
hoă ̣c tùy tiê ̣n lên quyề n lơ ̣i của công dân , mă ̣c khác Thẩ m phán tuy là những người
có kiến thức pháp lý, chuyên môn vững vàng nhưng không vì thế mà Thẩ m phán có
quyền áp đă ̣t ý chí đố i với Hô ̣i Thẩ m nhân dân và buô ̣c Hô ̣i thẩ m phải thu ̣ đô ̣ng làm
theo ý chí của miǹ h . Như vâ ̣y quyế t đinh
̣ tâ ̣p thể trong xét xử còn có ý nghiã ta ̣o sự
đô ̣c lâ ̣p xét xử.
Theo quy đinh
̣ của pháp luâ ̣ t tố tu ̣ng hình sự , viê ̣c xét xử sơ thẩ m (hoă ̣c trong
trường hơ ̣p nhấ t đinh
̣ của xét xử phúc thẩ m ) thành phần của Hội đồng xét xử có
Thẩ m phán và Hô ̣i thẩ m nhân dân. Cụ thể là theo quy định tại Điều 185 và Điều 244
Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng hiǹ h sự 2003 viê ̣c: “Hội đồ ng xét xử sơ thẩm gồ m một Thẩm phán
GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

và hai Hội thẩm, trường hợp vụ án có tính chấ t phức tạp , đặc biê ̣t nghiêm trọng , vụ
án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt c


ó mức cao nhất là tử

hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm ”, “Hội đồ ng xét xử
phúc thẩm gồm ba thẩm phán, trong trường hợp cầ n thiế t có thêm hai Hội thẩm ”.
Như đã phân tích ở trên , thì tất cả các quy đinh
̣ của Tòa án phải đươ ̣c sự thố ng
nhấ t của tâ ̣p thể , không phu ̣ thuô ̣c vào ý kiế n của cá nhân nào . Trong quá trin
̀ h xét
xử, nế u có những vấ n đề phát sinh cầ n đươ ̣c giải quyế t ta ̣i phiên tòa thì phải đươ ̣c
đem ra xem xé t, thảo luận, cọ sát ý kiến. Thẩ m phán - Chủ tọa phiên tòa không được
tự min
̣ tấ t cả theo quan điể m của min
̣
̀ h quyế t đinh
̀ h . Khi xét xử Tòa án quyế t đinh
theo đa số , so với Thẩ m phán thì Hô ̣i thẩ m chỉ là người đưa ra những b iể u quyế t ,
chính kiến của mình còn Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa là người quyết định cuối
cùng. Người có ý kiế n thiể u số được quyề n trình bày ý kiế n của mình bằ ng văn bản
và được để vào hồ sơ vụ án.1
1.2.1.2. Nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm
phán (quy định ta ̣i Điều 129 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và tại điều 15
Bộ luật tố tụng hình sự 2003).
Nguyên tắc này thể hiện tư tưởng lấy “dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc
thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hội thẩm
bằng sự tham gia vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua
đó để nhân dân tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung,
hoạt động Tòa án nói riêng.
Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán được hiểu là Hội thẩm nhân dân cùng
Thẩm phán giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay thủ tục. Mặc

dù Hội thẩm không phải là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ quan,
tổ chức, được cơ quan Nhà nước có Thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân
dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án, nhưng khi tham gia xét xử Hội thẩm
lại ngang quyền với Thẩm phán, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho
đến việc ra quyết định giải quyết vụ án. Đây là điều quan trọng để Hội thẩm thật sự
phát huy được vai trò là đại diện của quần chúng nhân dân của mình.
Trên thực tế, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nhưng Hội thẩm chỉ
chính thức bắt đầu tham gia tố tụng và trở thành thành viên của Hội đồng xét xử khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Xét hỏi là một bước quan trọng trong quá trình xét xử tại phiên tòa. Đây là
một cuộc điều tra trực tiếp, công khai thông qua việc xét hỏi bị cáo và những người
1

Mạc Giáng Châu, Nguyễn Chí Hiếu, Giáo trình Luật tố tụng hình sự, học phần 1 – Bài 1 “Khái niệm, nhiệm
vụ và các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự”, Trường Đại Học Cần Thơ, 2010, tr.14

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

10

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

tham gia tố tụng, xem xét các tài liệu, chứng cứ đã thu thập ở giai đoạn điều tra, đặc
biệt là những tài liệu chứng cứ đã xuất trình tại Tòa án để làm sáng tỏ mọi tình tiết
của vụ án. Trong giai đoạn xét hỏi vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm tại phiên tòa

là rất quan trọng, bởi lẽ thông qua việc xét hỏi sẽ tìm ra được sự thật của vụ án. Hội
thẩm có quyền hỏi những người tham gia tố tụng bất cứ vấn đề gì có liên quan đến
vụ án và có quyền khẳng định, bảo vệ ý kiến của mình miễn sao đó là một ý kiến
không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Trong khi nghị án và biểu quyết để quyết định đưa ra phán quyết cuối cùng
của Hội đồng xét xử không thể không có sự biểu quyết của Hội thẩm. Bởi lẽ theo
Khoản 1 Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Điều 131 Hiến pháp 1992 sửa
đổi bổ sung 2001 quy định: “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án.
Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án
bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau
cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và
đưa vào hồ sơ vụ án”, “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số”.
Thẩm quyền pháp lý của thành viên Hội đồng xét xử ngang nhau như vậy thì ý kiến
của mỗi thành viên trong Hội đồng xét xử đều được tôn trọng và có tính quyết định
như nhau. Mỗi khi tiến hành xong một phần của phiên tòa, Thẩm phán – Chủ tọa
phiên tòa phải hỏi ý kiến của Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm không có ý kiến bổ sung
mới chuyển sang phần khác. Cùng với những quy định khác của pháp luật, sự vắng
mặt của Hội thẩm trong các phiên tòa xét xử sơ thẩm buộc phải có Hội thẩm nhân
dân tham gia mà Hội thẩm nhân dân không tham gia thì buộc phải hoãn phiên tòa.
1.2.1.3. Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật (quy định tại Điều 130 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và
Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự 2003)
Nguyên tắc này được quy định thành một nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật tố
tụng hình sự 1998 và tiếp tục được kế thừa ở Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Theo đó,
nguyên tắc này đòi hỏi các thành viên trong Hội đồng xét xử phải độc lập trong việc
nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ và đưa ra các quyết định về sự việc phạm tội
và người thực hiện tội phạm mà không bị sự chỉ đạo, ảnh hưởng của bất kỳ đơn vị,
tổ chức, cá nhân nào. Thậm chí, các thành viên trong Hội đồng xét xử cũng không
bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên trong cùng Hội đồng xét xử.
Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm không phụ thuộc vào các quy định hoặc

các kết luận của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Khi xét xử vụ án hình sự Thẩm
phán và Hội thẩm giải quyết vụ án trên cơ sở hồ sơ tài liệu do Cơ quan điều tra,

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

Viện kiểm sát cùng cấp và các tài liệu yêu cầu của những người tham gia tố tụng
nhưng Tòa án không phụ thuộc vào bất cứ ai có nghĩa là không phụ thuộc vào các
quyết định hoặc các kết luận của Cơ quan điều tra (độc lập với hồ sơ vụ án). Độc
lập với kết luận của Viện kiểm sát (độc lập với bản cáo trạng và quyết định truy tố).
Thẩm phán và Hội thẩm được độc lập trong việc nghiên cứu hồ sơ tài liệu kết hợp
với những chứng cứ mới thu được tại phiên tòa xét xử để có kết luận riêng của mình
đối với từng vấn đề.
Các thành viên trong Hội đồng xét xử làm việc độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Khi xét xử các vụ án hình sự Hội đồng xét xử căn cứ vào các tình tiết của vụ
án, căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa công khai và căn cứ vào
vào pháp luật để xác định tội phạm cũng như các hình phạt đối với người phạm tội.
Các thành viên trong Hội đồng xét xử không để bất cứ ai, vì bất cứ lý do gì chi phối
mà xử lý không đúng pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là Hội thẩm không chịu sự
chi phối của Thẩm phán khi tham gia xét xử vụ án hình sự. Hội thẩm tuy là những
người không chuyên làm công tác xét xử nhưng khi tham gia vào Hội đồng xét xử
họ phải được độc lập với Thẩm phán. Hội thẩm có quyền hỏi những người tham gia

tố tụng bất cứ vấn đề gì liên quan đến vụ án mà mình được mời tham dự và quyền
khẳng định, bảo vệ ý kiến của mình không cần hỏi bất cứ ai có mặt tại phiên tòa
miễn là ý kiến đó không trái với luật, không trái với đạo đức xã hội. Khi nghị án
Thẩm phán là người phát biểu sau cùng để không ảnh hưởng đến tính độc lập của
Hội thẩm. Các vấn đề của vụ án đều phải được biểu quyết và quyết định theo đa số.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập không có nghĩa là tách rời đường lối
chính sách của Đảng. Đảng không chỉ đạo xét xử từng vụ án cụ thể nhưng Đảng chỉ
ra đường lối xét xử trong từng giai đoạn và đối với từng loại án. Mặc khác, độc lập
không có nghĩa là không có sự kiểm tra và giám sát. Tòa án cấp trên có quyền thẩm
tra những bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới, hủy bỏ chúng trong trường
hợp trái luật hoặc không có cơ sở đúng đắn. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà phải tuân theo luật.
Như vậy, “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau”. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân
theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là ràng buộc, nếu chỉ độc lập mà không
tuân theo pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng xét xử tùy tiện độc đoán.
Tóm lại, nguyên tắc này đảm bảo cho Tòa án thực hiện tốt các chức năng xét
xử của mình theo quy định của pháp luật, đồng thời đề cao trách nhiệm của Hội

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

12

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp


thẩm và Thẩm phán. Việc bảo đảm tính độc lập trong hoạt động xét xử cũng là việc
đảm bảo các bản án được tuyên tại Tòa là công khai, minh bạch, xử lý đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan cho người vô tội.
1.2.2. Tầm quan trọng của tƣ cách Thẩm phán
Trong nhiều nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tòa án chiếm vị trí vai trò hết
sức quan trọng. Bởi lẽ, Tòa án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp của bộ máy
Nhà nước, có ảnh hưởng tới mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Tòa án cũng là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của
Nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy
tín của cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiệu lực
và hiệu quả hoạt động của Tòa án được đảm bảo bằng nhiều yếu tố, nhưng yếu tố
con người là có tính quyết định. Thẩm phán chính là chủ thể trung tâm của Tòa án,
là người trực tiếp thực hành quyền xét xử. Vì vậy, Thẩm phán có tầm quan trọng rất
lớn trong hoạt động tố tụng hình sự, trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của Nhà nước xã hội và công dân.
1.2.2.1. Thực hiện chức năng xét xử của Tòa án
Nói đến chức năng xét xử là nói đến quyền tư pháp. Đây là quyền lực riêng
của cơ quan Tòa án mà không có sự san sẻ với cơ quan Nhà nước nào khác. Có thể
khẳng định rằng, phần lớn các hoạt động tố tụng của Tòa án chính là hoạt động của
Thẩm phán, Thẩm phán có một tầm quan trọng trong việc thực hiện chức năng xét
xử của Tòa án được quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân năm 2002 sửa đổi bổ sung 2011: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án”. Bằng kết quả hoạt động của mình, Thẩm phán góp phần
quan trọng phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, củng cố chính quyền nhân dân và bảo đảm công bằng xã hội.
Trong tố tụng hình sự, nếu nói buộc tội là một chức năng cơ bản có vai trò
đảm bảo cho tố tụng hình sự được vận hành đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp luật. Chức năng xét xử được coi là chức năng

trọng tâm giữ vai trò quyết định cả tiến trình tố tụng hình sự, trong đó Thẩm phán là
nhân tố hạt nhân trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Về bản chất, Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử của Tòa án là áp dụng
pháp luật vào trường hợp cụ thể nhưng sự áp dụng mang tính chất đặc thù là nhân
danh Nhà nước và chỉ có Tòa án là chủ thể duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ
thực hiện chức năng xét xử .

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

1.2.2.2. Góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm;
bảo vệ lợi ích, chủ quyền quốc gia; lợi ích chính đáng của công dân, trên mặt
trận pháp lý và bảo vệ uy tín của Đảng, Nhà nƣớc
Trong xã hội hiện nay, tội phạm và hành vi nguy hiểm của chúng đang lần
lượt diễn ra và ngày càng gia tăng xâm phạm đến quyền và lợi ích của công dân vì
vậy cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm là công tác thường xuyên và liên tục,
luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Do đó thông qua việc xét xử,
Thẩm phán góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Bởi vì, bằng những phán quyết vừa mang tính nghiêm khắc, vừa mang tính giáo
dục, Thẩm phán là người tuyên truyền pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật đến với
nhân dân để thực hiện mục đích của hoạt động tố tụng là phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,

không làm oan người vô tội. Bên cạnh đó, Thẩm phán với cương vị của mình đã trở
thành người lính bảo vệ lợi ích, chủ quyền quốc gia, lợi ích chính đáng của cá nhân,
pháp nhân trên mặt trận pháp lý. Công việc của Thẩm phán thật chất là áp dụng
đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các quy định của pháp
luật. Chính vì thế, mà thành công của họ không chỉ mang lại vinh quang cho chính
họ mà còn bảo vệ uy tín của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, trong hoàn cảnh xã hội hiện nay không lúc nào đứng yên mà luôn
thay đổi từng ngày, từng giờ bên cạnh sự thay đổi đó, tính chất và mức độ nguy
hiểm của một số loại tội phạm ngày càng tinh vi và xảo quyệt. Do đó, để thực hiện
tốt vai trò quan trọng của mình, đòi hỏi Thẩm phán cần phải tích cực học tập để
nâng cao trình độ chuyên môn kĩ năng và nghề nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu thay
đổi của xã hội và công cuộc cải cách hiện nay.
1.3. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với những ngƣời tham gia tố tụng khác
1.3.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân
Hoạt động của Tòa án đòi hỏi xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
chính điều đó mới đảm bảo được kỷ cương trật tự, bảo vệ các quyền và lợi ích của
cá nhân, tổ chức và của Nhà nước. Để làm được điều đó, rất cần có những Thẩm
phán chuyên nghiệp, bên cạnh đó cũng rất cần có Hội thẩm là những người có cuộc
sống thực tế, có mối quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân. Hội thẩm bổ sung
những kinh nghiệm và tri thức nghề nghiệp cho các Thẩm phán bằng kinh nghiệm,
vốn sống thực tế và tri thức của mình. Đây là mối quan hệ phối hợp giữa Thẩm
phán và Hội thẩm. Điều 129 của Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và Điều 4,5
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 3,4 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Huỳnh Trinh



Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

thẩm nhân dân năm 2002 sử đổi bổ sung 2011 quy định: “Việc xét xử của Tòa án
nhân dân có Hội thẩm, việc xét xử của Tòa án quân sự có Hội thẩm nhân dân tham
gia. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”; “Khi xét xử Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Việc quy định khi xét xử có Hội
thẩm tham gia nhằm bảo đảm dân chủ trong hoạt động xét xử của Tòa án, giúp cho
việc xét xử của Tòa án được chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích, nguyện
vọng của quần chúng nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Thẩm phán
với quần chúng nhân dân. Hội thẩm là người tạo điều kiện giúp Thẩm phán làm tốt
công tác tuyên truyền pháp luật, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật trong nhân dân.
Theo quy định của pháp luật, việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là trách nhiệm
của Hội đồng xét xử nên Hội thẩm phải nghiên cứu hồ sơ trước khi xét xử. Mối
quan hệ giữa Hội thẩm và Thẩm phán được xác lập từ đây và được thể hiện một
cách bình đẳng và ngang quyền.
1.3.1.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm trƣớc khi mở phiên tòa
Trước khi mở phiên tòa, mối quan hệ giữa Hội thẩm và Thẩm phán là mối
quan hệ đồng nghiệp, mang tính hỗ trợ và hướng dẫn. Kết quả của một phiên tòa là
do trí tuệ, công sức của Hội đồng xét xử mà có. Giữa Thẩm phán và Hội thẩm có
những trao đổi bổ sung kiến thức khi nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa để
cùng nhằm mục đích là bước lên bục xét xử chủ động , khách quan và vô tư. Mối
quan hệ này được thể hiện : Thẩm phán có thể khai thác vốn chuyên môn của Hội
thẩm, đề nghị Hội thẩm giảng giải về mặt thuật ngữ chuyên môn, về kiến thức cơ
bản mà Thẩm phán thấy chưa rõ nhằm đạt được chất lượng cao khi xét xử. Mặt
khác, trước khi nghiên cứu hồ sơ, Hội thẩm có thể đề nghị Thẩm phán cho biết sơ
bộ về nội dung vụ án và những người tham gia tố tụng để đối chiếu với quy định

của pháp luật xem mình có phải từ chối tham gia xét xử không để từ chối việc tham
gia xét xử ngay trước khi nghiên cứu hồ sơ, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ Hội
thẩm có thể phát hiện những vấn đề cần trao đổi với Thẩm phán để bổ sung cho xét
xử như: sự cần thiết phải triệu tập thêm người có liên quan tới vụ án, triệu tập thêm
người chứng. Giữa Hội thẩm và Thẩm phán cùng trao đổi, thống nhất cách thẩm
vấn tại phiên tòa như là thẩm vấn ai, thẩm vấn nội dung gì, thẩm vấn đến đâu, thẩm
vấn nhằm mục đích gì, dự đoán những gì có thể xảy ra trước những câu hỏi của Hội
đồng xét xử và câu trả lời của các đối tượng được hỏi.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

15

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

1.3.1.2. Mối quan hệ giữa thẩm phán và Hội thẩm tại phiên tòa hình sự
Tại phiên tòa hình sự mối quan hệ giữa Hội thẩm và Thẩm phán là mối quan
hệ phối hợp bởi họ đều là thành viên trong Hội đồng xét xử, là người tiến hành tố
tụng và thể hiện trách nhiệm của mình rõ nhất. Mối quan hệ này được thể hiện ở
phần khai mạc phiên tòa trách nhiệm chủ yếu thuộc về Thẩm phán Chủ tọa phiên
tòa. Trong trường hợp nếu Thẩm phán không thực hiện đầy đủ nội dung tố tụng thì
Hội thẩm trao đổi, bổ sung ngay với Thẩm phán ngay tại phòng xử án. Xét hỏi tại
phiên tòa là khâu vô cùng quan trọng của việc xét xử, là cuộc đấu tranh công khai
về sự khách quan của vụ án, trong quá trình xét hỏi Thẩm phán hỏi trước, Hội thẩm
chú ý để bổ sung, tập trung làm rõ những vấn đề liên quan đến vụ án. Xét hỏi tại

phiên tòa là khâu vô cùng quan trọng của việc xét xử, là cuộc đấu tranh công khai
về sự khách quan của vụ án. Trong quá trình xét hỏi Thẩm phán hỏi trước, Hội thẩm
chú ý để bổ sung, tập trung làm rõ những vấn đề liên quan đến vụ án.
Vì có sự chênh lệch về kiến thức pháp lý, nên Hội thẩm thường có tư tưởng ỷ
lại Thẩm phán, nếu không quy định một cách rõ ràng, thì sự tham gia của Hội thẩm
chỉ mang tính hình thức, mọi quyết định đều thuộc về Thẩm phán như vậy sẽ không
đảm bảo được nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Để tránh tình
trạng này, pháp luật đã quy định nguyên tắc “Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với
Thẩm phán” (Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự 2003) và nguyên tắc “Khi xét xử
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 16 Bộ luật tố
tụng hình sự 2003) nhằm đảm bảo cho Hội thẩm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Tóm lại, để đạt hiệu quả cao trong công tác xét xử, giữa Thẩm phán và Hội
thẩm cần phải có sự kết hợp chặt chẽ để Thẩm phán biết phát huy và đề cao tính độc
lập của Hội thẩm đồng thời có trách nhiệm hướng dẫn, bồi dưỡng thực tế về nghiệp
vụ của Hội thẩm. Bên cạnh đó, Hội thẩm phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng đạo
đức tạo niềm tin với nhân dân. Đồng thời, pháp luật cũng cần quy định một cách cụ
thể hoạt động của Hội thẩm làm cơ sở cho Hội thẩm phát huy được vai trò của mình
trong hoạt động xét xử, góp phần cùng Thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
1.3.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên
1.3.2.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với kiểm sát viên trƣớc khi mở phiên
tòa
Kiểm sát viên tham gia tố tụng với hai chức năng chính là thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật góp phần bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Kiểm sát viên tham gia tố tụng theo sự phân

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

16


SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

công và chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiểm sát. Hiệu quả xét xử của Toà
án phụ thuộc phần nhiều vào hoạt động của Kiểm sát viên. Nghị quyết số 08NQ/TW, ngày 02-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp "Phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, người bào chữa,..."2 Căn cứ vào kết quả điều tra, kiểm sát viên có quyền lập
bản cáo trạng, có quyền xét hỏi, tranh luận. Bản chất việc xét xử vụ án hình sự là
việc Tòa án như là một trọng tài đứng ra phân xử và phán quyết khi tồn tại sự cáo
buộc của bên này với bên kia. Chức năng của Nhà nước là nhân danh công lý và
Nhà nước kết luận một người phạm tội hay không phạm tội. Tuyên bố một người
nào đó phải dựa trên sự buộc tội và tất nhiên cần xét xử. Vì vậy, bản cáo trạng có
ảnh hưởng thực tế đối với việc xét xử của Thẩm phán. Bản cáo trạng là văn bản
pháp lý đầy đủ, toàn diện nhất của Viện kiểm sát đánh giá về tội phạm trên cơ sở
nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra có ý nghĩa buộc tội bị can. Nhưng
đó không phải là quan điểm bất biến, trước khi mở phiên tòa nếu Viện kiểm sát rút
toàn bộ quyết định truy tố thì Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu Viện kiểm
sát rút một phần quyết định truy tố thì Tòa án xét xử phần không rút của quyết định
truy tố. Mặt khác, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ, quyết định
tạm đình chỉ vụ án phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp biết (theo Khoản
3 Điều 182 Bộ luật tố tụng hình sự 2003), quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn cũng phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp (theo Khoản 4
Điều 182). Kiểm sát viên tích cực chủ động đánh giá và phân loại chứng cứ để đưa
ra bản cáo trạng khách quan, chính xác để đưa cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét
xử.

1.3.2.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự
Tại phiên tòa xét xử Kiểm sát viên là người đại diện cho Viện kiểm sát, thay
mặc cho Nhà nước thực hiện quyền công tố và Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên có
trách nhiệm chứng minh tính có căn cứ của nội dung truy tố bằng cách đưa ra những
chứng cứ, căn cứ pháp lý, lập luận để buộc tội bị cáo, đồng thời bác bỏ các chứng
cứ, quan điểm lập luận của bị cáo, người bào chữa. Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên
đưa ra kết luận, đề nghị và yêu cầu cụ thể đối với Hội đồng xét xử. Mặt khác, tại
phiên tòa Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập với bản cáo trạng. Bởi lẽ có những
trường hợp Hội đồng xét xử do quá tin vào bản cáo trạng mà không độc lập xem
2

Xem Nghị quyết số 08-NQ/TW,ngày 02-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của hoạt
động tư pháp.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

xét, đánh giá chứng cứ để làm sáng tỏ vụ án, không dựa vào kết quả tranh tụng thực
tế tại phiên tòa mà đã vội vã buộc tội theo hướng mà bản cáo trạng đưa ra dẫn tới hệ
quả là bỏ sót tội phạm và người vô tội bị kết tội oan trong nhiều năm liền. Đây là
một ví dụ điển hình: Một vụ án giết người, cướp tái sản của công dân xảy ra tại xã

Tân Minh huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận vào tháng 5/1993 mà dư luận đặt tên là
“Vụ án vườn Điều” phải qua hai lần xét xử sơ thẩm và hai lần xét xử phúc thẩm, chỉ
đến khi Cơ quan điều tra của Bộ công an trực tiếp điều tra, thì những người vô tội
mới được minh oan, trong đó, bà Nguyễn Thị Lâm đã bị giam giữ hơn bảy năm, bị
can Nguyễn Thị Nhung thì bị chết năm 2001(trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm lần
một 11 ngày)3. Hội đồng xét xử, đặc biệt là Thẩm phán đã quá thụ động trong việc
nghiên cứu hồ sơ vụ án, không độc lập xét xử mà lại lệ thuộc hoàn toàn vào kết quả
điều tra của Cơ quan điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát, hoạt động chứng minh
tội phạm của Hội đồng xét xử dường như không có, phán quyết chủ quan, áp đặt
chứ không hề dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Thẩm phán và Hội thẩm
phải xem xét lời luận tội của kiểm sát viên có như vậy thì mới đảm bảo được tính
khách quan tại phiên tòa. Cụ thể khi trình bày lời luận tội của mình, Kiểm sát viên
đề nghị Hội đồng xét xử chuyển tội danh nhẹ hơn cho bị cáo khác với lời luận tội
trong bản cáo trạng, nhưng Hội đồng xét xử thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là
không có căn cứ, khi đó Hội đồng xét xử phải độc lập khi xem xét lời yêu cầu của
Kiểm sát viên. Ví dụ: Viện kiểm sát tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Đỗ Tấn Đạt về tội
giết người theo Khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự, khi trình bày lời luận tội, Kiểm
sát viên đề nghị Hội đồng xét xử kết án bị cáo về tội cố ý gây thương tích theo
Khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử thấy đề nghị của Kiểm sát viên
là không có căn cứ. Trong trường hợp này thì Hội đồng xét xử vẫn giữ nguyên tội
danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Bởi lẽ, trong quy định tại Điều 196 Bộ luật tố
tụng hình sự: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử”. Trong trường
hợp này Viện Kiểm sát truy tố và Tòa án tỉnh Tây Ninh quyết định đưa vụ án ra xét
xử đối với bị cáo Đỗ Tấn Đạt là tội giết người, nên Hội đồng xét xử vẫn có quyền
kết án bị cáo Đỗ Tấn Đạt về tội giết người. Quyết định này là hoàn toàn đúng pháp
luật, không vi phạm Điều 196 của Bộ luật tố tụng hình sự4. Mặt khác, theo Điều 195
Bộ luật tố tụng hình sự tại phiên tòa Kiểm sát viên và Thẩm phán độc lập với nhau.
Bởi lẽ “Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút toàn bộ hay một
3


/> />4

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

phần quyết định truy tố hoặc kết luận theo tội danh nhẹ hơn, nhưng Hội đồng xét xử
vẫn xét xử toàn bộ vụ án”. Do đó, Hội đồng xét xử kết án bị cáo Đỗ Tấn Đạt về tội
giết người là hoàn toàn đúng pháp luật và đảm bảo được tính độc lập của Thẩm
phán và Hội thẩm. Và cũng theo quy định tại Khoản 2 Điều 222 Bộ luật tố tụng
hình sự trong trường hợp khi nghị án Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố
thì khi nghị án, Hội đồng xét xử vẫn phải giải quyết từng vấn đề một, nếu có căn cứ
xác định bị cáo không có tội thì khi tuyên án Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo vô tội.
Đây là một trong những nội dung cho thấy sự độc lập giữa Hội đồng xét xử với
quyết định truy tố của Kiểm sát viên. Bởi lẽ, trong quá trình thảo luận nghị án, Hội
đồng xét xử phải hoàn toàn độc lập, căn cứ vào chúng cứ và tài liệu đã thẩm tra tại
phiên tòa không chịu ảnh hưởng từ bản cáo trạng mà Kiểm sát viên trình bày tại
phiên tòa.
Kiểm sát viên không có quyền thay đổi nội dung buộc tội theo hướng tăng
nặng đối với bị cáo. Việc thay đổi nội dung buộc tội của kiểm sát viên chỉ được
phép nếu điều đó không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và không vi phạm quyền
bào chữa của bị cáo. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật

tại phiên toà. Đây là hai chức năng gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó, chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử hỗ trợ cho chức năng thực hành
quyền công tố. Các chức năng này của Viện kiểm sát được Kiểm sát viên thực hiện
thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên toà. Ngay cả sau khi phiên toà kết thúc,
Kiểm sát viên vẫn còn phải tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình, kiểm sát tính hợp
pháp và có căn cứ của bản án mà Hội đồng xét xử đã tuyên và biên bản phiên toà.
Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu Toà án khắc
phục những vi phạm đó hoặc báo cáo Viện trưởng viện kiểm sát kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm.
Như đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy mối quan hệ giữa Thẩm phán và
Kiểm sát viên là mối quan hệ phối hợp nhưng có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau.
Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể sự phối hợp này tuy nhiên
đây là hai chức danh tư pháp chủ yếu trong tố tụng hình sự để tìm ra sự thật khách
quan của vụ án. Mỗi một khâu làm tốt sẽ tạo tiền đề, điều kiện để khâu sau đạt hiệu
quả cao. Công tác xét xử của Toà án đạt hiệu quả phải phụ thuộc vào yếu tố con
người. Cho dù pháp luật có hoàn hảo mà trình độ, ‎ý thức của những người tiến hành
tố tụng không có thì cũng không đạt được hiệu quả mong muốn. Sự phối hợp ở đây
không có nghĩa là thông đồng để đưa ra phán quyết sai lầm, bỏ lọt tội phạm. Sự

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp


phối hợp ở đây là tạo điều kiện cho cả Thẩm phán và Kiểm sát viên hoàn thành
nhiệm vụ của mình. Phối hợp được thể hiện cả về nội dung và hình thức.
Tóm lại, khi nhìn nhận ở góc độ chung nhất, có thể khẳng định rằng, Thẩm
phán có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động Tố tụng hình sự. Là người
tiến hành tố tụng, Thẩm phán cùng Hội thẩm nhân danh Nhà nước thực hiện chức
năng xét xử của Tòa án nhằm đưa ra một băn án có căn cứ và đúng pháp luật; xét xử
đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Bên
cạnh đó, sự ngang quyền, tính độc lập giữa Thẩm phán và Hội Thẩm cũng như tính
độc lập giữa Thẩm phán với các chủ thể tố tụng khác là hết sức cần thiết bởi có như
vậy thì vụ án mới được xét xử một cách khách quan, và tạo cho quần chúng nhân
dân một tâm lý tin vào Tòa án, tin vào pháp luật, tin vào tâm lý mà Thẩm phán nhân
danh Nhà nước để thực thi.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

20

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

CHƢƠNG 2
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA THẨM PHÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1 Quyền của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự
2.1.1. Quyền đƣa ra các quyết định khi nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử

Chuẩn bị xét xử là thời gian từ khi Tòa án nhận hồ sơ (thụ lý vụ án) đến trước
ngày khai mạc phiên tòa. Công tác này là rất quan trọng, bởi lẽ, nếu chuẩn bị tốt thì
việc xét xử sẽ đạt kết quả tốt. Mục đích của việc nghiên cứu hồ sơ không chỉ đưa ra
một trong các quyết định quy định tại Khoản 2 Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự
2003 mà còn phát hiện những vi phạm trong hoạt động tố tụng của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát.
Để đảm bảo cho việc ra các quyết định tại Khoản 2 Điều 176 Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 đúng hạn và có căn cứ, sau khi nhận hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát
chuyển sang và vào sổ thụ lý, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa có
nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ để làm sáng tỏ vấn đề như: vụ án có thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình không, đã có đủ chứng cứ làm sáng tỏa vụ án chưa; việc điều
tra có đúng quy định pháp luật hay không; hành vi mà bị can truy tố có cấu thành tội
phạm hay không; có áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hay không;có lý
do để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hay không…Có như vậy mới giúp Thẩm
phán có thể đưa ra những quyết định phù hợp với các điều kiện luật định.
2.1.1.1. Quyền quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trả hồ sơ để điều tra vụ án là việc mà sau khi nhận hồ sơ vụ án Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ một cách
toàn diện nếu thấy có vi phạm về tố tụng, thiếu sót về chứng cứ mà không thể bổ
sung tại phiên tòa hay có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng
phạm khác thì Thẩm phán trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Khi nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa không chỉ
đơn thuần căn cứ vào tội danh đã nêu trong bản cáo trạng mà qua đó phải độc lập
xem xét đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án để xác định cho đúng tội danh mà tội
phạm thực hiện có như vậy mới đảm bảo được sự khách quan, công bằng, không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Theo Khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Thẩm phán ra quyết
định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung nếu thuộc một trong ba trường
hợp sau:
GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu


21

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

- Trường hợp thứ nhất: “Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối
với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được”. Theo Điều 1 Thông tư liên tịch
01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC chứng cứ quan trọng đối với vụ án
được quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a Khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 là chứng cứ quy định tại Điều 64 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003
dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của Bộ luật tố
tụng hình sự 2003 và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được
khách quan, toàn diện, đúng pháp luật5. Cụ thể: vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và vi phạm quy định về cho
vay trong hoạt động các tổ chức tín dụng” đối với các bị can Dương Ngọc Phượng,
Phan Thanh Vân (nguyên công chứng viên Phòng công chứng số 2, Thành phố Hồ
Chí Minh), Lê Tấn Phú và Hoàng Anh Tú (cùng là cán bộ tín dụng và Tổ trưởng
kinh doanh Ngân hàng Thương mại cổ phần Nam Á - chi nhánh Bình Tây, Thành
phố Hồ Chí Minh). Theo nội dung vụ án, với thủ đoạn giả chữ ký của chủ sở hữu để
chuyển dịch bất hợp pháp tài sản sang tên người khác, sau đó dùng tài sản này để
thế chấp vay tiền của ngân hàng thông qua 6 hợp đồng tín dụng, từ tháng 10/2007
đến 7/2009, Phượng đã chiếm đoạt của Ngân hàng Thương mại cổ phần Nam Á chi nhánh Bình Tây số tiền 4,05 tỷ đồng. Tạo điều kiện cho Phượng chiếm đoạt số
tiền trên trót lọt có sự tiếp tay của công chứng viên Phòng công chứng số 2, Thành
phố Hồ Chí Minh. Đối với Lê Tấn Phú và Hoàng Anh Tú, trong quá trình được giao
thẩm định 6 hồ sơ vay của Phượng, đã không tiến hành thẩm tra tài sản thế chấp,

tính khả thi của phương án vay vốn, tạo cơ sở cho Phượng sử dụng tài sản bất hợp
pháp thế chấp ngân hàng vay tiền. Theo tòa, quyết định trả hồ sơ là cần thiết để điều
tra thêm số tiền bị can Dương Ngọc Phượng lừa đảo, chiếm đoạt của ngân hàng
dùng để vào việc gì. Trước đó, tại phiên tòa xét xử vào ngày 27/9, Phượng khai đã
dùng một phần tiền này để mua bất động sản nhưng hồ sơ vụ án chưa được thể
hiện6.
Tóm lại, Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải thỏa hai
điều kiện: thiếu chứng cứ quan trọng và không bổ sung tại phiên tòa được. Nếu
những nội dung mà Viện kiểm sát chưa chứng minh mà tại phiên tòa có thể làm rõ
được thì Thẩm phán không phải ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Trường hợp 2: “Khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có
đồng phạm khác”. Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch 01/2010/TTLTVKSNDTC-BCA-TANDTC quy định về căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội
5
6

Điều 63, 64 Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
/>
GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

22

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

khác hoặc có đồng phạm khác: “Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng
chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực hiện cấu

thành một hay nhiều tội khác; ngoài tội phạm đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ
án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội khác;
ngoài bị can (bị cáo) đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có
người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng
chưa được khởi tố bị can”. Vụ án điển hình: Ngày 27/9 Tòa án nhân dân Thành phố
Hà Nội mở phiên tòa hình sự sơ thẩm xét xử lưu động tại trại giam Hà Nội bị cáo
Phạm Quốc Vinh (Sinh năm 1976, Nam Định) và đồng bọn về tội giết người, hủy
hoại tài sản, tàn trữ trái phép vũ khí trong vụ hai nhóm giang hồ “hỗn chiến” tại ngõ
302 đường láng ngày 11/11/2010. Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo,
khai ra nhiều đối tượng khác tham gia “hỗn chiến” chưa bị truy tố. Đây là vụ án
gây bức xúc cho xã hội cần phải nghiêm trị trước pháp luật và không bỏ sót tội
phạm. Sau khi xem xét lời khai và các tài liệu thu thập trong quá trình điều tra, Hội
đồng xét xử quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung7.
Mặt khác, căn cứ có đồng phạm khác tức là người này phải là đồng phạm với
người đã bị truy tố thì mới thuộc trường hợp trả hồ sơ, nếu phát hiện có người phạm
tội nhưng người này không phải là đồng phạm theo quy định tại Điều 20 Bộ luật tố
tụng hình sự thì Thẩm phán không được quyền trả hồ sơ bổ sung mà chỉ có quyền
khởi tố tại phiên tòa theo quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự. Đồng thời
cũng theo Khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCATANDTC quy định “Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một
trong các trường hợp: trường hợp thuộc điểm a Khoản 1 Điều này, nhưng chứng cứ
trong hồ sơ vụ án cho thấy có thể xét xử bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội tương
ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị can (bị cáo) ít tội hơn số tội mà Viện
kiểm sát truy tố; đã có quyết định tách vụ án hoặc chưa có quyết định tách vụ án
của Cơ quan điều tra nhưng có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại Khoản 2
Điều 117 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003”.
- Trường hợp 3: “Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”.
Theo Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCATANDTC quy định “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng tại Khoản 3 Điều 168 và
điểm c Khoản 1 Điều 179 của Bộ luật tố tụng hình sự là trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng

7

tintuc.vnn.vn/vdco/phap_luat/tin_phap_luat/596885/tra-ho-so-dieu-tra-bo-sung-cac-doi-tuong-ve-toi-quotgiet-nguoi-quot-.htm

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

23

SVTH: Huỳnh Trinh


Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án hình sự

Luận văn tốt nghiệp

hình sự quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn
diện của vụ án”. Những trường hợp được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2010/TTLTVKSNDTC-BCA-TANDTC8. Vụ án điển hình: Ngày 7-7, Tòa án nhân dân Quận 3
Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra xét xử hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Lâm Nhật
Ánh (nữ ca sĩ, sinh 1983, quê Bắc Giang, tạm trú tại Phường 1 Quận Tân Bình) về
hành vi “môi giới mại dâm”. Theo cáo trạng, lúc 21 giờ ngày 19-7-2004 Cơ quan
công an bắt quả tang bị cáo Ánh cùng Trần Thị Hương Giang, Trần Ngọc Tuyết
Trinh đang thực hiện hành vi mua bán dâm với ba người đàn ông. Tại phiên tòa, bị
cáo Ánh đã phản bác hoàn toàn lời khai của mình trước đó tại Cơ quan điều tra và
cho rằng mình cùng với Giang, Trinh chỉ “giúp đỡ” nhau đi bán dâm chứ không
phải môi giới. Trong phần luận tội, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng dựa vào hồ sơ,
chứng cứ và lời khai của bị cáo tại tòa đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội
và đề nghị mức án từ 3 năm 6 tháng đến 4 năm tù đối với bị cáo Ánh. Theo đó,
quyết định khởi tố vụ án có ghi “căn cứ vào biên bản bắt quả tang hành vi phạm tội

của đội 6- PC14 Công an Thành phố Hồ Chí Minh” nhưng thực tế không có biên
bản này; quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra đã không được gửi cho Viện
Kiểm sát phê chuẩn; việc tạm giam ngay đối với Lâm Nhật Ánh chưa được Viện
Kiểm sát phê duyệt. Điều này đã vi phạm vào điểm a Khoản 2 Điều 4 Thông tư liên
tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC...Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử
đã quyết định hoãn phiên tòa để trả hồ sơ điều tra bổ sung 9. Đồng thời Viện kiểm
sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung mặc dù “có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng” khi Có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc bị can (bị cáo) là
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra nhưng đến khi truy tố, xét xử bị can
(bị cáo) đã đủ 18 tuổi (quy định tại Khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch
01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC). Một ví dụ điển hình: Do có mâu
thuẫn từ trước, tháng 3-2008, Minh (chưa thành niên) rủ anh trai đi đánh anh Bằng
để trả thù. Được nhiều người can ngăn, cả hai bỏ đi. Một lát sau, cả hai quay lại.
Anh trai Minh dùng dao đâm anh Bằng. Minh cũng nhặt chiếc mỏ-lết ở một tiệm
sửa xe gần đó chạy lại đập trúng đầu khiến anh Bằng chết. Sau đó, tòa sơ thẩm
8

Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Tòa
án nhân dân tối cao ban hành.
9
/>
GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

24

SVTH: Huỳnh Trinh



×