Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu tác dụng hạ lipid máu chống đông máu của bài thuốc đông dược trên mô hình gây sơ vữa động mạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.99 MB, 89 trang )

BÔ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC

BÔ Y TÊ

Dược HÀ NỘI

NGUYỄN THÙY DƯƠNG

NGHiêN CỨU TÁC DỤNG Hạ l i PID MÁU, CHỐNG
ĐÔNG Má U củ a BÀI THUỐC ĐÔNG

Dược TRêN

MÔ HÌNH GÂy v ữ a X ơ ĐỘNG MẠCH

CHUYÊN NGÀNH:

Dược LÝ - Dược LÂM SÀNG

MÃ SỐ: 03. 02. 02

LUẬN VÃN THẠC s ĩ

Dược HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN VĂN ĐỒNG
PGS. TS. PHẠM QUANG TÙNG

HÀ NÔI - 2002




£ Ờ 2 V c íÍM Ơ Q (

TCtìăn thành luận aàtt HỈHỊ, ti'iioe lift tỗi dđti (‘hân thảnh (-átu tín sự
(Ịì úp (Tô eỉta (Ban ạiátn hiệu., của pltòtỉtỊ rtìàfl tạo lau đụi họe, của cán thầụ
(fiáí), cà giáo Ở’ eáí- hề màn aà các phỏtiíỊ han trotKỊ "jnuUnf rtìạ ì họ(‘ r/)iíỌ(-

3Kà Qlệi.
CJỉù rin hìuf tả íàttạ bìèt ổn lâu Jắc. tồi vTrV. Qỉ(fnụẽn ^PCịrS. C7fV. (J)hạnt Quang, &ÙMẨỊ., những, nạưồi thầy, đã tận tình httênụ dẫn
im ạiúfL ỉtê’ tèi từ iihữinỊ

đầu nghiên, cứu cha tới khi ỉưưtti thành luậti

tuĩn.
^ĩrtuuị quá trìn h nạhiỀn oú'u, tò i càn nhận ĩttíọe u i íỊÌúp ĩtõ rut nhiệt

tình iưì nhữtig, lị kiên (tómỊ (fóp eủa rft(ị<$.

Jlê (Dinh Tỉỗtìỉ, (Bậ mởn

{ịiá ! phẫu bềnh- ^7IItòn tf (Đại hạc rỊẬ 'Tùà Qlệi. ^7ôi dđn ehăti thành eảm ổn
sù ifì up đẵ h á iứe. quí báu đó.
CjẠi jein tji'ii lòi eảtn tín tối cáo flt(ìt/ eỗ Uiị thuật oìêit rẼồ ntồti Sình
lií)á, (Bộ môn rDnỌí- lựr ^Jt’tuUnf (Đại liọc rDntứ‘ '3ôà QlẬi tìà (8ợ mòn qiải
pit tĩu bĩtih- &Pitònạ. (Đại hoc. nj- 5i5à Qỉộì đã tạo tmtìi điều hiên !)à (ỊÌtìp đõ
tôi nhiệt tình troníỊ suối thài qian thực hiỀti đề tủi.
CJfii jein ehâti thành (tun Oil clt a me, ifiu đình oà ban hỉ ĩtồtu/ nạíiìèp
it ã Luên. íỊÌúp (tẽ và itộtHỊ ơiên tồi tmnạ, suất quá trình Itoe tập, ơà thua hiên

Luận Díìii.

‘Vũà QLội,

9 tháng 1 IItìIU 2003

Qtạuụỉn Q’huy, r/)(tfUt(Ị.


KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ALAT:

Alanine amino transferase

ASAT:

Aspartate amino transferase

CHE:

Cholesterolesterase

CHO:

Cholesteroloxidase

GK:

Glycerol kinase


GOT:

Glutamic oxaloacetic transaminase

GPO:

Glycerol- 3- phosphate oxidase

GPT:

Glutamic pyruvic transaminase

HDL:

High density lipoprotein (lipoprotein tỷ trọng
cao)

HMG- Co A reductase:

Hydroxymethylglutaryl- Co A reductase

IDL:

Intermediate density lipoprotein (lipoprotein
tỷ trọng trung bình)

LDL:

Low density lipoprotein (lipoprotein tỷ trọng
thấp)


POD:

Peroxidase

VLDL:

Very low density lipoprotein (lipoprotein tỷ
trọng rất thấp)


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..........................................................................................................

1

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN........................................................................

3

1.1.

Đại cương về bệnh vữa xơ động mạch............................................

3

1.1.1.

Dịch tễ học..........................................................................................


3

1.1.2.

Bệnh sinh vữa xơ động mạch..............................................................

4

1.1.3.

Vai trò của lipid trong vữa xơ động mạch..............................................

10

1.1.4.

Vai trò của lưu thông huyết mạch đối với vữa xơ động mạch...........

13

1.1.5.

Thương tổn vữa xơ động mạch...........................................................

16

1.1.6.

Xét nghiệm sử dụng trong vữa xơ động mạch...................................


18

1.1.7.

Các thuốc sử dụng trong điều trị vữa xơ động mạch.........................

22

1.2.

Bài thuốc nghiên cứu........................................................................

24

1.2.1.

Cơ sở xây dựng bài thuốc...................................................................

24

1.2.2.

Một số thông tin về các vị thuốc có trong bài thuốc...........................

25

CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ú u ........


27

2.1.

Đối tượng...........................................................................................

27

2.2.

Phương pháp nghiên cứu.................................................................

28

2.2.1.

Xây dựng mô hình vữa xơ động mạch trên súc vật thí nghiệm.........

28

2.2.2.

Đánh giá tác dụng hạ lipid máu của bài thuốc..................................

30

2.2.3.

Đánh giá tác dụng chống đông máu của bài thuốc............................


33

2.2.4.

Mô bệnh học.......................................................................................

35

2.2.5.

Nghiên cứu độc tính của bài thuốc....................................................

37

2.2.6.

Xử lý số liệu thực nghiệm...................................................................

38


CHƯƠNG 3 THỰC NGHIỆM- Kế T QUẢ...............................................

39

3.1.

Mô hình thực nghiệm gây vữa xơ động mạch................................


39

3.1.1. Ảnh hưởng của chế độ ăn giàu lipid tới các chỉ số về lipid của thỏ...

39

3.1.2. Ảnh hưởng của chế độ ăn giàu lipid tới mô bệnh học của thỏ............

43

3.2.

52

Đánh giá tác dụng hạ lipid máu của bài thuốc...............................

3.2.1. Ảnh hưởng của của bài thuốc tới nồng độ cholesterol toàn phần trên
thỏ được gây vữa xơ động mạch.........................................................

52

3.2.2. Ảnh hưởng của của bài thuốc tới chỉ số cholesterol HDL/
cholesterol toàn p hần.........................................................................

53

3.2.3. Ảnh hưởng của của bài thuốc tới nồng độ triglycerid trên thỏ được

3.3.


gây vữa xơ động mạch thực nghiệm...................................................

54

Đánh giá tác dụng chống đông máu của bài thuốc........................

55

3.3.1. Thực nghiệm invitro về ảnh hưởng của bài thuốc tới quá trình đông
máu......................................................................................................

55

3.3.2. Thực nghiệm invivo về ảnh hưởng của bài thuốc tới quá trình đông
máu......................................................................................................

61

34

Đánh giá ảnh hưởng tới mô bệnh học của bài thuốc....................

64

34 1

Xét nghiệm mô bệnh học.....................................................................

64


342

Đánh giá chỉ số khối lượng mỡ bụng/ khối lượng cơ thể....................

67

35

Đánh giá độc tính của bài thuốc.......................................................

68

35 1

Đánh giá độc tính cấp của bài thuốc....................................................

68

352

Sơ bộ đánh giá chức năng gan.............................................................

68

353

Sơ bộ đánh giá chức năng thận............................................................

70


354

Theo dõi sự thay đổi công thức máu....................................................

72


CHƯƠNG 4 NHẬN XÉT TổNG QUÁT VÀ BÀN LUẬN......................

73

4.1.

Về mô hình gây vữa xơ động mạch trên thỏ....................................

73

4.2.

Về tác dụng của bài thuốc..................................................................

75

4.3.

Về độc tính của bài thuốc...................................................................

76

KẾT LUẬN VÀ ĐỂ XUẤT...........................................................................


77

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................

79


MỞ ĐẦU
Hiện nay, các bệnh tim mạch đứng hàng đầu thế giới về tỉ lệ gây tàn
phế và tử vong. Nó là mối đe doạ lớn đối với sức khoẻ con người, đặc biệt là
người cao tuổi. Bệnh càng gia tăng trong xã hội phát triển (do tuổi thọ của con
người được nâng lên, số lượng người cao tuổi ngày càng đông, chế độ ăn cung
cấp chất dinh dưỡng vượt quá nhu cầu; khoa học kỹ thuật phát triển nên sức
lao động được giải phóng, hoạt động thể lực giảm...)- Do đó, thuốc phòng và
điều trị bệnh này là một nhu cầu, đang được y học thế giới và trong nước quan
tâm và đầu tư nghiên cứu ngày càng cao.
Trong các bệnh tim mạch, vữa xơ động mạch là bệnh phổ biến nhất và
gây ra các biến chứng rất nặng. Bệnh vữa xơ động mạch với những biểu hiện
lâm sàng như: suy mạch vành, nhồi máu cơ tim, đột tử, nhồi máu não... là
nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước công nghiệp. Ở Việt Nam,
những bệnh này trước đây ít gặp nhưng trong những năm gần đây đang có
chiều hướng gia tăng theo nhịp độ phát triển của xã hội. Cho tới nay, người ta
đã phát hiện được nhiều yếu tố nguy cơ tác động đến sự hình thành và phát
triển vữa xơ động mạch trong đó rối loạn lipid máu được coi là một trong
những nguy cơ quan trọng nhất. Ngoài ra, trong vữa xơ động mạch thường
kèm theo hội chứng tăng đông máu, tạo huyết khối. Các mảng vữa xơ cùng
huyết khối gây tắc nghẽn động mạch là nguyên nhân gây những tai biến nguy
hiểm như nhồi máu cơ tim trong vữa xơ động mạch vành tim hay xuất huyết
não, tắc mạch máu não trong vữa xơ động mạch não.

Trên thế giới đã có nhiều loại tân dược được sử dụng để phòng và điều
trị bệnh này song hầu hết các thuốc đều có nguồn gốc hoá dược. Các thuốc
này có cơ chế tác dụng rõ ràng, phạm vi và liều lượng điều trị hẹp. Tuy nhiên,
nhược điểm lớn của các thuốc tân dược là do phải sử dụng dài ngày nên gây ra

Jinan Diìn thạn i í dtitte


2

nhiều tác dụng không mong muốn. Ngày nay, hướng nghiên cứu của y học
hiện đại là dùng các thuốc có nguồn gốc thiên nhiên để khắc phục nhược điểm
trên.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu và sản xuất thuốc trên cơ sở kế thừa và
hiện đại hóa y học cổ truyền đang được quan tâm nhằm góp phần tìm kiếm
nguồn nguyên liệu làm thuốc, đánh giá lại bằng thực nghiệm, phát hiện tác
dụng mới của các thuốc đông dược. Xu hướng hiện nay là dựa trên lý luận của
y học cổ truyền và kết hợp với các kết quả nghiên cứu mới về dược lý để đưa
ra các bài thuốc có hiệu quả chữa bệnh đồng thời khắc phục được nhược điểm
của các thuốc tân dược.
Từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tác dụng hạ
lipid máu, chống đông máu của bài thuốc đông dược trên mô hình gây
vữa xơ động mạch”.
Mục đích của đề tài: Nghiên cứu tác dụng giảm lipid máu và chống
đông máu của bài thuốc để góp phần ứng dụng vào việc phòng và điều trị vữa
xơ động mạch.
Để thực hiện mục tiêu trên, chúng tôi tiến hành các nội dung sau:
- Đánh giá tác dụng hạ lipid máu của bài thuốc trên mô hình gây vữa xơ
động mạch thỏ thực nghiệm.
- Đánh giá tác dụng chống đông máu của bài thuốc.

- Xét nghiệm mô bệnh học để đánh giá mức độ tổn thương tế bào của
động mạch chủ và động mạch vành.
- Bước đầu đánh giá độc tính của bài thuốc.

Jitlàn lùktt thíie i l (hífí'e húe


3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỂ BỆNH VỮA x ơ ĐỘNG MẠCH
1.1.1. Dich tễ hoc
Vữa xơ động mạch là một bệnh đáng chú ý nhất của người cao tuổi vì
rất hay gặp và gây nhiều biến chứng hiểm nghèo, có tỷ lệ tử vong cao nhất.
Bệnh do thương tổn ở nội mạc của các động mạch lớn và vừa. Thương tổn này
gồm hai thành phần cơ bản: mảng vữa và tổ chức xơ. Nếu chỉ có cặn lipid mà
không có xơ thì đó chỉ là bệnh vữa động mạch. Nếu chỉ có dầy và xơ động
mạch mà không có vữa thì đó chỉ là xơ cứng động mạch. Vữa xơ động mạch
gồm cả hai yếu tố đó [9], [11].
Tỷ lệ mắc bệnh vữa xơ động mạch rất khác nhau và phụ thuộc vào các
yếu tố sinh học (tuổi, giới) và xã hội (điều kiện sống, làm việc, ăn uống).
1.1.1.1. Vai trò của tuổi và giói :
Tuổi càng cao càng hay gặp vữa xơ động mạch. Bệnh tuy gặp rõ rệt
nhất ở tuổi già nhưng sự thực đã bắt đầu có từ lúc còn trẻ. Tổn thương tăng
dần theo tuổi và nặng nhất ở lứa tuổi 60. Đối với tất cả các lứa tuổi, nam giới
mắc vữa xơ động mạch nhiều hơn rõ rệt so với nữ giới. Tuy nhiên, trong
những năm qua ở Việt Nam, tỷ lệ nữ tử vong do tai biến vữa xơ động mạch có
phần tăng lên [12], [34], [39].

1.1.1.2. Vai trò của lối sống
Những người có chế độ ăn nhiều thịt và mỡ động vật có nguy cơ mắc
vữa xơ động mạch cao hơn. Bệnh hay gặp ở người lao động trí óc, ít hoạt động
thể lực nhiều hơn ở người lao động chân tay [12], [25].

Muộn lìà II thạe. i í ílượe họa


4

1.1.2. Bênh sinh vữa xơ đỏng mach
1.1.2.1. Một số thuyết về cơ chê vữa xơ động mạch
❖ Thuyết vê phản ứng và thương tổn:
Các tế bào nội mô phủ trên màng trong của động mạch dễ bị thương tổn
do rất nhiều chấn thương liên tiếp trong suốt quá trình sống. Các thương tổn
này có thể kín đáo hoặc trái lại khá nặng nề, làm cho chúng không gắn được
với nhau hoặc với mô liên kết ở dưới. Dòng máu lưu hành trong động mạch có
thể làm một số tế bào bị bong ra. Các chấn thương gây nên có thể do nguyên
nhân hoá học như tăng cholesterol máu kinh điển, hoặc do nguyên nhân cơ
học như tăng huyết áp, hoặc do nguyên nhân miễn dịch như trong trường hợp
có ghép tim hay ghép thận. Chính những thương tổn đầu tiên ở trong động
mạch đã làm cho một số thành phần của huyết tương bám vào và làm tăng kết
dính tiểu cầu. Các thành phần của huyết tương như những lipoprotein cũng
như các yếu tố tiểu cầu đã kích thích sự di chuyển các tế bào cơ trơn ở màng
giữa động mạch đến màng trong động mạch, và làm chúng tăng sinh tại đây.
Các tế bào cơ trơn này tích tụ các chất mỡ, lượng mỡ trong máu tăng cao, sự
tích luỹ càng tăng. Các đại thực bào cũng tích luỹ mỡ. Hiện tượng các
monoxyd- sau này trở thành các đại thực bào- di chuyển đến thành động mạch
có lẽ là hiện tượng tế bào bất thường đầu tiên trong quá trình hình thành vữa
xơ động mạch. Khi các thương tổn lớn dần, màng trong động mạch dầy lên thì

lưu lượng máu qua đó giảm đi, việc này lại càng làm tăng thương tổn của lớp
tế bào nội mô [9], [11].
❖ Thuyết đơn dòng:
Dựa trên nhận xét là người ta chỉ phát hiện được một typ isoenzym
trong các thương tổn của động mạch bị vữa xơ và cho rằng thương tổn tăng
sinh của màng trong động mạch chỉ bắt nguồn từ một tế bào cơ trơn nhân lên
nhiều lần như kiểu đối với một u lành. Theo thuyết này các yếu tố tạo phân

Jlutut oàn thạo sĩ

ỉtúc


5

bào và có lẽ cả yếu tố tạo đột biến, đóng vai trò kích thích sự tăng sinh các tế
bào cơ trơn và chỉ tác động trên các tế bào đặc biệt. Sự già hoá khu trú tại một
dòng giải thích vì sao quá trình hóa già nội tại lại gây nên xơ vữa động mạch.
Các tế bào cơ trơn tăng sinh ở màng trong động mạch chịu ảnh hưởng của sự
kiểm soát của các yếu tố ức chế giản phân các tế bào cơ trơn ở mảng giữa
động mạch kế cận. Hệ thống kiểm soát trở lại này, giảm dần hiệu lực khi có
tuổi, khi các tế bào kiểm soát đó chết đi và không được thay thế [11].
♦> Thuyết vê tiêu bào:
Sự giảm sút chức năng của các thể tiêu bào (lysosome) có thể tham gia
vào quá trình sinh vữa xơ động mạch. Các enzym trong thể tiêu bào tham gia
vào việc thoái giáng các thành phần của tế bào và vì vậy dẫn đến sự hoá già tế
bào, sự lắng đọng lipofuxin. Hiện tượng lắng đọng lipid trong các tế bào cơ
trơn của động mạch có thể do thiếu hụt hoạt tính hydrolase của các este
cholesterol có mặt trong các thể tiêu bào. Do sự thiếu hụt đó mà este
cholesterol ứ đọng trong các tế bào. Sự ứ đọng này càng được tăng lên khi quá

tải lipid ở các thể tiêu bào, dẫn đến cái chết của tế bào và lắng đọng lipid
ngoài tế bào [11].
1.1.2.2. Các yếu tô nguy hại gây vữa xơ động mạch
Các yếu tố nguy hại gây vữa xơ động mạch là tăng lipid máu, tăng
huyết áp và các yếu tố khác trong đó rối loạn lipid máu được coi là một trong
những nguy cơ quan trọng nhất.
♦♦♦ Tăng lipid máu:
Tăng lipid máu từ lâu đã được coi là một yếu tố đe doạ quan trọng trong
vữa xơ động mạch. Nguyên nhân của bệnh này là do có lắng đọng các lipid
lưu hành trong máu vào thành động mạch. Cholesterol đóng vai trò quan trọng
nhất trong các lipid ứ đọng ở mảng vữa [25], [39]. Cholesterol máu càng cao
thì tần số mắc các bệnh vữa xơ động mạch càng lớn: nguy cơ tai biến mạch

Mắ iộ h o à n th ụ c i ĩ d ư ổ e íiỌf‘


6

vành là 1 nếu cholesterol máu dưới 2 g/1, tăng lên đến 2,25 và 3,25 nếu
cholesterol máu là 2,4 và trên 2,6 g/1. Đầu thập kỉ 70, người ta lại nhấn mạnh
đến HDL- c (Hight density lipoprotein- cholesterol) và LDL- c (Low density
lipoprotein cholesterol). Trong bệnh sinh của vữa xơ động mạch: HDL- c
càng cao, LDL-

c càng thấp thì nguy cơ bị vữa xơ động mạch càng ít. Trái lại

HDL- c càng thấp, LDL- c càng cao thì càng dễ dàng bị vữa xơ động mạch
và các tai biến tim mạch [40].
Những nghiên cứu về HDL- c từ đó được phát triển và người ta thấy


HDL- c có xu hướng giảm theo tuổi, tỉ lệ nghịch với trọng lượng cơ thể, với
nồng độ triglycerid máu; tăng ở người hoạt động thể dục thể thao, giảm ở
người hút thuốc, giảm ở người đái tháo đường...
Hai giả thuyết được nêu lên để giải thích cơ chế tác dụng của HDL-C
và LDL-C. Theo Glomset và Mitler, apoprotein AI thành phần chủ yếu của
HDL đã hoạt hoá men lecithin- cholesterol- acyl- transferase (LCAT) để giúp
este hoá cholesterol ứ đọng trong thành mạch do LDL đưa tới, cholesterol este
hoá được HDL đưa về gan để chuyển hoá. Như vậy giảm HDL có nghĩa là
giảm việc huy động cholesterol từ tổ chức và làm tăng nhanh sự phát triển quá
trình hình thành vữa xơ động mạch, v ề cơ chế tác dụng của LDL, theo Carew,
chất này được cố định vào các receptor đặc biệt của thành động mạch và tại
đó đã để lại phần cholesterol mang theo, HDL đã tác động trực tiếp cản trở sự
cố định các LDL vào các receptor đó.
Trên thực tế lâm sàng hiện nay, người ta có xu hướng cho rằng có nguy
cơ đe doạ vữa xơ động mạch nếu có tăng cholesterol, tăng triglycerid, tăng

LDL- c, giảm HDL- c, giảm apoprotein Al, tăng apoprotein B, tăng
apoprotein E, giảm tỉ số apo Al/B (apoprotein AI có chủ yếu trong HDL,
apoprotein B là thành phần protein chính trong LDL, VLDL, apoprotein E là
protein đặc hiệu để receptor tiếp nhận VLDL) [11].

JhứỊn oủtt Ihue i l dn’ao Itoc


7

❖ Tăng huyết áp:
Tăng huyết áp tạo điều kiện hình thành hoặc thúc đẩy tiến triển của vữa
xơ động mạch. Trong tăng huyết áp động mạch thì con số huyết áp tâm trương
tăng có ý nghĩa hơn huyết áp tâm thu. Tăng huyết áp gần như bao giờ cũng

gặp ở người bị tai biến mạch máu não, cho dù đó là nhũn não hay chảy máu
não. Đa số tác giả cho là phải có một mức huyết áp tăng nhất định trong một
thời gian dài mới có thể gây được vữa xơ động mạch.
Về phương diện cơ chế, người ta cho rằng tăng huyết áp đã làm tăng
tính thấm của nội mô. Các chất trong huyết tương xuyên qua được lớp nội mô
là nhờ có các khoảng liên bào hoặc là nhờ hoạt động của bản thân nội mô.
Trong điều kiện sinh lí các phân tử có đường kính dưới 90 A° chui được vào
chủ yếu qua các khoảng liên bào. Trái lại, các phân tử có đường kính lớn hơn
(như các protein và các lipoprotein) vào theo các cơ chế ẩm bào. Trong điều
kiện sinh lí, các chất đó cũng có thể vào được qua những chỗ nối giữa tế bào
khi các tế bào này co lại dưới tác động của một số hormon co mạch (như
angiotensin, histamin, serotonin, catecholamin...) hoặc khi tế bào nội mô bị
tổn thương. Các kết quả thực nghiệm đã chứng tỏ tăng huyết áp cấp tính hay
mạn tính, có hiện tượng thấm qua nội mô theo cơ chế đó, đồng thời cũng cho
thấy tăng huyết áp hay có thương tổn nội mô và tăng hormon co mạch.
Về phương diện thực hành, người ta đã nhận thấy nguy cơ vữa xơ động
mạch được giảm đi rất nhiều nếu huyết áp được khống chế không cho tăng
nhiều. Một công trình gần đây cho biết nếu huyết áp tâm trương được duy trì
ở mức 105 mm Hg, thì nguy cơ tai biến mạch máu não, bệnh tim do thiếu máu
cục bộ, suy tim giảm đi rất nhiều. Vì vậy, nếu có tăng lipid máu hoặc có
những yếu tố nguy hại khác như sẽ nêu dưới đây thì phải kết hợp điều trị ngay
tăng huyết áp nếu có [9], [11], [34].

J ltíà n lUÌn f l u f f s ĩ {lu ’(U‘ h o e


8

♦> Các nguy hại khác:
Các nguy hại khác gây nên vữa xơ động mạch là nghiện thuốc lá, tăng

đường huyết, ít hoạt động thể lực, v.v...
-

Nghiện thuốc lá:
Nghiện thuốc lá là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong bệnh

sinh vữa xơ động mạch. Bỏ thuốc lá làm giảm sự phát triển của vữa xơ động
mạch một cách rõ rệt. Nhiều thống kê cho thấy ở người hút trên một bao
thuốc lá mỗi ngày, tỉ lệ tử vong tăng lên 70% và tỉ lệ mắc bệnh mạch vành
tăng lên gấp 3 đến 5 lần so với người không hút thuốc lá. Đối với phụ nữ, hút
thuốc lá tỉ lệ mắc bệnh nhồi máu cơ tim rất cao, nhất là nếu lại dùng thêm các
thuốc uống tránh thai [39], [43].
Nhìn chung, nếu đồng thời với nghiện thuốc lá lại có yếu tố nguy hại
khác kèm theo như đái tháo đường, tăng huyết áp, hoặc phải chạy thận nhân
tạo chu kỳ thì tỉ lệ tử vong do vữa xơ động mạch tăng lên rất nhiều. Cũng có
nhận xét là những người dùng tẩu hoặc xì gà tỉ lệ có phần ít hơn ở những
người nghiện thuốc lá. Nhưng nếu chết vì bệnh khác, khi mổ tử thi, người ta
cũng thấy có vữa xơ động mạch vành nặng hơn so với người không hút [11].
- Đái tháo đường:
So với người bình thường thì người đái tháo đường có nguy cơ bị biến
chứng vữa xơ động mạch nhiều gấp đôi, nhất là đối với nhồi máu cơ tim.
Bệnh nhân đái tháo đường hay có huyết khối ở não, nhũn não hơn là
xuất huyết não, hoại tử chi dưới gặp nhiều hơn gấp 8 - 15 lần ở người đái tháo
đường so với người đường huyết bình thường. Tuy nhiên mức độ tăng đường
huyết không có mối quan hệ tuyến tính với tỉ lệ tai biến do vữa xơ động mạch.
Việc làm hạ đường huyết không làm hạ thấp được tỉ lệ tử vong do vữa xơ động
mạch [11], [17], [25].

Mnậ/I oãn íhíLa ìĩ ihítíe họ<‘



9

- Béo phì:
Nếu cân nặng cơ thể lớn hơn cân nặng lý tưởng 30% thì nguy cơ mắc
vữa xơ động mạch và tử vong do vữa xơ động mạch tăng lên, nhiều nhất là đối
với các bệnh tim do thiếu máu cục bộ. Béo phì làm vữa xơ động mạch xuất
hiện sớm hơn, thường là trước tuổi 50. Có sự liên quan khá rõ giữa typ béo
bệu với nguy cơ tim mạch đặc biệt là loại có nhiều mỡ phân bố ở vùng bụng
[41].
- Hoạt động thể ỉực:
Người năng hoạt động thể lực ít bị chết đột ngột hơn so với người ít vận
động. Hoạt động thể lực có lẽ là yếu tố khác biệt chính về tần xuất mắc bệnh
tim do thiếu máu cục bộ, cũng như sự khác biệt giữa người sống ở thành thị và
người sống ở nông thôn. Người năng vận động có nồng độ HDL cao (yếu tố
chống nguy cơ bị bệnh tim do thiếu máu cục bộ). Mức độ tăng lipid máu của
họ cũng ít hơn có thể do tiêu hao năng lượng. Luyện tập điều độ là một yếu tố
hết sức quan trọng trong chương trình bảo vệ sức khoẻ [9], [11], [39].
- Stress và nhân cách:
Đây cũng là những yếu tố cần chú ý. Những chấn thương tâm lí, những
cảm xúc âm tính, tình trạng lo âu bồn chồn hay dẫn tới những bệnh tim do
thiếu máu cục bộ và chết đột ngột. Người ta cũng phân biệt ra hai loại nhân
cách, loại ít bị bệnh tim do thiếu máu cục bộ (typ A) và loại dễ mắc bệnh đó
(typ B). Với typ B có thể hạn chế các tác hại bằng cách loại bỏ thuốc lá, có
chế độ ăn uống hợp lý và tránh những hoàn cảnh gây tress mạnh [11], [39].
-

Yếu tố di truyền:
Yếu tố di truyền vữa xơ động mạch xuất hiện sớm thường mang tính


chất bệnh gia đình có nghĩa là có những gia đình bị mắc bệnh này nhiều hơn
các gia đình khác. Trong nhiều trường hợp, yếu tố gia đình hay di truyền này

rílu ậ n o á n t h ạ c i ĩ ih iọ e liọo


10

liên quan đến bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường và tăng lipid máu. Ngược
lại, cũng có những gia đình có xu hướng tăng HDL và ở những gia đình này,
vữa xơ động mạch ít gặp hơn hẳn [11], [25], [40], [43].
1.1.3. Vai trò của lipid trong vữa xơ động mạch
1.1.3.1. Vai trò sinh lý của lipid
Lipid là sản phẩm ngưng tụ của acid béo và alcol, hầu hết là các este
hoặc amid của acid béo với alcol [25].
Trong cơ thể người và động vật, lipid có hai vai trò chính là cung cấp,
dữ trữ năng lượng và tham gia cấu tạo tế bào. Ngoài ra, lipid còn có vai trò
bảo vệ, điều hoà thân nhiệt, hấp thu và vận chuyển các chất tan trong dầu, đặc
biệt là các vitamin A, D, E, K và các hormon steroid [26].
Thành phần của lipid máu gồm: triglycerid, cholesterol, phospholipid.
1.1.3.2. Lipoprotein và sự vận chuyển lipid:
♦♦♦ Cấu trúc và phân loại lipoprotein:
Lipid vận chuyển trong máu dưới dạng kết hợp với protein có tên là
apoprotein. Hai phần này hợp lại tạo thành lipoprotein. Lipoprotein có dạng
hình cầu, phần lõi chứa lipid không phân cực (cholesterol este hóa,
triglycerid), lớp ngoài chứa cholesterol tự do, phospholipid và các apoprotein.
Dựa vào sự khác nhau về tỷ trọng của các lipoprotein, người ta chia
lipoprotein thành 5 loại [7], [26], [37]:
Chylomycron (d < 0,94).
Lipoprotein tỷ trọng rất thấp VLDL (0,94 < d < 1,006).

Lipoprotein tỷ trọng trung bình IDL (1,006 < d < 1,019).
Lipoprotein tỷ trọng thấp LDL (1,019 < d < 1,063).
Lipoprotein tỷ trọng cao HDL (1,063< d < 1,210).

Ẩlttân í)ăn tlta e i i (tiííie líúi‘


11

♦> Sự vận chuyển lipid:
Chylomycron do tế bào niêm mạc ruột tạo nên, vận chuyển triglycerid
và cholesterol có trong thức ăn (lipid ngoại sinh) theo hệ thống bạch huyết đổ
vào đại tuần hoàn. Trong máu, triglycerid của chylomycron bị thủy phân
thành acid béo tự do cung cấp cho mô cơ và mô mỡ để rồi sau đó được oxy
hóa cho năng lượng hoặc chuyển trở lại thành triglycerid. Nhờ quá trình trên,
chylomycron nhỏ dần thành những hạt chylomycron tồn dư giàu cholesterol,
khi đến gan được thu nhận và tiêu hóa trong lysosom cho cholesterol tự do.
Cholesterol này có thể được sử dụng theo nhiều hướng: tham gia tổng hợp
màng, dự trữ ở gan, tạo thành muối mật, sản xuất lipoprotein.
Lipid do cơ thể sản xuất được vận chuyển bằng con đường nội sinh.
Triglycerid và cholesterol được gan bài tiết vào máu ở dạng VLDL. Trong
máu, triglycerid của VLDL cũng bị thủy phân tách ra để hình thành VLDL
tồn dư và IDL. Khoảng một nửa số IDL này được chuyển hóa trong gan, phần
còn lại tiếp tục bị tách triglycerid để cuối cùng trở thành các hạt LDL. Các hạt
LDL vận chuyển tới 60- 70% tổng số cholesterol trong máu. LDL mang
cholesterol từ gan tới các tổ chức và tương tác với receptor- LDL trên màng tế
bào. LDL gắn trên receptor- LDL với ái lực cao qua trung gian apo BI00 của
LDL. Phức hợp LDL- receptor và LDL được nhấn chìm trong bào tương, đồng
thời tạo thành túi chứa phức hợp gọi là endosim. Mọi tế bào đều có thể tự điều
hoà tiếp nhận cholesterol theo nhu cầu thông qua tổng hợp receptor LDL. Sự

điều hoà này theo cơ chế kiểm soát ngược tránh cho tế bào không quá tải
cholesterol và giữ cho hàm lượng cholesterol trong tế bào hằng định. Các hạt
LDL được tế bào thâu tóm, cholesterol được dùng làm nguyên liệu tổng hợp
các steroid, tham gia thành phần màng tế bào. HDL tổng hợp ở gan và ruột, có
chức năng vận chuyển cholesterol từ tế bào ngoại vi về gan để thoái hóa. Đó
là quá trình vận chuyển ngược cholesterol [7], [19], [44].

Ẩimĩit oán time, i t du'tí<í hoe


12

1.1.3.3. Chuyển hoá cholesterol:
❖ Tổng hợp- thải trừ:
Cholesterol trong cơ thể do 2 nguồn gốc: ngoại sinh do hấp thu từ thức
ăn chủ yếu là mỡ động vật (khoảng 0,3 g/ngày) và nội sinh do cơ thể tổng hợp
chủ yếu ở tế bào gan (1 g/ngày).
Cholesterol được hấp thu cùng các lipid khác dưới dạng chylomycron,
steroid, acid mật để tham gia cấu tạo màng tế bào và bào tương.
Con đường thoái hoá chủ yếu của nó là biến thành acid mật ở gan rồi
thành muối mật đổ vào ruột cho quá trình tiêu hoá và hấp thu lipid. Khoảng
1/2 cholesterol được chuyển thành acid mật và bài xuất theo phân, phần còn lại
đào thải dưới dạng sterol trung tính. Trong máu, cholesterol tồn tại dưới hai
dạng: tự do và este hóa với các acid béo. Dạng tự do chiếm 1/3, dạng este
chiếm 2/3. Cả 2 dạng đều kết hợp với protein dưới dạng lipoprotein. Bình
thường cholesterol toàn phần khoảng 200mg/100 ml máu, chủ yếu là
cholesterol este. Cholesterol trong cơ thể có vai trò tham gia cấu tạo màng tế
bào, là nguyên liệu để tổng hợp acid mật, hocmon steroid [36], [38]....
♦> Cholesterol với vữa xơ động mạch:
Cholesterol là thành phần chính trong các lipoprotein ứ đọng ở mảng

vữa xơ. Cholesterol máu càng cao thì tỉ lệ mắc các bệnh vữa xơ động mạch
càng lớn.
Cholesterol được vận chuyển trong cơ thể dưới dạng lipoprotein, trong
đó quan trọng nhất là LDL và HDL.
Chylomycron bản thân không gây vữa xơ động mạch.
VLDL chứa từ 15- 20% tổng số cholesterol trong máu và hầu hết lượng
triglycerid nội sinh. Các hạt VLDL khá lớn và coi như không gây vữa xơ động
mạch.

Muộn aăn. tliạo i l diúic ỉtút'


13

Cholesterol trong HDL được gọi là cholesterol tốt bởi vì cholesterol
được HDL vận chuyển từ các tế bào ngoại vi về gan để thải ra ngoài bằng con
đường mật làm cho cholesterol ít ứ đọng ở tế bào thành mạch. Trong vữa xơ
động mạch, HDL có vai trò bảo vệ, nghĩa là lượng HDL càng cao thì nguy cơ
bị vữa xơ động mạch càng thấp.
Ngược lại với HDL- c, cholesterol trong LDL là loại gây vữa xơ động
mạch và là mục tiêu chủ yếu của điều trị hạ cholesterol máu. Các hạt LDL
đường kính rất nhỏ, chứa nhiều cholesterol, được thoái hoá theo hai con
đường: phần lớn các hạt LDL mang cholesterol từ gan tới các tổ chức và tương
tác với receptor LDL trên màng tế bào; một phần nhỏ LDL thoái hoá theo con
đường kém đặc hiệu trong đó có sự tham gia của đại thực bào. Khả năng gây
vữa xơ động mạch có liên quan trực tiếp tới nồng độ LDL- c trong máu. Các
hạt LDL chui vào lớp dưới nội mạc, ở đó bị oxy hóa, dễ được monocyt- đại
thực bào thu gom. Bản thân đại thực bào rât ít receptor LDL nhưng lại có
nhiều receptor dọn rác (scavenger receptor) là loại chỉ nhận biết được LDL đã
biến đổi. Các đại thực bào thâu tóm LDL đã biến đổi một cách không giới hạn

làm cho lượng cholesterol trong tế bào quá thừa. Những tế bào này cuối cùng
quá tải những hạt lipid và trở thành những tế bào bọt (foam cell). Ngoài ra,
các receptor scavenger còn thâu tóm các huyết khối thành các tế bào bọt. Các
tế bào bọt là một trong những chặng đầu tiên hình thành bản vữa xơ động
mạch. Các bản vữa xơ động mạch dễ bị bong ra tạo tiền đề cho huyết khối
hình thành gây tắc lòng mạch. Vì vậy, cholesterol của LDL còn được gọi là
cholesterol xấu [25], [26], [34], [40].
1.1.4. Vai trò của lưu thông huyết mạch đối với vữa xơ động mạch
1.1.4.1. Quá trình đông máu và chống đông máu
Quá trình đông máu và chống đông máu là quá trình phức tạp mà cả hai
cùng xảy ra, song song tiến triển với hai tác dụng rất khác nhau: đông máu

ẨIikỊii tùLn thụe i i ilỉiot' hoe


14

nhằm mục đích cầm máu khi chảy máu và chống đông máu nhằm mục đích
ngăn cản đông máu lan tràn, tiêu cục máu để lưu thông máu khi mạch đã phục
hồi.
❖ Quá trình đông máu:
Quá trình đông máu là chuỗi các phản ứng dây chuyền, nhiều sản phẩm
của phản ứng trước trở thành chất xúc tác cho phản ứng sau, phản ứng cuối
cùng là sự biến đổi fibrinogen (một protein hoà tan trong huyết tương) thành
fibrin (một protein không hoà tan trong huyết tương) có dạng sợi liên kết với
nhau thành mạng lưới, ôm lấy các tế bào của máu thành cục máu đông.
Quá trình đông máu có sự tham gia của các yếu tố đông máu (huyết
tương, tiểu cầu và tổ chức). Hầu hết các yếu tố đông máu có bản chất là
protein (trừ yếu tố IV là Ca++) có vai trò như những enzym [42].
Có 13 yếu tố tham gia phản ứng dây chuyền đông máu.

❖ Cơ chê quá trình đông máu:
Quá trình đông máu có thể chia thành 3 giai đoạn như cách phân chia
của Howell [26], [33].
Giai đoan 7: là giai đoạn hình thành thromboplastin, chất xúc tác cho
sự biến đổi prothrombin thành thrombin. Thời gian này kéo dài khoảng 5
phút, máu vẫn ở thể lỏng. Trong giai đoạn này, các yếu tố VII, IX, XI được
hoạt hoá theo dây chuyền.
Giai đoan 2 : là giai đoạn chuyển prothrombin (yếu tố II) thành
thrombin (yếu tố lia) dưới tác dụng của các yếu tố Xa, Va, IV. Thời gian
Quick kéo dài khi thiếu một trong những yếu tố trên. Sự thiếu hẳn một yếu tố
nào đó đều làm cho sự biến đổi prothrombin không hoàn toàn. Do đó, trong
huyết tương vẫn còn lại một lượng prothrombin thừa sau khi cục máu đông
hình thành.

Muộn oàn thục i l (lílóe hoe


15

Giai đoan 3 : là giai đoạn tạo fibrin từ fibrinogen dưới tác dụng của
thrombin, Ca++, yếu tố xnia. Phản ứng đầu tiên là fibrinogen mất đi một hay
nhiều peptid để tạo thành fibrin hoạt hoá (fibrin đơn phân), chất này trùng hợp
tức khắc nhưng thuận nghịch thành fibrin đa phân (dạng hoà tan) có phân tử
lượng lớn hơn nhiều so với fibrinogen ban đầu. Dưới tác dụng của yếu tố

xnia, fibrin đa phân bền vững ở dạng sợi đan với nhau thành lưới, ôm lấy các
huyết cầu tạo thành cục máu đông.
1.1.4.2. Quá trình tiêu fibrin
Bên cạnh những cơ chế hình thành cục máu đông cũng có những cơ chế
tiêu cục máu đông gọi là quá trình tiêu fibrin. Quá trình này cùng các chất

chống đông máu làm thành hệ thống chống đông máu, luôn cân bằng với hệ
thống đông máu để chống lại hiện tượng đông máu lan toả khi đã hình thành
cục máu đông và thông mạch khi các tổn thương mạch máu đã phục hồi, giúp
cho máu được lưu thông.
Trong huyết tương, có các yếu tố hoạt hoá biến đổi plasminogen thành
plasmin (các yếu tố hoạt hoá này đã biến đổi plasminogen có phân tử lượng
khoảng 143.000 dt thành plasmin có phân tử lượng khoảng 120.000dt).
Plasmin có tác dụng thuỷ phân liên kết peptid của fibrin làm tan cục máu
đông. Ngoài ra, plasmin còn có tác dụng huỷ các yếu tố: fibrinogen, yếu tố V,
yếu tố VII cho nên nó còn đựợc gọi là một yếu tố chống đông máu.
Có nhiều cách hoạt hoá plasminogen thành plasmin. Trong các mô và
huyết tương có một chất hoạt hoá gọi là fibrinolyso- kinase. Trong nước tiểu
có chất hoạt hoá là urokinase. Trong một số vi khuẩn cũng có chất hoạt hoá
plasminogen như staphylokinase, streptokinase, đặc biệt là streptokinase đã
trở thành một biệt dược tiêu fibrin.
Các sản phẩm do fibrin thủy phân còn có tác dụng kháng thrombin, ức
chế kết vón tiểu cầu ngăn cản quá trình đông máu [26].

Jill ân txăn tim e i ĩ díiú'i‘ hoe


16

1.1.5. Thương tổn vữa xơ đỏng mach
Mảng vữa xơ hình thành rất sớm, từ lúc còn trẻ, tiến triển lặng lẽ hàng
chục năm không ai để ý đến và thường chỉ thể hiện trên lâm sàng ở tuổi 4060. Lúc này bệnh nhân mới bắt đầu để ý đến bệnh [9], [11], [12].
Quá trình hình thành mảng vữa xơ có thể chia ra làm 4 giai đoạn:
1.1.5.1. Giai đoạn một: Phù nề không nhiễm mỡ.
Thương tổn đầu tiên là phù nề không nhiễm mỡ ở lớp sâu của màng
trong động mạch. Tinh trạng phù nề cục bộ làm đảo lộn cấu trúc xơ chun,

làm hư tổn chất cơ bản và làm mất dần các sợi tạo keo. v ề sau xuất hiện tế
bào ăn mỡ, dưới dạng tế bào có bọt, tụ lại thành đám, dưới lớp nội mô. Ở giai
đoạn này, lòng động mạch chưa bị hẹp, nhưng tính thấm của thành mạch đã bị
rối loạn, tạo điều kiện cho một số thành phần mỡ bám vào và đọng tại đó.
1.1.5.2. Giai đoạn hai: Các vệt nhiễm mỡ.
Về mặt đại thể, trên bề mặt của nội mô động mạch, xuất hiện các vết
nhỏ màu vàng nhạt, kéo dài dọc theo dòng máu, rải rác từng chỗ ít nổi gờ. v ề
mặt vi thể, các thương tổn chứa nhiều tế bào mỡ. Lúc đầu các vệt nhiễm mỡ
còn thưa, càng về sau càng dầy lên làm thành các đám dạng lưới. Tế bào mỡ
tăng sinh dần làm thành các hạt mỡ, xung quanh có các tổ chức biến đổi, kiểu
tăng sinh các sợi keo hoặc tiêu huỷ sợi chun. Các thương tổn ở giai đoạn này
chứa rất nhiều mỡ trong và ngoài tế bào.
1.1.5.3. Giai đoạn ba: Hình thành các thương tổn vữa xơ động mạch.
Đến giai đoạn này, các thương tổn vữa xơ động mạch tiến triển nhanh
hơn có hình thái giải phẫu bệnh học rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên bao
giờ cũng có hai yếu tố cơ bản là tổ chức xơ và mảng vữa. Tổ chức xơ thể hiện
bằng tình trạng màng trong của động mạch dày lên thành từng đám và mảng
nổi gờ màu trắng ngà, bên cạnh những chỗ còn hơi nhẵn. Trong màng có một

Muộn mìn than i l (hi’fi'o Ítíii-


17

chất vữa hoại tử, gồm các tế bào ăn mỡ. Tổ chức xơ hình thành xung quanh
mảng đó, lan toả theo hình nan hoa.
Mảng xơ vữa có dạng như một mụn mủ dày, ở giữa có một vùng hoại tử
khảm trong một vùng vữa xơ. v ề mặt vi thể, mảng vữa xơ có hai dạng chính:
ở chung quanh là một tổ chức xơ đặc, ăn vào màng giữa của các động mạch, ở
trung tâm là một vùng hoại tử có nhiều axit béo và cholesterol. Mảng vữa xơ

có thể thưa thớt, nhưng cũng có khi dày đặc, nối kết nhau làm cho lòng động
mạch hẹp dần.
1.1.5.4. Giai đoạn bốn: Tổn thương calci hoá và loét.
Lắng đọng calci ở vùng hoại tử của mảng vữa xơ. Các vùng bị calci hoá
đều cản quang nên khi chụp X quang có thể thấy dưới dạng chấm kiểu “vỏ
trứng”.
Loét có thể xuất hiện ở ngay giữa mảng vữa xơ hay ở vùng chung
quanh. Loét bao giờ cũng mở vào lòng động mạch. Bất cứ một thương tổn nào
ở nội mô do bất cứ nguyên nhân nào cũng làm tăng độ dính tiểu cầu ở chỗ đó.
Huyết khối tiểu cầu bám chặt vào nội mô và được một lớp fibrin phủ lên, dần
dần hợp nhất với mảng vữa xơ sẵn có làm cho mảng này dày lên. Các vi ti
huyết khối tiểu cầu có thể gây đông máu tại chỗ làm thành máu cục. Những
mảnh máu cục này có thể tung đi các nơi theo dòng máu và gây nên tắc mạch.
Ở giai đoạn cuối cùng, các mảng vữa xơ ngày càng nhiều, diện tích
ngày càng lớn, các mảnh calci hoá có xu hướng nối tiếp nhau, đồng thời tổ
chức xơ cũng phát triển ngày càng rộng. Thương tổn đến giai đoạn này sẽ
không hồi phục được, làm hẹp dần lòng động mạch, cản trở tuần hoàn, và khi
bít tắc động mạch sẽ gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả của các mảng vữa xơ ở giai đoạn cuối gây nên tắc mạch hư tổn
ì. Tắc do vữa xơ động mạch có thể do bản thân

ở tế bào, các

V

M u ả n D ần th ụ a i l d ttóe lìOi'


18


động mạch bị mảng vữa xơ bít lại nhưng cũng có thể do các mảnh vụn của
mảng vữa xơ hay của cục huyết khối tung đi các nơi xa làm tắc mạch ở chỗ
khác. Hậu quả tức thì là làm ngưng ngay lưu lượng máu ỏ phía dưới. Khi tuần
hoàn ở chỗ ấy ngừng thì sẽ hình thành tuần hoàn bàng hệ ở xung quanh. Ngay
dưới chỗ tắc mạch, sẽ hình thành một cục huyết khối ứ đọng do trì trệ tuần
hoàn ở đó. Cục huyết khối ứ đọng sẽ kéo dài dần xuống phía dưới và vì thế có
thể làm bít tắc cả những mạch máu bàng hệ vừa mới hình thành. Tinh trạng đó
làm bệnh nặng hơn lên.
Thiếu máu nuôi dưỡng do vữa xơ động mạch sẽ dẫn đến thiếu oxy tế
bào, làm hư tổn tế bào. Nếu mạch bị tắc hoàn toàn, phần tế bào ở vùng thiếu
máu nặng sẽ bị phá huỷ, gọi là nhồi máu. Có hai loại thiếu máu cục bộ: loại
thứ nhất là thiếu máu gây thương tổn màu trắng bệch, hay gặp ở những cơ
quan được nuôi dưỡng bằng những động mạch tân tạo, không có nhánh nối.
Mô ở đây bị thiếu oxy trầm trọng, thương tổn hoại tử ở đó sẽ dần dần trở
thành sẹo. Loại thứ hai là loại có thương tổn hoại tử màu đỏ, xảy ra khi động
mạch bị cục huyết khối gây tắc đột ngột. Vùng hoại tử này dày đặc hồng cầu.
Khi một động mạch hẹp dần, rồi đi đến tắc nghẽn sẽ xảy ra tình trạng
chênh lệch áp lực giữa vùng trước và vùng sau chỗ tắc, do đó tạo ra điều kiện
để hình thành một mảng lưới tuần hoàn bàng hệ. Màng lưới tuần hoàn bàng hệ
đủ đảm bảo cho sự tưới máu vùng sau chỗ tắc trong điều kiện huyết áp bình
thường. Nhưng nếu huyết áp tụt, tuần hoàn bàng hệ sẽ không còn đủ nữa.
1.1.6. Xét nghiêm sử dung trong vữa xơ đỏng mach
1.1.6.1. Lipid toàn phần huyết tương
Lipid toàn phần huyết tương bao gồm các thành phần cholesterol,
triglycerid, phosphatid ở huyết tương. Khi lipid toàn phần thay đổi sơ bộ phản
ảnh sự rối loạn chuyển hoá lipid nhưng việc xác định một số thành phần quan

M u ộ n o à n t h ạ c ũ tliíđử h o e



19

trọng, như cholesterol và lipid, sẽ giúp hiểu sâu vể cơ chế của sự rối loạn, giúp
cho việc chẩn đoán, điều chỉnh các rối loạn đó.
Để định lượng lipid toàn phần có thể dùng phương pháp cân, phương
pháp oxy hoá bằng hỗn hợp sulfochromic hoặc phương pháp so mầu với thuốc
thử sulfophosphovanilic [32].
1.1.6.2. Cholesterol huyết tương
Cholesterol là thành phần lipid có nhân sterol khá quan trọng trong
chuẩn đoán vữa xơ động mạch. Cholesterol máu gồm một phần là cholesterol
tự do (có cùng nồng độ ở huyết tương và hồng cầu); một phần là ester hóa
(cholesterid) chỉ có ở huyết tương và chiếm khoảng 70% cholesterol toàn
phần.
Hằng số cholesterol toàn phần ở người Việt Nam là: 3,5- 4,5 mmol/1.
Để định lượng cholesterol toàn phần thường dùng các phản ứng lên mầu
Lieberman- Burchard, Salkowski, phản ứng lên mầu với ferric clorua hoặc
bằng phương pháp enzym.
Phương pháp với cholesterol ester hoá phải tách riêng cholesterol tự do
(bằng làm tủa với digitonin hoặc tách bằng sắc ký) [32].
1.1.6.3. Triglycerid
Triglycerid (lipid trung hoà, triacylglycerol) ở huyết tương thường tham
gia trong thành phần của các lipoprotein và là một trong các yếu tố khi tăng sẽ
gây thêm nguy cơ vữa xơ động mạch, bệnh mạch vành, viêm tụy, đái tháo
đường. Theo dõi triglycerid cần thiết cho chuẩn đoán phân biệt các thể tăng
lipid máu [32].
Chỉ số triglycerid bình thường nằm trong giới hạn từ 1,71- 3,42 mmol/1.
Phương pháp định lượng triglycerid, có thể:

Muôn Uíĩii flui(' li dittìt' hút.



×