Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

NHỮNG vấn đề cơ BẢN về KHẤU TRỪ VÀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.43 KB, 27 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ
BẢN VỀ KHẤU TRƯ
VÀ HOÀN THUẾ GIÁ
TRỊ GIA TĂNG


Tổng quan về Thuế giá trị gia tăng
Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Thuế là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Quốc gia. Nhà nước
nào cũng có những khoản chi ngân sách hàng năm, để bù đắp cho những
khoản chi đó, có 5 nguồn tài trợ chính: bằng thuế, bằng phát hành tiền tệ,
bằng cách phát hành công trái, bằng viện trợ hoàn lại và vay, nợ của nước
ngoài, bằng viện trợ không hoàn lại của nước ngoài. Trong 5 nguồn này,
thuế là nguồn thu quan trọng nhất vì thuế có sự điều tiết chia sẻ và công
bằng giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp đồng thời nói
lên sức mạnh tự chủ về tài chính của một quốc gia.
Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, được thực thi khi
hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra. Các
khoản thuế đóng góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà nước, Nhà
nước sử dụng quỹ này để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của mình.
Một số học giả đã đưa ra quan điểm về thuế, theo Selagman “Thuế
là sự đóng góp mang tính cưỡng chế của mỗi người cho chính phủ để trang
trải các chi phí và lợi ích chung không căn cứ vào lợi ích riêng
được hưởng”, theo Adam Smith:“Các công dân của mỗi nước phải đóng
góp cho Chính phủ theo tỷ lệ và khả năng của mỗi người, nghĩa là tỷ lệ với
lợi tức mà họ được thụ hưởng do sự bảo vệ của Nhà nước”, Theo K.Marx
“Thuế là khoản đóng góp nghĩa vụ cần thiết để nuôi dưỡng Nhà nước
Pháp quyền, thuế là nguồn sống đối với Nhà nước pháp hành”. [10]
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản


pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả
trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự


nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn
liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành
các giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại
của nó không chỉ phụ thuộc vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các
điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự xuất hiện của Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần
thiết chi cho hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo
cho Nhà nước tồn tại, duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã
hội của mình. Trong điều kiện có các giai cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng
với phạm vi hoạt động của Nhà nước ngày càng mở rộng thì chế độ đóng
góp theo phương thức tự nguyện của dân cư trong chế độ cộng sản nguyên
thủy không còn phù hợp nữa. Ðể có được lượng của cải cần thiết, Nhà nước
đã sử dụng quyền lực của mình ban hành pháp luật, ấn định bắt buộc các
thể nhân và pháp nhân phải đóng góp cho Nhà nước một phần của cải mà
họ làm ra và hình thành qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ban đầu những
của cải vật chất này được thu nộp dưới hình thức hiện vật, dần dần thuế
được chuyển sang hình thức tiền tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ
thu nộp của cải vật chất đối với dân cư, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện
các nghĩa vụ đó bằng bộ máy cuỡng chế của Nhà nước.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để
thuế tồn tại và phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là
một tất yếu khách quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức
năng của Nhà nước và sự tồn tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà
nước.



Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành. Ở các
quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành quỹ ngân
sách nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội
nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan
lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các
nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định:
cấm mọi sự thu thuế để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không
được Quốc hội chấp thuận. Ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứ một
khoản thuế nào nếu không được Quốc hội chấp thuận thì không được áp
dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hội
Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế. [22]
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật
thuế. Tuy vậy, do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc
hội có thể giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi
bỏ một số loại thuế thông qua hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị
quyết về thuế.
Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước
với các thể nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ phân
phối này là của cải vật chất được biểu hiện dưới hình thức giá trị.
Tóm lại, Thuế ra đời gắn liền với sự ra đời, tồn tại của Nhà nước
cùng sự phát sinh, phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Đây là khoản thu bắt
buộc nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, và quản lý vĩ mô với
nền kinh tế. Với bản chất này, Nhà nước đặt ra ngày càng nhiều các sắc
thuế, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi Quốc gia mà hệ thống thuế
gồm các loại thuế khác nhau.



Thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là thuế GTGT) ra đời từ nước
Pháp với tên gọi Taxe Sur La Valeur Ajou tée (TVA) (Tiếng Anh là Value
Added Tax - VAT), sau đó được tiếp thu và áp dụng rộng rãi ở nhiều Quốc
gia trên Thế giới.
Theo quan điểm của Liên minh Châu Âu, Thuế GTGT là một loại
thuế tiêu thụ được áp dụng chung, dựa trên giá trị tăng thêm của hàng hóa
và dịch vụ. Nó được áp dụng nhiều hay ít với tất cả các loại hàng hóa và
dịch vụ được mua, bán để sử dụng hoặc tiêu thụ trong toàn Liên minh Châu
Âu. Do đó, hàng hóa được bán để xuất khẩu hoặc dịch vụ được bán cho
khách hàng ở nước ngoài thường không phải chịu thuế GTGT. Ngược lại,
hàng hóa nhập khẩu bị đánh thuế GTGT để giữ công bằng cho các nhà sản
xuất EU, để họ có thể cạnh tranh bình đẳng trên thị trường Châu Âu với các
nhà cung cấp nằm ngoài Liên minh. [45]
Tại Việt Nam, theo quan điểm của một số học giả, xét về bản chất,
thuế GTGT là loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp
dịch vụ là người nộp thuế nhưng thực chất người tiêu dùng lại là người chịu
thuế thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Điều này giúp cho cơ quan quản
lý thu thuế GTGT tránh được sự phản ánh gay gắt về thuế. Bên cạnh đó
thuế GTGT cũng ảnh hưởng đến sức mua của công chúng do phần thuế này
đã được cấu thành trong giá bán của hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người
tiêu dùng. Những phân tích này cho thấy việc áp dụng thuế GTGT tại các
quốc gia cần phải cân nhắc tính phù hợp, những yếu tố ảnh hưởng của loại
thuế này cho nền kinh tế. [22]
Tóm lại, thuế GTGT thường được dùng để chỉ một loại thuế gián
thu, đánh vào việc sử dụng thu nhập, tức đánh vào việc tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ mà cụ thể là đánh vào hành vi chuyển giao tài sản và cung cấp dịch
vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng thông qua việc


mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Thuế GTGT được cộng vào giá bán

hàng hóa, dịch vụ, và người tiêu dùng phải chịu số thuế đó khi mua hàng
hóa, dịch vụ.
Cơ sở của thuế GTGT là khoản chênh lệch giữa các khâu mua bán,
cung ứng dịch vụ, tức là phần giá trị tăng thêm của hàng hóa trong quá
trình sản xuất và tiêu dùng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế
GTGT là sản phẩm, hàng hoá dù qua nhiều khâu hay ít khâu từ sản xuất
đến tiêu dùng, đều chịu thuế như nhau.
Đây là một loại thuế gián thu, vì thế thuế GTGT do người tiêu dùng
chịu nhưng không phải do người tiêu dùng trực tiếp nộp mà là do người
bán sản phẩm (hoặc dịch vụ) nộp thay vào kho bạc, do trong giá bán hàng
hoá (hoặc trong dịch vụ) có cả thuế giá trị gia tăng. Vì qua từng công đoạn,
thuế GTGT đã được người bán đưa vào giá hàng hoá, dịch vụ, cho nên thuế
này được chuyển toàn bộ cho người mua hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ
cuối cùng chịu.
Với ưu điểm của thuế GTGT là Nhà nước chỉ thu thuế đối với
phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông
mà không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát sinh, nếu như không có
các sự kiện biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm sút,
yếu kém, kinh tế suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì việc áp
dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu sẽ không ảnh hưởng gì đến giá
cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính xác
hơn vì tránh được thuế chồng lên thuế.
Việc áp dụng thuế GTGT đã góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu
thông hàng hoá, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và đẩy mạnh xuất
khẩu. Nhìn chung trong các loại thuế gián thu, thuế GTGT được coi là
phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các


mục tiêu lớn của chính sách thuế, như tạo được nguồn thu lớn cho ngân
sách nhà nước, đơn giản, trung lập..., cụ thể:

Thuế GTGT góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế, tạo nên sự cạnh
tranh bình đẳng giữa các chủ thể khi nó bắt buộc các chủ thể phải sử dụng
hệ thống hóa đơn chứng từ.
Thuế GTGT giúp nhà nước kiểm soát được hoạt động, sản xuất,
nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa nhờ kiểm soát được hệ thống hóa đơn,
chứng từ, khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là trốn thuế. Qua
đó, còn cung cấp cho công tác nghiên cứu, thống kê những số liệu quan
trọng.
Thuế GTGT góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách
hợp lý thông qua việc đánh thuế GTGT hàng nhập khẩu ngay từ khi nó xuất
hiện trên lãnh thổ Việt Nam; bên cạnh đó thuế GTGT đánh vào hàng hóa
xuất khẩu nhằm tạo ra thuế GTGT đầu ra để được hoàn thuế GTGT.
Căn cứ tính thuế GTGT
Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất.
Giá tính thuế giá trị gia tăng: Giá tính thuế được xác định tuỳ theo
loại hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật từng quốc gia.
Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy giá
tính thuế GTGT là giá cuối cùng bao gồm tất cả các các loại thuế gián thu,
các khoản phí, lệ phí thu vào hàng hóa và dịch vụ đó do người mua phải trả
mà chưa bao gồm thuế GTGT.
Theo đó, đối với hàng sản xuất trong nước là giá hàng hóa bán ra
(chưa bao gồm thuế GTGT). Ví dụ ở Thái Lan, ô tô nhập khẩu phải chịu
thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và một loại thuế địa phương có tên
gọi là interior tax (áp dụng ở mức tương đương 10% số thuế TTĐB phải


nộp), khi đó giá tính thuế GTGT là giá nhập khẩu cộng với tất cả các loại
thuế này. Tương tự, ở Đài Loan, giá tính thuế GTGT đối với thuốc lá bao
gồm thuế tiêu tiêu thụ đặc biệt và khoản phụ thu sức khỏe và phúc lợi đánh
vào thuốc lá (health and wealfare surcharges).

Đối với những quốc gia có áp dụng thuế môi trường, giá tính thuế
GTGT đối với những mặt hàng chịu thuế môi trường là giá đã có thuế môi
trường, ví dụ ở Nam Phi, kể từ năm 2010, khi phí khí thải CO2 được áp
dụng, giá tính thuế được quy định có bao gồm cả mức phí này. Các nước
trong khu vực EU có áp dụng quy định tương tự, giá tính thuế GTGT đối
với hàng hóa chịu thuế môi trường là giá có bao gồm thuế môi trường.
Thuế suất thuế giá trị gia tăng: Thuế suất là mức thuế phải nộp trên
một đơn vị khối lượng chịu thuế. Định mức thu thuế (tỉ lệ %) tính trên khối
lượng thu nhập hoặc giá trị tài sản chịu thuế.
Khi ban hành luật thuế GTGT, các nước thường lựa chọn thực hiện
chế độ nhiều mức thuế suất hoặc chế độ một thuế suất (không tính mức
thuế suất 0% áp dụng đối với hàng xuất khẩu). Khi ban hành thuế suất thuế
GTGT thường dựa trên những tiêu chí cơ bản: thứ nhất, mức thuế suất
được ban hành phải tạo nguồn thu ổn định và chiếm tỉ trọng mong muốn
trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Thứ hai, là loại thuế tiêu dùng, mức
thuế suất phải có khả năng định hướng tiêu dùng trong dân cư. Thứ ba, qua
các mức thuế suất áp dụng cho các hàng hóa thuộc diện chịu thuế, Nhà
nước thực hiện một số chính sách khuyến khích, thay đổi đầu tư trong nền
kinh tế.
Hiện nay các nước áp dụng thuế GTGT có sự khác nhau trong việc
thiết kế mức thuế suất và số lượng thuế suất trong đạo luật thuế giá trị gia
tăng.


Một số nước thực hiện cơ cấu một mức thuế suất như Ðan Mạch
(22 %), Nhật Bản, Singapore (3%), Italia (38%)... Một số nước khác thực
hiện cơ cấu nhiều thuế suất như: Bỉ, Colombia (6 mức thuế suất), Pháp (5
mức thuế suất)... Theo thông lệ chung, Luật thuế gía trị gia tăng của các
nước thường áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu và một số
hàng hoá thiết yếu đối với đời sống của dân cư.

Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
Phương pháp khấu trừ thuế:
Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực
hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật
về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế.
Số thuế giá trị gia tăng phải nộp bằng (=) thuế giá trị gia tăng đầu ra
trừ (-) thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ.
Thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng (=) giá tính thuế của hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế bán ra nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng của
hàng hoá, dịch vụ đó.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp này
phải tính và thu thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập
hoá đơn bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá
bán chưa có thuế, thuế giá trị gia tăng và số tiền người mua phải thanh
toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có
thuế và thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ
bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ.
Thuế giá trị gia tăng đầu vào bằng tổng số thuế giá trị gia tăng ghi
trên hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế


giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng đầu vào được tính khấu trừ quy định như sau:
Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ.
Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong
tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định thuế phải nộp của tháng đó
không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho.

Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng chung cho các tổ chức kinh
doanh trừ các đối tượng áp dụng tinh thuế theo phương pháp tính trực tiếp
trên giá trị gia tăng.
b. Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT áp dụng cho cơ sở kinh
doanh và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường
trú tại Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện
đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ; Hoạt động mua bán vàng, bạc,
đá quý.
Theo phương pháp này, số thuế giá trị gia tăng phải nộp bằng giá trị
gia tăng của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế nhân (x) với thuế suất thuế giá trị
gia tăng của loại hàng hoá, dịch vụ đó.
Giá trị gia tăng bằng giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra trừ
giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng.
Những vấn đề cơ bản về khấu trừ thuế GTGT
Khái niệm, đặc điểm khấu trừ thuế GTGT


Theo quan điểm của các học giả Pháp, đối với phần thuế GTGT
phải trả trong quá trình mua hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích trung gian
tiêu thụ, hình thành số vốn cố định hoặc để bán lại, nhà sản xuất được phép
khấu trừ trách nhiệm thuế GTGT của mình cho Chính phủ đối với thuế
GTGT ghi trên hóa đơn của khách hàng của mình. [14]
Quyền khấu trừ thuế GTGT là quyền của người nộp thuế trong yêu
cầu được các cơ quan thuế hoàn lại số tiền thuế GTGT đã trả khi hàng hóa,
dịch vụ được mua lại. Thuế GTGT được khấu trừ bằng cách trừ đi số tiền
được khấu trừ từ thuế GTGT phải nộp trong số thuế GTGT phải nộp
thường xuyên của chủ thể đó.[45]
Từ phương pháp tính thuế bằng khấu trừ thuế GTGT đầu vào,
doanh nghiệp được phép lấy phần thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ thuế giá trị

gia tăng đầu vào được khấu trừ. Nếu kết quả là số dương thì đó chính là số
thuế giá trị gia tăng phải nộp cho Ngân sách nhà nước trong tháng hoặc
quý. Nếu kết quả là một số âm thì được chuyển bù trừ vào số thuế giá trị
gia tăng phải nộp của tháng hoặc quý tiếp theo hay đề nghị cơ quan thuế
hoàn lại theo quy định của pháp luật. Xác định nghĩa vụ thuế theo phương
pháp khấu trừ hoàn toàn loại trừ khả năng tính thuế chồng lên thuế. Bởi lẽ,
cách tính thuế dựa vào hóa đơn đảm bảo xác định thuế có cơ sở và căn cứ
để kiểm tra thuế do giá tính thuế, thuế suất cũng như số thuế phải nộp được
thể hiện rõ ràng trên hóa đơn. Như vậy, có thể hiểu Khấu trừ thuế GTGT là
việc xác định số thuế giá trị gia tăng phải nộp trong kỳ tính thuế trên cơ sở
thuế GTGT đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp/ cơ sở kinh doanh.
Đặc điểm khấu trừ thuế giá trị gia tăng được thể hiện:


Thứ nhất, phần thuế giá trị gia tăng được khấu trừ là số thuế được
xác định một cách trực tiếp, là hiệu số thuế của các khâu trong quá trình
sản xuất lưu thông mà không phải phần giá trị gia tăng được xác định trực
tiếp qua các khâu. Trên nguyên tắc, không phải bất cứ thuế giá trị gia tăng
của hàng hóa, dịch vụ mua vào nào cũng được khấu trừ mà chỉ có thuế giá
trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho hoạt động SXKD hàng hóa,
dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng mới được khấu trừ.
Thứ hai, căn cứ để xác định số thuế giá trị gia tăng đầu vào được
khấu trừ là số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng khi mua
hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa
nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng thay cho phía nước ngoài
theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài
không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh
hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ
mua vào không có hóa đơn giá trị gia tăng hoặc hóa đơn giá trị gia tăng
không đúng theo quy định của pháp luật thì cơ sở kinh doanh không được

khấu trừ thuế. Như vậy, khấu trừ thuế giá trị gia tăng chỉ áp dụng đối với cơ
sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ và có
hóa đơn giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh. Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo
phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng hoặc cơ sở kinh doanh nộp thuế
giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ nhưng mua hàng hóa, dịch vụ
của cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia
tăng (hóa đơn bán hàng thông thường) thì không được khấu trừ thuế giá trị
gia tăng đầu vào.
Việc khấu trừ thuế GTGT có vai trò vô cùng quan trọng, thể hiện
bước tiến bộ của Luật thuế GTGT so với luật thuế doanh thu trước đây:


Chống thất thu thuế cho Nhà nước, do xác định đúng số thuế phải
nộp ở từng khâu
Đơn giản hóa quá trình quản lý và thu thuế, do số thuế phát sinh ở
các khâu được thể hiện rõ ràng qua hóa đơn, chứng từ.
Thúc đẩy các tổ chức kinh tế hạch toán theo chuẩn mực pháp luật.
Nguyên tắc khấu trừ thuế GTGT
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ.
Trường hợp hàng hóa có hao hụt tự nhiên do tính chất lý hóa trong
quá trình vận chuyển, bơm rót như xăng, dầu… thì được kê khai, khấu trừ
số thuế GTGT đầu vào của số lượng hàng hóa thực tế hao hụt tự nhiên
không vượt quá định mức hao hụt theo quy định. Số thuế GTGT đầu vào
của số lượng hàng hóa hao hụt vượt định mức không được khấu trừ, hoàn
thuế.
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ hình thành tài sản cố
định là nhà ăn ca, nhà nghỉ giữa ca, phòng thay quần áo, nhà để xe, nhà vệ
sinh, bể nước phục vụ cho người lao động trong khu vực sản xuất, kinh

doanh và nhà ở, trạm y tế cho công nhân làm việc trong các khu công
nghiệp được khấu trừ toàn bộ.
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ (kể cả tài sản cố định)
sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và
không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào của
hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu
thuế GTGT. Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ và không được khấu trừ; trường hợp không hạch toán riêng


được thì thuế đầu vào được khấu trừ tính theo tỷ lệ (%) giữa doanh thu chịu
thuế GTGT so với tổng doanh thu của hàng hóa, dịch vụ bán ra không hạch
toán riêng được.
Cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế
GTGT hàng tháng tạm phân bổ số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ, tài
sản cố định mua vào được khấu trừ trong tháng, cuối năm cơ sở kinh doanh
thực hiện tính phân bổ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của năm để kê
khai điều chỉnh thuế GTGT đầu vào đã tạm phân bổ khấu trừ theo tháng.
Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT thì không được khấu trừ.
Thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định, máy móc, thiết bị, kể cả
thuế GTGT đầu vào của hoạt động đi thuê những tài sản, máy móc, thiết bị
này và thuế GTGT đầu vào khác liên quan đến tài sản, máy móc, thiết bị
như bảo hành, sửa chữa trong các trường hợp sau đây không được khấu trừ
mà tính vào nguyên giá của tài sản cố định hoặc chi phí được trừ theo quy
định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi
hành:
+ Tài sản cố định chuyên dùng phục vụ sản xuất vũ khí, khí tài
nguyên phục vụ quốc phòng, an ninh; tài sản cố định, máy móc, thiết bị của
các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm, bảo hiểm nhân

thọ, kinh doanh chứng khoán, cơ sở khám, chữa bệnh, cơ sở đào tạo; tàu
bay dân dụng, du thuyền không sử dụng cho mục đích kinh doanh vận
chuyển hàng hóa, hành khách, kinh doanh du lịch, khách sạn.
+ Tài sản cố định là ô tô chở người từ 9 chỗ ngồi trở xuống (trừ ô tô
sử dụng vào kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, kinh doanh du
lịch, khách sạn) có trị giá vượt trên 1,6 tỷ đồng (giá chưa có thuế GTGT)


thì số thuế GTGT đầu vào tương ứng với phần trị giá vượt trên 1,6 tỷ đồng
không được khấu trừ.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo
phương pháp khấu trừ thuế được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được quy định như sau:
+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ toàn
bộ.
+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng đồng thời cho sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế
giá trị gia tăng thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ
dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng.
+ Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào được khấu
trừ và không được khấu trừ; trường hợp không hạch toán riêng thuế đầu
vào được khấu trừ theo tỷ lệ (%) giữa doanh số chịu thuế giá trị gia tăng so
với tổ số doanh số bán ra.
+ Thuế đầu vào được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê
khai, khấu trừ xác định số thuế phải nộp của tháng đó. Riêng thuế đầu vào
của tài sản cố định được khấu trừ lớn thì thực hiện khấu trừ dần hoặc được
hoàn thuế.
+ Trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến mua nông sản, lâm sản, thuỷ
sản chưa qua chế biến của người sản xuất mà không có hoá đơn giá trị gia

tăng thì được tính khấu trừ thuế đầu vào theo một tỷ lệ (%) tính trên gía trị
hàng hoá mua vào như sau:
Tỷ lệ 5% đối với sản phẩm trồng trọt thuộc các loại cây lấy nhựa,
lấy mủ, lấy dầu, miá cây, chè bắp tươi, luá, ngô, khoai, sắn; sản phẩm chăn
nuôi là gia súc, gia cầm; cá, tôm và các loại thuỷ sản khác.


Tỷ lệ 3% đối với các loại sản phẩm là nông sản, lâm sản không quy
định trong nhóm được khấu trừ 5% trên đây.
Việc tính khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế đầu vào đối với nông sản,
lâm sản, thuỷ sản mua vào quy định trên đây không áp dụng đối với trường
hợp các sản phẩm này được làm nguyên liệu sản xuất, chế biến hàng xuất
khẩu.
+ Trường hợp cơ sở kinh doanh mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ có
tính đặc thù được dùng loại chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế
giá trị gia tăng thì căn cứ vào giá đã có thuế và cách xác định giá không có
thuế.
Căn cứ để xác định số thuế đầu vào được khấu trừ quy định trên đây là:
+ Ðối với hàng hoá, dịch vụ mua vào là số tiền thuế giá trị gia tăng
ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá dịch vụ.
+ Ðối với hàng hoá nhập khẩu là số tiền thuế giá trị gia tăng đã nộp
ghi trên chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu.
+ Ðối với hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế
biến mua của người sản xuất được tính khấu trừ theo tỷ lệ (%) trên giá trị
hàng hoá mua vào là giá thực tế mua vào được kê vào bản kê hàng hoá mua
vào do cơ quan thuế hướng dẫn.
+ Ðối với hàng hoá, dịch vụ mua vào là loại có tính đặc thù được
dùng loại chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng thì
được căn cứ vào chứng từ đó để tính số thuế đầu vào được khấu trừ.
Những vấn đề cơ bản về hoàn thuế GTGT

Khái niệm, đặc điểm hoàn thuế GTGT
Luật thuế GTGT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2016 không đưa
ra định nghĩa khái niệm hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên có thể xem xét khái


niệm hoàn thuế GTGT dưới nhiều góc độ khác nhau. Đứng ở địa vị nhà
nước thì hoàn thuế là việc nhà nước trả lại một số tiền cho cơ sở kinh
doanh hay đối tượng nộp thuế trong một số trường hợp nhất định mà đối
tượng, cơ sở kinh doanh đó đã nộp tiền theo quy định của pháp luật.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, hoàn thuế là việc doanh nghiệp nhận
lại một số tiền thuế nhất định theo quy định của pháp luật mà họ đã ứng
trước cho nhà nước.
Đứng ở góc độ của cơ quan thuế, hoàn thuế là một công đoạn trong
quy trình quản lý thu thuế của cơ quan thuế.
Xét về bản chất, hoàn thuế giá trị gia tăng thể hiện qua các trường hợp
sau:
Một là, Nhà nước trả lại cho NNT phần tiền thuế mà họ đã ứng ra
khi mua hàng hóa, dịch vụ (số tiền thuế này đã được người bán hàng nộp
vào ngân sách nhà nước) nhưng chưa được khấu trừ hết; hay nói cách khác
là chưa thu lại được qua việc bán hàng hóa, dịch vụ. Trạng thái chưa được
khấu trừ hết này phát sinh từ các nguyên nhân sau: Do thuế suất của hàng
hóa, dịch vụ bán ra thấp hơn so với hàng hóa, dịch vụ mua vào. Điển hình
là hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu với thuế suất 0% khi bán ra. Khi đó, số thuế
giá trị gia tăng đầu ra bằng không; hay nói cách khác, đối tượng nộp thuế
không thu lại được đồng thuế giá trị gia tăng nào của người mua. Trong khi
đó, hầu hết các hàng hóa, dịch vụ mua vào đều có mức thuế suất lớn hơn
0% (ở Việt Nam hiện nay là 5% và 10%). Lúc này, số thuế phải nộp của
DN là số âm, thể hiện số thuế đã trả thay cho người tiêu dùng khi mua hàng
hóa, dịch vụ không thu lại được từ người mua hàng. Lý do không thu lại
được là do Nhà nước thực hiện theo đánh thuế theo điểm đến - không thu

thuế giá trị gia tăng đầu ra đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Do vậy,
trong trường hợp này, việc Nhà nước hoàn thuế cho cơ sở có hàng hóa xuất


khẩu là đương nhiên. Đó chính là việc Nhà nước trả lại số tiền thuế mà đối
tượng nộp thuế đã ứng ra khi mua hàng để nộp thay cho người tiêu dùng,
song người tiêu dùng lại không phải trả thuế.
Do trong kỳ kinh doanh, số lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra ít hơn
so với số lượng hàng hóa, dịch vụ mua vào nhiều. Theo luật thuế giá trị gia
tăng, thuế giá trị gia tăng đầu vào phát sinh tháng nào được kê khai, khấu
trừ hết trong tháng đó, không kể hàng hóa đã xuất dùng hay còn để tồn kho.
Lúc này, số thuế giá trị gia tăng đầu vào mà cơ sở kinh doanh đã ứng ra khi
mua hàng hóa, dịch vụ nhưng chưa thu lại được qua việc bán hàng hóa,
dịch vụ. Do vậy, việc Nhà nước hoàn thuế giá trị gia tăng cho đối tượng
nộp thuế thể hiện việc trả lại phần thuế đã ứng trước, giúp cơ sở kinh doanh
không bị ứ đọng vốn. Do giá bán hàng hóa của cơ sở kinh doanh thấp hơn
giá mua vào của hàng hóa vì một lí do nào đó. Khi bán hàng hóa, dịch vụ,
cơ sở kinh doanh chỉ thu lại được một phần tiền thuế đã ứng ra khi mua
hàng hóa, dịch vụ. Còn một phần tiền thuế giá trị gia tăng tương ứng với
phần bán lỗ không thu lại được. Khi đó, Nhà nước hoàn thuế lại cho DN
thể hiện thuế giá trị gia tăng chỉ tính trên phần giá trị gia tăng của hàng hóa,
dịch vụ; phần thuế đã trả quá giá trị gia tăng ở khâu mua hàng được trả lại
cho cơ sở kinh doanh.
Hai là, Nhà nước trả lại cho đối tượng nộp thuế số thuế giá trị gia
tăng đã nộp thừa vì những lí do nhất định, chẳng hạn như tính toán nhầm lẫn,
kê khai sai hay kết thúc hoạt động kinh doanh (giải thể, phá sản, chia tách,
sáp nhập...). Trong trường hợp này, cơ sở kinh doanh đã nộp thuế nhiều hơn
số thuế phải nộp theo luật định nên họ có quyền yêu cầu hoàn lại số thuế nộp
thừa.
Ba là, Nhà nước trả lại cho tổ chức, cá nhân mua hàng với số thuế

giá trị gia tăng đã trả khi mua hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp việc tiêu


dùng của cá nhân, tổ chức không thuộc diện chịu thuế hoặc hưởng ưu đãi
(như người nước ngoài mang hộ chiếu hoặc giấy tờ nhập cảnh do cơ quan
có thẩm quyền nước ngoài cấp được hoàn thuế đối với hàng hoá mua tại
Việt Nam mang theo người khi xuất cảnh). Trường hợp này thể hiện việc
Nhà nước không thu thuế giá trị gia tăng một đối tượng tiêu dùng nào đó.
Nếu việc không thu thuế vào những đối tượng này thực hiện thông qua việc
không thu vào người bán hàng để người bán hàng bán cho người mua hàng
với giá không có thuế giá trị gia tăng thì rất khó quản lý. Để đảm bảo đúng
đối tượng không thu thuế giá trị gia tăng, Nhà nước thực hiện hoàn thuế
theo số thuế ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng khi mua hàng hóa, dịch vụ.
Như vậy, hoàn thuế giá trị gia tăng là hệ quả của số thuế giá trị gia tăng đầu
vào chưa được khấu trừ hết hoặc số thuế đã nộp thừa trong một hay nhiều
kỳ tính thuế. Nhà nước sẽ thực hiện hoàn trả số thuế giá trị gia tăng đã nộp
vượt quá của chủ thể nộp thuế nhưng trên cơ sở đề nghị của các tổ chức, cá
nhân. Tổ chức, cá nhân để được hoàn thuế phải xác định số tiền thuế được
hoàn theo từng trường hợp và thực hiện các thủ tục hoàn thuế theo quy định
của Luật thuế giá trị gia tăng và Luật quản lý thuế.
Tóm lại, hoàn thuế GTGT là “Việc cơ quan thuế ra quyết định trả
lại số tiền thuế GTGT đã nộp vượt quá của chủ thể nộp thuế”. Nói cách
khác, trong một số trường hợp luật định, Nhà nước hoàn lại số thuế mà chủ
thể nộp thuế đã nộp vào ngân sách Nhà nước. Các trường hợp được hoàn
thuế được quy định cụ thể theo Pháp luật của từng Quốc gia.
Vai trò và ý nghĩa của hoàn thuế GTGT
Hoàn thuế GTGT có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với các cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp, mà còn có ý nghĩa trong sự phát triển chung của nền
kinh tế. Có thể thấy vai trò của việc hoàn thuế GTGT thể hiện như sau:



Đầu tiên, Hoàn thuế GTGT giúp phát huy tính tự giác của các
doanh nghiệp. Bởi điều kiện để được hoàn thuế GTGT là DN bắt buộc phải
thực hiện đầy đủ chế độ hóa đơn chứng từ, ghi rõ thuế đầu vào, đầu ra để
cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm căn cứ xét hoàn thuế. Do đó, Hoàn
thuế GTGT đã góp phần hoàn thiện đội ngũ kế toán cho DN, thúc đẩy các
DN tự giác thực hiện đầy đủ các yêu cầu, thủ tục về thuế với cơ quan có
thẩm quyền.
Thứ hai, Hoàn thuế GTGT còn có thể tạm thời giúp đỡ các doanh
nghiệp về mặt tài chính khi họ gặp khó khăn, nhất là đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, thường xuyên gặp khó khăn về tài chính.
Thứ ba, Hoàn thuế GTGT góp phần khuyến khích hoạt động xuất
khẩu phát triển. Việc hoàn thuế đầu vào tức là hàng hóa xuất khẩu được
hưởng thuế 0%, việc này giúp tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong
nước có thể cạnh tranh với hàng hóa trên thị trường quốc tế.
Thứ tư, Hoàn thuế GTGT còn có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh
nghiệp sử dụng vốn ODA, góp phần thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài,
giải quyết khó khăn cho các doanh nghiệp. Việc đẩy mạnh thu hút vốn đã
thể hiện vai trò của hoàn thuế GTGT nói riêng, thuế GTGT nói chung trong
tiến trình hội nhập thế giới.
Phương thức giải quyết tranh chấp trong hoàn thuế GTGT
Xung đột giữa người nộp thuế và cơ quan thuế
Xuất phát từ quan niệm cho rằng tranh chấp thuế là tranh chấp trong
lĩnh vực thuế nên tranh chấp thuế được hiểu là sự mâu thuẫn hay xung đột
về lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật thuế, hay có thể nói
tranh chấp thuế là tình trạng pháp lý đặc biệt của quan hệ pháp luật giữa
NNT với người thu thuế, trong đó các bên bày tỏ ra bên ngoài thế giới


khách quan những bất đồng, xung đột, mâu thuẫn về ý chí, quyền và lợi ích

hợp pháp của mình bằng hành vi khiếu nại hay khởi kiện theo quy định của
pháp luật.
Tranh chấp thuế phân biệt với các tranh chấp khác dựa trên những
đặc điểm sau :
Về chủ thể của quan hệ tranh chấp về thuế
Chủ thể của quan hệ pháp luật thuế bao gồm NNT và người thu
thuế. Người thu thuế là các cơ quan quản lý thuế và các cán bộ, công chức
ngành thuế, NNT là các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ về thuế đối với nhà
nước. Hai chủ thể này là hai bên trong tranh chấp khi quyền và lợi ích của
họ xung đột với nhau. Khi NNT cho rằng quyền lợi của họ bị xâm hại bởi
quyết định hành chính, hành vi hành chính sai trái về thuế của cơ quan
thuế, cán bộ, công chức ngành thuế thì họ có quyền khiếu nại tới người đã
trực tiếp ra quyết định hay thực hiện hành vi này.
b. Về đối tượng của tranh chấp thuế
Đối tượng của tranh chấp chính là các quyền và lợi ích hợp pháp
của NNT. Khi những quyền đó bị xâm hại bởi cơ quan thuế, cán bộ, công
chức ngành thuế thì NNT có quyền khiếu nại hay khởi kiện về vấn đề này.
Mặt khác, đối tượng của tranh chấp thuế còn là những lợi ích liên quan đến
số tiền thuế hay số tiền phạt vi phạm về thuế. Số tiền thuế có thể được xác
định theo phương pháp kê khai hay ấn định thuế. Khi cơ quan ấn định số
tiền thuế nhiều hơn số thuế thực tế phải nộp hoặc số tiền phạt vi phạm
không đúng thì có thể sẽ phát sinh tranh chấp nếu NNT phát hiện ra vi
phạm.


c. Cơ sở pháp lý để làm phát sinh, áp dụng giải quyết các tranh
chấp thuế
Cơ sở pháp lý chính là các văn bản pháp luật về thuế và những văn
bản pháp luật khác có liên quan như luật khiếu nại tố cáo và pháp lệnh về
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi bổ sung.

Khác với tranh chấp về hợp đồng, tranh chấp thuế chỉ được giải
quyết theo thủ tục hành chính hay tố tụng tại toà, các bên không có quyền
tự thoả thuận về một cơ chế khác để giải quyết.
d. Về bản chất của tranh chấp thuế
Tranh chấp thuế là một loại tranh chấp hành chính, trong đó đối
tượng của quyền khiếu nại là các quyết định hành chính và hành vi hành
chính về thuế. Loại tranh chấp này là loại tranh chấp hành chính điển hình
và khá đặc thù so với các tranh chấp khác.
e. Phân loại tranh chấp thuế
Hiện nay, có nhiều tiêu chí để phân loại tranh chấp thuế nhưng căn
cứ vào quá trình thu, nộp thuế của các chủ thể, đối tượng của tranh chấp
trong quan hệ pháp luật thuế, có thể phân loại tranh chấp thuế thành tranh
chấp về thủ tục và tranh chấp về số thu.
Ngoài ra, căn cứ vào chủ thể có thể phân loại tranh chấp thuế thành
tranh chấp giữa cá nhân với cơ quan quản lý thuế và tranh chấp giữa tổ
chức với cơ quan quản lý thuế. Các tổ chức này thưòng là các doanh nghiệp
có hoạt động sản xuất kinh doanh phải chịu thuế, liên quan đến thuế xuất
nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và nhiều loại
thuế khác.


f. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thuế
Cũng giống như việc giải quyết các tranh chấp khác, tranh chấp
thuế được giải quyết trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Các nguyên
tắc này là tổng thể những qui phạm pháp luật, là những tư tưởng chỉ đạo
làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp thuế. Xét về bản chất thì tranh
chấp thuế cũng là một dạng tranh chấp hành chính, do vậy các nguyên tắc
giải quyết tranh chấp hành chính cũng chính là cơ sở, tiền đề cho việc giải
quyết các tranh chấp thuế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các nguyên
tắc này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan thuế, toà án phải

quan tâm đến những nét đặc thù của lĩnh vực thuế để áp dụng một cách phù
hợp.
Nguyên tắc tôn trọng quyền tự vệ của NNT
Nguyên tắc tôn trọng pháp luật
Nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của NNT
g. Các phương thức giải quyết tranh chấp thuế
Thực tiễn giải quyết tranh chấp của các nước trên thế giới hiện nay
cho thấy dù tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực nào cũng được giải quyết
bằng nhiều con đường khác nhau mà trước hết là ưu tiên giải quyết bằng cơ
chế tự thương lượng hoặc hoà giải giữa các bên, nếu không được thì tiến
hành giải quyết tại toà án. Hiện nay, việc giải quyết tranh chấp thuế ở Việt
Nam cũng được thực hiện theo các phương thức đó là giải quyết khiếu nại
về thuế và giải quyết vụ án hành chính về thuế.
Khiếu nại về thuế


“Khiếu nại” là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công
chức theo thủ tục do luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có
căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi hành chính đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, khiếu nại là biểu hiện của những bất đồng xảy ra giữa cá
nhân hay tổ chức với bên kia là cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong tranh chấp thuế giữa
NNT và cơ quan quản lý thuế được thực hiện theo quy định của luật khiếu
nại tố cáo. Theo cơ chế này thì các bên bắt buộc phải tuân thủ các thủ tục
đã quy định trong luật và không được phép tự thoả thuận để thay đổi bất cứ
một thủ tục nào.
+ Đối tượng bị khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành
chính về thuế của cơ quan quản lý thuế.

+ Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại là người bị tác động bởi quyết
định hành chính, hành vi hành chính mà họ cho là sai trái. Người bị khiếu
nại là cơ quan hay người đã trực tiếp ra quyết định hành chính hay thực
hiện hành vi hành chính đó.
+ Thủ tục khiếu nại về thuế có khiếu nại lần đầu và khiếu nại tiếp
theo. Nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu có thể lựa chọn việc khiếu nại tiếp hay khởi kiện vụ án tại toà án có
thẩm quyền.
Khởi kiện vụ án hành chính về thuế tại Toà án


Khởi kiện là việc cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của Thủ trưởng, cán
bộ, viên chức nhà nước nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có
thẩm quyền.
Cũng như khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính,
khởi kịên tại toà án là một phương thức để giải quyết tranh chấp thuế. Tuy
nhiên thủ tục này phức tạp hơn nhiều so với khiếu nại, có sự tham gia của
nhiều chủ thể và những người liên quan.
+ Chủ thể thực hiện quyền khởi kiện là những cá nhân, tổ chức cho
rằng quyền lợi của mình bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Họ là người khởi kiện
trong vụ án hành chính, trong quá trình tố tụng họ phải đưa ra các chứng cứ
chứng minh về sự sai phạm của các chủ thể ra quyết định và hành vi hành
chính.
+ Đối tượng của khởi kiện là những quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cán bộ, công chức hay cơ quan hành chính nhà nước. Tuy
nhiên, khác với đối tượng trong việc giải quyết khiếu nại hành chính về
thuế, quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị xét xử tại toà hành

chính là loại quyết định hành chính và hành vi hành chính về thuế đã được
giải quyết khiếu nại lần đầu tại cơ quan thuế.
+ Chủ thể giải quyết vụ án là các toà án, cụ thể là các toà hành chính.
Toà án sẽ tiến hành thụ lý giải quyết vụ án hành chính về thuế nếu việc khởi
kiện đáp ứng được yêu cầu về tiền tố tụng và thuộc thẩm quyền giải quyết của
toà.


×